Hoa Tư dẫn - Phần II - Chương 4 - Phần 1

Chương
4

Ngày hôm sau trời nổi gió nam, gió thổi từ Triệu quốc đến
Trịnh quốc, cũng chính là lộ trình chúng tôi định đi. Nếu đi bằng thuyền sẽ thuận
chiều gió, nhanh hơn nhiều. Tôi và Mộ Ngôn đều cho rằng, so với đi tìm Thập Tam
Nguyệt theo kế hoạch đã định thì thà lẳng lặng đi theo Oanh Ca biết đâu lại tìm
ra manh mối sớm hơn.

Nhưng Oanh Ca lại đi đường thủy ngược chiều gió từ Trịnh đến
Triệu, lẽ ra có thể cưỡi sóng đạp gió lướt băng băng cuối cùng lại chịu cảnh nhích
từng bước. Lại còn một khó khăn khác, chính là lúc này chỉ có một chuyến thuyền
đi Triệu quốc, việc theo dõi Oanh Ca chắc chắn rất dễ bị phát hiện.

May có Mộ Ngôn thân thủ khá trên đường đi mới không bị mất
mục tiêu. Oanh Ca đang lơ đãng đứng tựa lan can thuyền, đầu đội mũ sa rộng, từng
lớp rèm sa màu tím mỏng dài xung quanh vành mũ rủ xuống tận đầu gối, bao bọc khuôn
dung và vóc dáng yêu kiều, chỉ lộ một đường chân váy màu tím bạc và suối tóc dài
chấm gót chân.

Tôi hơi ngạc nhiên, đêm qua dưới ánh nến mờ, quả thật không
nhận ra mái tóc cô lại dài như vậy. Hơn nữa hôm nay dáng điệu và trang phục của
cô lại ung dung trang nhã đến thế, giống hệt tiểu thư quý tộc của một gia đình gia
giáo nghiêm khắc, trang trọng đi du ngoạn, có lẽ ăn vận như vậy là để tránh kẻ thù.
Nếu không theo sát suốt dọc đường, chắc tôi đã không thể tin cô tiểu thư kiêu sa
trước mặt chính là sát thủ áo tím đã kề dao vào cổ tôi đêm qua.

Lúc sắp xuống thuyền, Mộ Ngôn giữ tôi lại, nói là cần đi làm
một việc quan trọng. Tôi đành đứng đợi, lúc thuyền sắp nhổ neo mới thấy chàng xách
một cái lồng chim quay lại. Lồng chim bằng gỗ mun, trên chiếc cột đơn chạm trổ hoa
văn rất tinh xảo, bên trong có một con chim màu đen thoạt nhìn hơi giống quạ, nhưng
hai bên mỏ có đường viền màu đỏ tía, khác hẳn quạ.

Bước lên sàn thuyền, để không bị Oanh Ca phát hiện ra chúng
tôi đang bám theo cô, chúng tôi tìm một góc vắng ngồi hóng mát. Cảm thấy buồn tẻ
tôi ngồi trên ván thuyền bắt đầu ngắm nghía con chim đen trong lồng, ngắm một lúc,
hỏi Mộ Ngôn: “Vừa rồi huynh đi mua con chim này phải không? Huynh mua nó làm gì?”.

Chàng cúi đầu nhìn tôi, thong thả đáp: “Mua cho cô chơi, thích
không?”.

Lòng run run, tôi nắm chặt con hổ ngọc trong ống tay áo, sực
nhớ lần trước chàng dùng con hổ này để đổi lấy cái nhẫn ngọc của tôi, do dự một
hồi lâu, lại rụt rè hỏi: “Không phải huynh định dùng con chim quèn này để đổi con
hổ ngọc chứ?”.

Con chim quèn trong lồng mở to mắt, kêu éc một tiếng. Mộ Ngôn
ngây người, ánh mắt bắt gặp ánh mắt tôi, miệng nhoẻn cười.

Tôi lườm chàng, ngoảnh mặt đi: “Con chim quèn này chẳng đáng
tiền”.

Lời vừa dứt, túm lông vũ trên đầu con chim quèn dựng ngược,
nó xông về phía tôi kêu một tiếng. Tôi bực mình khẽ đẩy cái lồng ra xa, tay nắm
chặt con hổ ngọc, không biết thái độ của Mộ Ngôn thế nào.

Thực ra con hổ này tôi đã gần như cưỡng đoạt của chàng, cho
dù Mộ Ngôn đòi lại cũng đành chịu. Hơn nữa đây lại là món đồ quý, chàng có thể đòi
lại bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn trợn mắt: “Tuyệt đối không đổi đâu, tôi không
thích con chim quèn này tẹo nào”.

Con chim quèn kích động nhảy lên, đập cánh loạn xạ, kêu ầm
ĩ, mọi người trên thuyền đổ mắt nhìn lại, Mộ Ngôn kéo tôi đứng lên, lúng túng: “Vừa
cảm thấy trông cô ra dáng một cô gái giờ lại trẻ con rồi”.

Tôi nghĩ đây không phải là trò trẻ con, mà là cố chấp, những
bậc chân tu gọi là lòng tham, cho là xấu, nhưng lòng tham của tôi bé nhỏ như vậy,
ngoài làm tổn thương chút tình cảm của con chim đen xì đó, thật sự chẳng hại đến
ai, cho nên tuyệt đối chẳng có gì là xấu.

Tôi và Mộ Ngôn cuối cùng cũng sẽ xa nhau, tình cảm của tôi
với con hổ ngọc chính là tình cảm với Mộ Ngôn, theo cách nói văn chương có thể gọi
là gửi gắm tình cảm, nhưng có lẽ điều này không ai hiểu, mình tôi biết là được rồi.

Tôi nhìn Mộ Ngôn, tôi không biết chàng thích cô gái như thế
nào, tôi vẫn luôn muốn chàng nhìn thấy tôi trong dáng vẻ đẹp nhất, nhưng lúc nào
cũng không như ý, khiến chàng cảm thấy tôi bướng bỉnh, cảm thấy tôi chỉ là đứa trẻ.
Tuy là một người chết, không có tim tôi vẫn thấy đau lòng, quả là bất lực bởi không
biết nên làm thế nào.

Phía xa xa là trời xanh nước biếc, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi sịt
mũi tỏ vẻ phấn khởi, định chuyển chủ đề câu chuyện, bỗng bị chàng kéo mạnh vào lòng.
Má ép vào ngực chàng, Mộ Ngôn ôm rất chặt, khiến tôi muốn ngoái đầu cũng khó.

Lòng run run, ý nghĩ đầu tiên là Mộ Ngôn có lẽ cũng hiểu lòng
tôi, còn chưa kịp nảy sinh ý nghĩ thứ hai, giọng chàng đã từ trên đầu vọng xuống:
“Đừng động đậy”. Tiếp đó là tiếng cười rất nhỏ: “A Phất, người cô muốn tránh cũng
ở trên thuyền này”.

Tôi nép vào ngực chàng, vừa thất vọng thầm nghĩ mình đúng
là khéo suy diễn, vừa lục tìm trong đầu xem gần đây người mình muốn tránh là ai,
bất giác hỏi: “Huynh nói là ai?”.

Giọng chàng thản nhiên: “Bình hầu Dung Tầm”.

Tôi vội vàng chúi sâu hơn vào ngực chàng.

Trên sàn thuyền truyền đến những chấn động mạnh mẽ, đều tăm
tắp, chắc chắn phải là bốn người trở lên bước chân đều tăm tắp mới đạt hiệu quả
như vậy, tiếng bước chân từ sau lưng vọng lại, lát sau, Mộ Ngôn kéo tôi ra, đoàn
tùy tùng của Dung Tầm đã lên lầu trên của chiếc thuyền.

Tôi vô thức nhìn về phía Oanh Ca ngồi tựa mạn thuyền phía
xa, tưởng là lần này cố nhân tương phùng, có thể hé ra manh mối nào đó, nhưng cô
vẫn ngồi ung dung, cơ hồ không thay đổi.

Điều thần tình là ánh mắt Mộ Ngôn cũng đánh về phía Oanh Ca,
nhưng chỉ thoáng qua, cuối cùng quay lại nói vẻ dửng dưng: “Đừng nhìn, Dung Tầm
ở trên lầu, không chạm trán Oanh Ca cô nương”. Chàng hơi dừng, lại tiếp: “Trước
khi lên thuyền tôi nghe được một bí mật cung đình rất thú vị, có muốn nghe không?”.

Tôi vui vẻ gật đầu lia lịa.

Trong gió sông mang hơi lạnh, Mộ Ngôn kể cho tôi nghe bí mật
cung đình thú vị đó, cũng như mọi bí mật khác, thực ra chẳng có gì là bí mật, cũng
chẳng có gì thú vị, nhưng cái hay là do chuyện xảy ra đã lâu, tình tiết phức tạp,
tôi vẫn hào hứng lắng nghe.

Bí mật này truy về Trịnh hầu hai đời trước, tức là cha của
Cảnh hầu Dung Viên, ông nội của Bình hầu Dung Tầm.

Theo quy tắc Đại Triều, Trịnh quốc lúc đầu lập con trưởng
là người kế vị, chính là thế tử, cha của Dung Tầm, nhưng do lão Trịnh hầu là người
phúc dày, lập thái tử đã ba mươi năm vẫn không thấy dấu hiệu cưỡi hạc tây quy, khiến
cha Dung Tầm vô cùng sốt ruột, mưu hoạch đã lâu, cuối cùng vào một đêm tối trời
lặng gió quyết định phản loạn bức cung, kết cục tất yếu là bị giết, đại gia đình
thế tử bị lưu đày đến miền tây bắc xa xôi, bao gồm cả người con trai duy nhất -
Dung Tầm mới mười bốn tuổi văn võ song toàn nức tiếng vương đô.

Lão Trịnh hầu một đời phong lưu, con cái hàng đàn, nhưng đa
phần là gái, chỉ có bốn trai, trong đó hai người đã chết yểu, chỉ còn con trưởng
và con út. May con trưởng mặc dù phạm tội phản nghịch, nhưng con út Dung Viên xem
ra có tài kinh bang trị quốc hơn con trưởng. Năm sau, lão Trịnh hầu bố cáo thiên
hạ lập con út Dung Viên làm thế tử, trở thành người kế thừa vương vị sau này.

Năm đó, Dung Viên mười lăm tuổi, ngoài danh hiệu công tử đẹp
nhất Trịnh quốc còn được mệnh danh là Trịnh quốc đệ nhất đao thuật. Sau chuyện con
trưởng phản loạn bức cung, lão Trịnh hầu buồn phiền mãi, trở thành mối tâm bệnh
lớn, hai năm sau qua đời, Dung Viên mười bảy tuổi lên ngôi, trở thành Trịnh Cảnh
hầu.

Sau khi Cảnh hầu kế vị, rất thích tài năng của Dung Tầm, nhân
lúc quốc gia cầu hiền, liền triệu đại gia đình huynh trưởng từ miền tây bắc trở
về vương đô, vừa trấn áp, vừa trọng dụng. Dung Tầm quả không phụ lòng thúc thúc,
chức đình úy làm rất tốt, quan hệ chú cháu vô cùng hòa hợp, sáu năm trước, Dung
Tầm còn tặng thúc thúc một đại mỹ nhân, về sau được phong là Như phu nhân.

Nghe dân gian đồn, Dung Viên vốn lạnh tình quả dục lại tỏ
ra rất mực sủng ái mỹ nhân mà người cháu tiến cung, mỹ nhân đó trong lúc thưởng
cúc dưới sương khuya đã vô tình làm một câu thơ, “Cung viên thâm thâm nguyệt dung
dung”(*). Dung Viên bèn đổi tên cung của mỹ nhân đó thành Dung Nguyệt cung.

Còn Trịnh sử lại ghi Dung Nguyệt cung phu nhân sau khi vào
cung chưa đầy hai năm liền được phong chính cung phu nhân, phong hiệu Tử Nguyệt,
mẫu nghi Trịnh quốc. Có vẻ là một giai thoại phong lưu của vương thất, nhưng viễn
cảnh đẹp đó kéo dài không lâu, chưa quá một năm sau, Tử Nguyệt phu nhân luôn được
Cảnh hầu sủng ái lâm bệnh qua đời.

(*)
Nghĩa là trăng tràn đầy trong thâm cung.

Sau khi Tử Nguyệt phu nhân qua đời, Cảnh hầu phiền não bi
thương, cuối năm đó bệnh nặng quyết định nhường ngôi, do không có con trai bèn truyền
ngôi cho cháu ruột là Dung Tầm, năm sau tạ thế ở hành cung, tuổi mới hăm bảy.

Buổi tối hôm Cảnh hầu trở bệnh qua đời, hành cung Đông Sơn
bốc cháy dữ dội, lửa ngút trời, không chỉ hành cung cháy trụi ngay cả nửa núi anh
đào cũng cháy thành tro, ly kỳ hơn nữa là từ đó về sau anh đào ở Đông Sơn không
bao giờ ra hoa đỏ nữa.

Nghĩ lại cảnh trong mơ, Oanh Ca khuôn mặt xinh đẹp ửng hồng
nói với Dung Tầm: “Em sẽ trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”.

Nghĩ đến bóng cô loạng choạng dưới bầu trời lả tả cánh hoa
anh đào đỏ, tôi hỏi Mộ Ngôn: “Mỹ nhân mà Dung Tầm tặng Dung Viên sau được phong
Tử Nguyệt phu nhân chính là Oanh Ca phải không?”.

Chàng phe phảy cái quạt gật đầu: “Rõ ràng”.

Tôi băn khoăn: “Vậy cái chết của Tử Nguyệt phu nhân sau này
là thế nào?”.

Mộ Ngôn ngập ngừng: “Theo chiếu bố cáo với thiên hạ, Cảnh
hầu vì bệnh chủ động nhường ngôi, nhưng trước kia có tin đồn chính Bình hầu ép Cảnh
hầu thoái vị, nguyên do cũng vì một cô gái”. Chàng mím môi cười. Tôi rất thích cử
chỉ đó của chàng.

“Cô gái đó chính là Tử Nguyệt phu nhân. Đây quả là một tin
thú vị, nhưng không biết thật giả thế nào, nghe đồn Bình hầu đã kề kiếm vào cổ Cảnh
hầu, hỏi Cảnh hầu một câu: ‘Tôi đã trao nàng nguyên vẹn cho thúc, tại sao thúc lại
giày vò nàng tan nát’, thì ra ngày xưa vẫn cho là một đồ vật, hôm nay mới biết là
một mỹ nhân”.

Tôi lẩm bẩm: “Nhưng chàng ta đã đem cô ấy tặng người khác,
còn trách ai? Tôi thật không thể hiểu, nếu có người bảo tôi đem người trong lòng
tặng cho kẻ khác, đánh chết tôi cũng không chịu”.

Mộ Ngôn liếc tôi: “Sao? Không chịu đem ai đi tặng?”.

“Chàng chứ ai”, mấy chữ đó đã ở trong miệng, ngập ngừng một
lát, dưới cái nhìn ý tứ mập mờ của chàng, tôi đổi giọng: “Tiểu Hoàng...”.

Cái quạt đập lên đầu tôi: “Lại nói bừa”.

Phía xa núi trập trùng nhấp nhô, sương khói vấn vít, khu rừng
cây trên núi thấp thoáng trong sương. Mộ Ngôn lơ đãng nói: “Con người ta thường
có rất nhiều ước vọng, nhưng trở thành hiện thực không nhiều, cho nên cần phân ra
cái gì cần nhất, cái gì tương đối cần, cái gì có thể có, có thể không...”.

Tôi nghĩ một lát: “Ý huynh là chỉ cần đạt được cái mình cần
nhất?”.

Chàng cười: “Không, cái cần nhất và cái tương đối cần đều
phải đạt được, bởi vì biết đâu có một ngày nào đó cái tương đối cần lại trở thành
cái cần nhất, còn cái cần nhất lại tự biến thành thứ chẳng có ý nghĩa gì. Ví như
Bình hầu, lúc đầu đem Oanh Ca cô nương tặng cho người khác có lẽ cảm thấy Oanh Ca
cô nương không quan trọng lắm”.

Tôi nhìn chàng: “Ý huynh nói nếu huynh là Dung Tầm sẽ không
mang Oanh Ca đi tặng, nhưng Oanh Ca không phải là thứ quan trọng nhất của huynh
cơ mà?”.

Chàng phe phảy quạt như cười như không nhìn tôi: “Ai nói cái
quan trọng nhất chỉ có một?”.

Tôi hiểu lơ mơ, nhưng chàng không nói gì nữa.

Nhìn về phía mui thuyền, Oanh Ca không biết đã đi đâu, thuyền
ra giữa sông, gió mạnh dần, tôi tìm một chỗ vắng, lấy mặt nạ da người đeo lên mặt,
Mộ Ngôn ngắm nghía nói: “Đây là khuôn mặt thật của cô sao?”. Tôi nghĩ, nếu không
có vết sẹo trên đầu đó, khuôn mặt tôi còn đẹp hơn nhiều, nhưng nghĩ lắm ích gì,
quá khứ tốt đẹp nên quên hết thì hơn, để khỏi thêm buồn.

Tôi lắc đầu: “Không, tôi rất xấu, không muốn để ai nhìn thấy”.

Thực ra tôi chỉ không muốn để chàng nhìn thấy.

Bước lên lầu hai, nhìn thấy Dung Tầm toàn thân áo tím ngồi
dựa lan can chạm trổ hoa văn, uống rượu một mình. Đây là quân vương Trịnh quốc,
lúc này lại xuất hiện trên chiếc thuyền bình dân ở biên giới Trịnh, Triệu, thật
là điều khó tưởng tượng. Cẩm Tước, Oanh Ca, Dung Tầm, tất cả lần lượt xuất hiện
trước mắt tôi, giống như một lớp kịch đã diễn xong, lại giống như đóa hoa mùa thu
chưa nở hết đã tàn, có gì đó khiến người ta muốn kêu lên, khiến người ta muốn dừng
lại cũng không được, nhưng vẫn không tìm ra bất cứ manh mối nào.

Dung mạo của Dung Tầm phía trước vẫn tuấn lãng đoan nghiêm
như trong giấc mơ của Oanh Ca, những ngón tay dài cầm chiếc cốc gốm Long Tuyền màu
xanh trông thanh tao nho nhã như nét cọ trong tranh thủy mặc.

Tôi vẫn chưa tìm được chỗ ngồi, đột nhiên nghe thấy dưới lầu
có tiếng ẩu đả liền nhìn xuống, mặt nước sông bên ngoài sàn thuyền đục ngầu, vọt
cao cả trượng, khách trên thuyền kinh sợ tản ra tứ phía, dưới sông đột nhiên vọt
lên mấy sát thủ áo đen bịt mặt. Thích khách áo đen thế hung mãnh, lưỡi kiếm lạnh
lùng ép về phía cô gái áo tím dáng yêu kiều trên thuyền.

Tôi đã nhìn thấy Oanh Ca giết người không chỉ một lần. Nhưng
đây là lần đầu nhìn thấy cô giết người bằng trường đao, bóng thanh đao dài hẹp lóe
như tia chớp từ không trung thu về, tư thế vẫn không đổi, nhưng đều là nhát đao
chí mạng, chính là chiêu thức Dung Viên đã dùng dưới tán anh đào.

Ngọc thạch màu lam khảm trên chuôi đao lóe lên lóng lánh trong
chùm tia nước trắng xóa bắn lên từ dưới sông, tương phản với màu đỏ tươi của máu
vọt ra từ cổ người áo đen, tạo nên một vẻ đẹp yêu ma. Còn Oanh Ca toàn thân áo tím
vẫn ung dung đứng trên mũi thuyền, trông tựa bức sa nhẹ rủ trên mũi thuyền, mũi
trường đao chạm đất, giết chết sáu người, thanh đao sắc chỉ dính một vết máu nhạt,
quả là thanh đao tốt.

Xung quanh sặc mùi máu tanh, nhưng trên người cô lại không
một vết máu. Một thủ pháp giết người sạch tinh nhanh gọn.

Tìm được chỗ quan sát, tôi và Mộ Ngôn đều nhìn chăm chú, chỉ
tội cho một số khách trên thuyền sợ run lập cập, trong gió đã có hơi lạnh, trời
sắp mưa, trời nước tĩnh lặng. Trong cái tĩnh lặng mênh mông, tiếng cười của Oanh
Ca đột nhiên vang lên lạnh như nước: “Tại hạ đã được giáo huấn sát nhân cũng là
một nghệ thuật, phải nhanh và gọn, đó là chính cái đẹp của sát nhân. Hôm nay chúa
thượng các ngươi cử đến nhiều người như vậy để giết một tiểu nữ yếu đuối, tha lỗi
cho tại hạ không chú ý tới vẻ đẹp của sát nhân”.

Một tiếng “choang” vang lên, tôi ngoái nhìn, thấy Dung Tầm
bàn tay vẫn giơ ra như nắm cốc rượu, nhưng trong tay lại chẳng có gì, trên nền những
mảnh gốm xanh vỡ nát, ánh mắt chàng ta theo dõi sát Oanh Ca chiến đấu với những
người áo đen, khuôn mặt lạnh băng lộ vẻ thất kinh.

Oanh Ca đã phóng lên không, bóng trường đao lại lóe lên trong
chùm tia nước vọt cao, dáng cô phóng lên giống như con bướm tím phá kén chui ra.
Tôi dựa sát vào Mộ Ngôn: “Cô ấy sẽ bị thương”, mối lo của tôi chưa bao lâu đã được
giải tỏa khi thâyấy Dung Tầm cùng mấy hộ vệ mặc thường phục bên cạnh Dung Tầm nhảy
xuống tầng một tham chiến. Tôi chăm chú nhìn Oanh Ca, mặc dù đã thấy Dung Tầm tham
chiến, tay cô vung trường đao vào người áo đen vẫn không một chút bối rối. Cô quả
là một sát thủ đầy bản lĩnh.

Khi người áo đen cuối cùng mất mạng rơi xuống nước dưới trường
đao của Oanh Ca, trường kiếm trong tay Dung Tầm lại lật trở lại hướng vào mũ sa
của cô, cự ly nửa cánh tay, vốn không thể sơ sẩy, nhưng cô đã khéo léo xoay người
đứng trên mép thuyền, sau lớp mạng không nhìn rõ nhưng có lẽ cô đang quan sát người
đàn ông trước mặt. Gió sông ù ù, rèm sa bay phần phật, tựa như có một dải mây màu
tím bỗng hé ra ở đường chân trời lúc ngày tàn.

Trường đao trong tay cô kề cổ Dung Tầm, chàng ta tiến lại
gần, chỗ lưỡi đao cứa vào da rỉ ra một vệt máu. Trong tiếng gió ù ù vị công tử phong
lưu hơi cau mày, nói như than: “Là em sao, Nguyệt nương?”. Thanh đao trong tay cô
thu lại, không trả lời, quay người nhảy xuống mặt sông sủi nước đục ngầu, Dung Tầm
vội giơ tay kéo lại, nhưng chỉ túm được một mảnh rèm sa. Một tiếng ùm vang lên,
thị vệ bên cạnh kêu to: “Mau cứu lão gia, lão gia không biết bơi!”.

Tôi đứng ngây ra nhìn, tất cả cảnh tượng vừa diễn ra chỉ có
thể mô tả bằng ba chữ “thật tuyệt vời” rồi lập tức lại nghĩ hỏng rồi, “Chúng ta
đã mất dấu vết Oanh Ca”.

Mộ Ngôn đã ngồi xuống rót trà vào cốc, nói vẻ nghiêm túc:
“Oanh Ca cô nương mặc dù là sát thủ cao cường, nhưng với trình độ theo dõi của tôi,
có lẽ không thành vấn đề, vấn đề là vướng cô, trình độ phải chia đôi, thực lực giảm
không ít...”.

Tôi buông chiếc cốc quay người đi xuống lầu: “Núi cao không
đổi, sông dài vẫn chảy, hôm nay chia ly, sẽ là mãi mãi”. Bị chàng kéo lại, “Tôi
không định theo cô ta suốt dọc đường, một sát thủ như vậy, chỉ cần cô ta hơi sinh
nghi là lập tức thoát khỏi chúng ta, như vậy chẳng phải bao công sức vừa rồi đi
tong, cho nên mới mua con ly nha (quạ đen) này, cô có nghe nói thuật theo dõi bằng
cách dùng bột hoa tây mộc chưa, giấu bột đó trong người kẻ bị theo dõi, dù người
đó đến chân trời góc bể con ly nha này cũng sẽ theo mùi hoa mà tìm được gọi là truy
tung thuật (thuật theo dõi)”.

Tôi lắc đầu: “Chưa từng nghe nói đến truy tung thuật”.

Chàng gật đầu: “À, cũng phải thôi, đó là thuật theo dõi do
tổ tiên chúng tôi truyền lại, người ngoài làm sao biết”.

Tôi “...”.

Thuyền cập bến, chỉ thấy Dung Tầm, không thấy Oanh Ca.

Địa điểm đến là thành Tùy Viễn ở biên giới Triệu quốc, chúng
tôi đi vào thành, chờ Oanh Ca đến, nghe Mộ Ngôn nói, nếu Oanh Ca vào thành, con
ly nha nhất định sẽ có phản ứng. Nhưng điều rắc rối là, nếu gặp ly nha mái con ly
nha trống trong lồng cũng có phản ứng như vậy, thật hết cách, đành chờ xem sao,
bởi vì loài chim hiếm này đâu dễ gặp.

Tôi cảm thấy nếu đi lâu dài với chúng tôi, nhất thiết phải
đặt cho con ly nha một cái tên, nghĩ một lát, tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh thấy gọi nói
là Tiểu Hắc được không?”.

Chàng trợn mắt “Cô dám”.

Mới sực nhớ ra, hồi đầu tôi đặt tên cho chàng là Tiểu Lam.

Sau đó không lâu, lại nhận được thư của Quân Vỹ do chim bồ
câu đưa đến. Mộ Ngôn tỏ ra kinh ngạc khi thấy tôi có thể nhận được thư trên đường
đi, nhưng cơ chế vận hành của con bồ câu thực ra cũng gần như con ly nha của chàng,
như vậy cũng dễ giải thích. Tôi mở thư ra xem. Nét chữ rồng bay phượng múa, vẫn
mở đầu như sau:

“A Phất tiểu muội của
huynh, xa cách bấy lâu, huynh nhớ muội vô chừng, muội có nhớ huynh chăng?

Ngủ trưa chiêm bao, mơ thời thơ ấu, huynh đến vương đô thăm
muội, tay trái dắt Tiểu Hoàng tay phải cầm cây thương, tứ bề quạnh quẽ, lệ rơi hàng
ngàn. Buồn thay!

Mấy hôm trước ngủ trưa, vẩn vơ nhớ muội, từ mắt đến tim, nhớ
nhung chở mấy thuyền cho đặng, đang lúc mơ màng túi tiền bị người ta lấy mất...

Huynh nghĩ rất nhiều, chuyện này muội tự làm, muội nên tự
chịu...”.

Mộ Ngôn hỏi: “Viết gì vậy?”. Tôi nói: “Anh ta ngủ trưa, không
cẩn thận bị kẻ trộm lấy mất tiền, sau đó Tiểu Hoàng không chịu mãi nghệ, anh ta
đành đem Tiểu Hoàng cầm cố cho một vườn thú, bảo tôi dùng con bồ câu này chuyển
ngân phiếu cho anh ta”.

Mộ Ngôn lục hầu bao lấy ngân phiếu, tôi ngăn lại: “Không cần”.
Tôi viết hồi âm cho Quân Vỹ: “Nội trong mười ngày nếu không chuộc Tiểu Hoàng ra,
muội sẽ bán huynh cho câu lan viện, mong huynh sớm lo liệu”. Đợi thư khô mực, cuộn
lại cho vào ống trúc nhỏ, buộc vào chân chim bồ câu thả cho bay, chuyện vậy là giải
quyết êm đẹp.

Chúng tôi thu xếp chỗ ở trong thành Tùy Viễn, ở liền năm ngày.
Chập tối ngày thứ năm, con ly nha trong lồng bỗng hưng phấn khác thường, có thể
quanh đây xuất hiện con ly nha mái, cũng có thể cuối cùng Oanh Ca đã vào thành,
quả thật không biết thế nào.

Mộ Ngôn lặng lẽ quan sát màn đêm xung quanh, mở lồng chim,
con ly nha lập tức xông ra, giương cánh bay vút lên, chúng tôi đuổi theo sau. Tôi
thấp thỏm, không nén nổi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh nói xem, sao nó kích động thế? Có phải
đã đánh hơi thấy bạn tình?”.

Mộ Ngôn không ngoái đầu: “Sao có thể”.

Tôi thở dốc chạy theo chàng: “Nhỡ thật thì sao”.

Chàng thản nhiên: “Thì làm thịt nó hầm cho cô ăn”.

Con ly nha trên trời giật mình kêu oác một tiếng.

Một canh giờ sau, quả nhiên phát hiện Oanh Ca ngã gục trên
đám cỏ ở ven sông, toàn thân ướt sũng, cũng không biết năm ngày vừa rồi đã xảy ra
chuyện gì.

Tôi còn nhớ vết thương trên vai cô, vội mở lớp vải băng dính
kết, thấy một vết thương rất đáng sợ đã trắng nhợt vì ngấm nước sông.

Đêm đó chúng tôi ở lại một y quán phía bắc thành.

Lão đại phu trong y quán kiểm tra vết thương, lấy ra thuốc
tốt nhất, đem sắc với nhân sâm dùng thìa bón từng miếng cho Oanh Ca. Bón được quá
nửa bát thuốc, cô vẫn chưa tỉnh, cơn sốt vẫn chưa hạ, trong mê sảng miệng liên tục
lắp bắp nói gì chúng tôi không hiểu, dường như đang rơi vào ác mộng khủng khiếp
nào đó.

Lão đại phu nói đại ý rằng nếu sáng hôm sau cô nương này vẫn
không tỉnh, thì chỉ còn cách ra cổng sau rẽ phải, bên hàng xóm có cửa hiệu bán quan
tài, cũng kiêm luôn lo liệu tang sự.

Chúng tôi hiểu ý tốt của lão đại phu, nhưng Oanh Ca tuyệt
đối không thể chết ở đây. Cô chết, trước hết chúng tôi phải mua quan tài, sau đó
đi tìm mua chỗ chôn cất, thuê người đào huyệt... việc nào cũng phải bỏ tiền, thật
hậu họa vô cùng. Kế sách hiện nay là vẫn dùng kế cũ, đi vào giấc mơ của Oanh Ca,
đưa cô ra khỏi ác mộng trước bình minh.

Tôi cảm thấy yêu một người nhất thiết phải trân trọng người
đó, có nghĩa là không thể để Mộ Ngôn gặp bất kỳ nguy hiểm nào, nhưng tôi vẫn không
kìm được đưa chàng vào mộng cảnh đầy nguy hiểm, điều đó làm tôi sợ, tôi biết trong
tiềm thức, tôi vẫn muốn để chàng chết, chỉ không ngờ lý trí đã bị tiềm thức đánh
bại nhanh như thế.

Nói cách khác, lý trí con người xưa nay đa phần không thắng
nổi tiềm thức. Thắng được tiềm thức họa chăng chỉ có những bậc tu hành.

Đã nghe thấy tiếng mõ, bước qua kết mộng lương nhìn về xa,
không như cảnh đổ nát chia ly lần trước, lần này giấc mộng của Oanh Ca rất liền
mạch cũng rất rõ ràng.

Nhất định phải tìm ra bí ẩn trong nội tâm của cô, hóa giải
bí ẩn đó, mới có thể đưa cô trở về thuận lợi, chúng tôi không thể không bỏ thời
gian lần theo dấu vết câu chuyện. Trong lòng bao hồ nghi thắc mắc, có những điều
đã được giải đáp, nhưng vẫn chưa thể làm rõ bí ẩn của Oanh Ca thực ra là gì, mỗi
nút thắt của câu chuyện này xem ra đều có khả năng giúp tìm ra bí ẩn đó. Đó chính
là số phận của một sát thủ, một số phận bi thảm như thế nhắc người đời quả thật
không thể suốt đời sống bằng nghề sát thủ.

Câu chuyện bắt đầu từ năm thứ bảy sau khi Trịnh Cảnh hầu lên
ngôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3