Giao Lộ Sinh Tử - Chương 23 - 24
CHƯƠNG
23
Stormy và tôi ngồi tại cái bàn đặt trong
góc quán rượu nhưng chúng tôi không gọi thức uống. Tôi đã chếnh choáng vì sợ hãi.
Tôi muốn đưa nàng ra khỏi bãi chơi
bowling. Nàng không muốn đi.
“Chúng mình phải xử lí tình huống này,”
nàng nhấn mạnh.
Cách duy nhất tôi có thể xử lí chuyện
này là gọi điện thoại cho cảnh sát trưởng Wyatt Porter và kể cho ông nghe, kèm
một chút lí giải, rằng khi Bob Robertson tổ chức tiệc đánh dấu việc chính thức
trở thành kẻ sát nhân điên loạn thì địa điểm của buổi trình diễn ra mắt có khả
năng là Green Moon Lanes.
Sau một ngày làm việc vất vả, bụng phình
to do thịt nướng và bia, mệt mỏi và sắp sửa đi ngủ nhưng cảnh sát trưởng vẫn
phản ứng bằng sự nhạy bén và đầu óc minh mẫn đáng nể. “Ở đó mở cửa đến lúc
nào?”
Đặt điện thoại bên tai phải, ngón tay
bên tai trái để chặn tiếng ồn ở bãi chơi, tôi nói, “Con nghĩ là đến nửa đêm.”
“Hơn hai tiếng một chút. Bác sẽ phái
ngay một sĩ quan đến đảm bảo an ninh đề phòng tên Robertson. Nhưng con trai
này, con nói sự việc được ghi nhớ vào ngày mười lăm tháng Tám mà, là ngày mai,
không phải hôm nay.”
“Đó là ngày trên tờ lịch để trong tài
liệu của gã. Con không rõ nó có ý nghĩa gì. Con không chắc chuyện sẽ không xảy
ra hôm nay mà phải đợi đến hết hôm nay và gã chưa bắn một ai.”
“Mấy thứ mà con gọi là ông kẹ có ngoài
đó không?”
“Dạ không. Nhưng bọn chúng có thể xuất
hiện khi gã ló mặt ra.”
“Gã chưa trở về ngôi nhà ở Camp’s End,”
cảnh sát trưởng nói, “nên gã còn ngoài kia, đi lung tung. Món churro thế nào?”
“Cực ngon,” tôi đáp.
“Sau món thịt nướng, bác vất vả lựa chọn
giữa bánh sôcôla và bánh đào tự chế biến ở nhà. Bác nghĩ ngợi kỹ càng và ăn hết
cả hai.”
“Nếu con từng có được cảm giác trên
thiên đường thì đó chính nhờ miếng bánh đào của bác gái.”
“Bác cưới bác gái chỉ vì món bánh đào
nhưng may bác gái lại còn thông minh và xinh đẹp.”
Chúng tôi chào tạm biệt. Tôi kẹp điện
thoại chỗ thắt lưng và nói với Stormy là chúng tôi cần đi khỏi đây.
Nàng lắc đầu. “Khoan. Nếu cô phục vụ tóc
vàng không ở đây thì vụ bắn giết sẽ không xảy ra.” Nàng vẫn giữ giọng khe khẽ,
nghiêng người để nói át tiếng va chạm và rơi đổ của trò bowling. “Vậy bằng cách
nào đó chúng mình đưa cô ấy đi khỏi đi.”
“Không. Điềm báo trong giấc mơ không
phải chính xác từng chi tiết những việc sẽ diễn ra. Cô ấy ngồi nhà an toàn
nhưng dù vậy, tên bắn súng có thể xuất hiện.”
“Nhưng ít ra cô ấy sẽ được cứu. Bớt đi
một nạn nhân.”
“Một người khác lẽ ra không chết lại có
thể bị bắn ở chỗ của cô ấy. Chẳng hạn như người phục vụ làm thay cô ấy. Hoặc
anh hoặc em.”
“Có thể vậy.”
“Đúng, có thể vậy, làm sao anh cứu được
ai nếu rất có thể điều đó có nghĩa là kết tội cho người khác?”
Ba bốn trái banh liên tiếp đâm sầm vào
hàng ki dựng sẵn. Tiếng ồn nghe hơi giống loạt súng tự động, và tuy biết đó
không phải tiếng súng, tôi vẫn co rúm.
“Anh không có quyền quyết định người
khác chết thay cho cô ấy.”
Những giấc mơ báo điềm và những lựa chọn
phải trái phức tạp mà giấc mơ đưa ra, chỉ hiếm khi đến với tôi. Tôi thật biết
ơn điều đó.
“Vả lại,” tôi nói, “cô ấy sẽ phản ứng ra
sao nếu anh đi lại quầy rượu nói rằng cô ấy sẽ bị bắn chết nếu không ra khỏi
đây?”
“Cô ấy sẽ nghĩ anh quái đản hoặc nguy
hiểm nhưng cô ấy sẽ đi.”
“Không đâu. Cô ấy sẽ ở lại đó. Cô ấy sẽ
không muốn đánh liều mất việc, sẽ không muốn tỏ ra sợ hãi vì như thế khiến cô
ấy trông yếu đuối và ngày nay phụ nữ không muốn tỏ ra yếu đuối nhiều hơn đàn
ông. Sau đó cô ấy có thể nhờ ai đó đi cùng ra xe nhưng chỉ thế thôi.”
Stormy nhìn chằm chằm cô gái tóc vàng
sau quầy rượu trong lúc tôi nhìn bao quát căn phòng xem có ông kẹ nào đến trước
tên đao phủ không. Không ai ở đây ngoài hai đứa tôi.
“Cô ấy quá đẹp, tràn trề sức sống,”
Stormy nói, ám chỉ người phục vụ. “Rất cá tính, đúng là một nụ cười có sức lan
tỏa.”
“Cô ấy trở nên sinh động hơn trong mắt
em vì em biết số cô ấy có thể bị chết trẻ.”
Stormy nói, “Có vẻ sai trái khi đi khỏi
và bỏ cô ấy lại đây mà không cảnh báo, không cho cô ấy một cơ hội.”
“Cách tốt nhất để cho cô ấy một cơ hội
và cho tất cả những ai có thể thành nạn nhân một cơ hội, là ngăn chặn Robertson
trước khi gã làm bất cứ điều gì.”
“Anh ngăn chặn được gã thì sẽ thế nào?”
“Tốt đẹp như khi gã chưa vào Quán Vỉ
nướng sáng nay và anh chưa nhìn thấy gã với đám tùy tùng ông kẹ.”
“Nhưng anh không thể chắc chắn ngăn chặn
được gã.”
“Trên đời này không có gì là chắc chắn
hết.”
Dò xét ánh mắt của tôi, nàng nghĩ ngợi
câu tôi vừa nói rồi nhắc nhở.
“Ngoại trừ chúng ta.”
“Ngoại trừ chúng ta,” tôi đẩy ghế ra
khỏi bàn. “Đi thôi.”
Vẫn nhìn chằm chằm cô gái tóc vàng,
Stormy nói, “Chuyện này quá nghiệt ngã.”
“Anh biết.”
“Quá bất công.”
“Cái chết chẳng phải thế là gì?”
Nàng nhổm dậy khỏi ghế. “Anh sẽ không để
cô ấy chết phải không, Odd?”
“Anh sẽ làm những gì có thể.”
Chúng tôi ra ngoài, hi vọng rời khỏi trước
khi viên cảnh sát được cử đi đến nơi và tò mò về sự dính líu của tôi.
Không ai trong lực lượng cảnh sát của
thị trấn Pico Mundo hiểu mối quan hệ của tôi với cảnh sát trưởng Porter. Họ cảm
thấy có điều gì đó khác biệt về tôi nhưng họ không nhận ra cái tôi thấy, cái
tôi biết. Cảnh sát trưởng bao che kỹ cho tôi.
Nhiều người nghĩ tôi xun xoe cảnh sát
trưởng Wyatt Porter vì tôi muốn thành cảnh sát. Họ cho rằng tôi khao khát sức
hấp dẫn của nghề cảnh sát nhưng tôi không có trí thông minh hay lòng gan dạ để
làm nghề này.
Đa số mọi người tin rằng tôi xem cảnh
sát trưởng như hình tượng người bố vì bố ruột của tôi là mẫu người hết thuốc
chữa. Quan điểm này có phần đúng.
Người ta đoán chắc cảnh sát trưởng
thương cho tình cảnh mười sáu tuổi, tôi đã không thể sống tiếp với cả bố hay mẹ
mà phải lăn lộn ra đời. Bởi vì ông Wyatt và bà Karla không thể có con nên người
ta nghĩ cảnh sát trưởng dành tình cảm người bố cho tôi và xem tôi là con trai.
Tôi được an ủi rất nhiều bởi sự thật điều đó có vẻ đúng vậy.
Thế nhưng là cảnh sát nên các thành viên
trong Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo cảm nhận theo bản năng rằng, họ thiếu
hiểu biết cốt lõi có thể nắm rõ hoàn toàn mối quan hệ của chúng tôi. Tương tự,
dù tôi tỏ ra không hề rắc rối và thậm chí còn đơn giản, nhưng họ vẫn xem tôi
như trò chơi ghép hình thiếu không chỉ một mảnh ghép.
Khi Stormy và tôi bước ra khỏi Green
Moon Lanes lúc mười giờ, một tiếng sau khi màn đêm phủ xuống, nhiệt độ tại thị
trấn Pico Mundo vẫn hơn một trăm độ[36]. Đến nửa đêm không khí có thể giảm
xuống thấp hơn con số nhiệt độ ba chữ số kia.
Nếu Bob Robertson phấn đấu tạo nên Địa
ngục Trần gian thì chúng tôi đã có khí hậu dành cho nơi đó.
Đi về phía chiếc Mustang của cô Terri
Stambaugh, tôi còn đang suy nghĩ về cô nhân viên tóc vàng có dấu hiệu sắp chết
thì Stormy lên tiếng, “Đôi lúc em không biết sao anh có thể sống được với tất
cả thứ anh nhìn thấy.”
“Cách nhìn nhận,” tôi nói với nàng.
“Cách nhìn nhận à? Nó hoạt động thế
nào?”
“Có ngày làm tốt, có ngày không.”
Nàng định nài nỉ tôi giải thích thêm
nhưng một chiếc xe tuần tra đã đến nơi, ghìm chân chúng tôi bằng đèn pha trước
khi chúng tôi tới được chiếc Mustang. Chắc chắn tôi sẽ bị nhận ra nên tôi đứng
tay trong tay với Stormy chờ chiếc xe dừng lại bên cạnh.
Simon Varner, viên sĩ quan nhận lệnh,
tham gia lực lượng mới ba bốn tháng, lâu hơn Bern Eckles, người nhìn tôi đầy vẻ
nghi ngờ tại bữa tiệc nướng của cảnh sát trưởng nhưng chưa đủ lâu để có lợi thế
dẹp bỏ được sự tò mò của anh ta về tôi.
Sĩ quan Varner có khuôn mặt hiền lành
như người dẫn chương trình thiếu nhi trên ti-vi đôi mắt với hàng mi dày giống
nam tài tử quá cố Robert Mitchum. Anh ta chồm ra cửa sổ để mở, cánh tay vạm vỡ
đặt trên thành cửa, trông như người làm mẫu cho nhân vật con gấu ngái ngủ trên
bộ phim hoạt hình nào đó của hãng Disney.
“Odd, thật vui gặp cậu. Chào cô Llewellin.
Tôi nên tìm kiếm gì ở đây nhỉ?”
Tôi chắc rằng cảnh sát trưởng không nhắc
đến tôi khi ông phái sĩ quan Varner đến trung tâm bowling. Khi tôi liên quan
đến vụ việc, ông chủ trương cố hết sức không đả động đến tôi, không bao giờ ám
chỉ đến những thông tin có được bằng cách thức phi phàm. Hướng hành động tốt
hơn ấy không chỉ bảo vệ bí mật của tôi mà còn đảm bảo không luật sư biện hộ nào
có thể dễ dàng gỡ tội cho kẻ sát nhân bằng cách khẳng định toàn bộ vụ việc gây
bất lợi cho thân chủ ông ta đều dựa trên lời nói của một tên xạo tự xưng là
người thần bí.
Mặt khác, vì sự xen vào của tôi ở bữa
tiệc nướng dẫn đến việc cảnh sát trưởng và Bern Eckles phải cố gắng cùng nhau
tìm ra tiểu sử sơ lược của Robertson nên Eckles biết tôi có mối liên kết nào đó
với tình huống này. Nếu Eckles đã biết thì sự việc sẽ lan ra khắp nơi; có thể
giờ câu chuyện đã nằm trong hệ thống truyền tin mật của Sở Cảnh sát.
Nhưng tốt nhất cứ chơi trò giả ngu. “Anh
nên tìm kiếm gì? Anh à, em không hiểu.”
“Tôi thấy
cậu, tôi đoán cậu đã nói với cảnh sát trưởng điều gì đó khiến ông cử tôi ra
đây.”
“Chúng em
chỉ xem vài người bạn chơi bowling thôi,” tôi lên tiếng. “Bản thân em chẳng hề
giỏi môn này.”
Stormy cất
giọng. “Anh ấy sở hữu cái rãnh.”
Varner lấy
từ ghế bên cạnh bức ảnh trong bằng lái xe của Bob Robertson đã được phóng to in
qua máy vi tính. “Cậu biết tên này, đúng không?”
Tôi đáp.
“Hôm nay em thấy ông ta hai lần. Em không thật sự biết ông ta.”
“Chẳng phải
cậu nói với cảnh sát trưởng rằng tên này có thể xuất hiện ở đây à?”
“Không phải
em. Sao em biết được ông ta xuất hiện ở đâu?”
“Cảnh sát
trưởng nói nếu tôi thấy hắn đi tới nhưng không nhìn thấy cả hai bàn tay của hắn
thì đừng nghĩ hắn chỉ đang lấy kẹo bạc hà làm thơm miệng ra khỏi túi.”
“Em sẽ không
nói khác cảnh sát trưởng.”
Một chiếc xe
Lincoln Navigator từ ngoài đường tấp vào dừng phía sau xe tuần tra của Varner.
Anh ta giơ cả cánh tay ra ngoài cửa sổ, vẫy chiếc xe SUV đó chạy vòng qua mặt.
Tôi thấy hai
người đàn ông trong chiếc xe Navigator. Không ai là Robertson cả.
“Sao cậu
biết tên này?” Varner hỏi.
“Trước buổi
trưa, ông ta đến Quán Vỉ nướng dùng bữa.”
Hàng mi hơi
nhướng lên khỏi cặp mắt gấu ngái ngủ. “Thế thôi à? Cậu nấu bữa trưa cho hắn hả?
Tôi tưởng... có chuyện gì đó xảy ra giữa cậu và hắn chứ?”
“Có chuyện,
không lớn lắm.” Tôi tường thuật ngắn gọn lại ngày hôm nay, bỏ qua những điều
Varner không cần phải biết. “Ông ta tỏ ra khác thường ở Quán Vỉ nướng. Lúc ấy
cảnh sát trưởng cũng có mặt, thấy ông ta kì quái. Rồi đến buổi chiều em xong
việc, ra ngoài đi quanh quẩn, lo chuyện riêng của em, thì ông Robertson này làm
cử chỉ gây sự với em.”
Hàng mi dày
của Varner trở thành lá chắn thu hẹp cặp mắt anh ta thành hai kẽ hở ti hí chứa
đầy sự hoài nghi. Bản năng mách bảo anh ta rằng tôi đang giấu giếm thông tin.
Anh ta không chậm tiêu như vẻ bề ngoài. “Gây sự ra sao?”
Stormy cứu
tôi khỏi lời nói dối ngắc ngứ bằng một câu trôi chảy. “Thằng cha kinh tởm đó gạ
gẫm tục tĩu với em, Odd bảo hắn cút xéo.”
Gã Nấm nhìn
không giống hạng người dê xồm mang ý nghĩ mọi phụ nữ đều khao khát gã.
Thế nhưng
Stormy quá ư xinh đẹp thu hút đến mức Varner, dù đang trong trạng thái ngờ vực
cũng tỏ ra tin rằng ngay cả một kẻ khù khờ như Bob Robertson sẽ dâng trào lượng
kích thích tố để cố thử vận may với nàng.
Anh ta nói.
“Cảnh sát trưởng nghĩ tên này phá hoại nhà thờ St. Bart. Tôi đoán cậu biết
chuyện đó.”
Nhằm đánh
lạc hướng thám tử Shelock lì lợm này. Stormy nói, “Sĩ quan Varner, tính tò mò
đang giết chết em. Anh có phiền không nếu em hỏi, hình xăm của anh có nghĩa gì
vậy?”
Anh ta mặc
áo sơ mi ngắn tay, để lộ bắp tay cuồn cuộn. Bên cánh tay trái phía trên đồng hồ
đeo tay có ba chữ viết rời nhau: QST.
“Cô Llewellin,
tôi rất tiếc phải nói rằng khi ở độ tuổi thiếu niên, tôi là một tên hợm hĩnh
thích khoe mẽ. Gia nhập băng đảng. Chuyển hướng cuộc đời trước khi quá muộn.
Tôi tạ ơn Chúa Jesus vì điều đó. Hình xăm này là một thứ thuộc băng đảng.”
“Những chữ
đó viết tắt cho từ gì vậy?” Nàng hỏi.
Anh ta tỏ vẻ
lúng túng. “Một từ tục tĩu thô thiển lắm, thưa cô. Tôi muốn không nói ra.”
“Anh có thể
xóa nó đi,” nàng nói. “Gần đây người ta có rất nhiều cải tiến trong việc đó.”
Varner nói,
“Tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Nhưng tôi giữ nó để nhắc nhở cho bản thân mình rằng
đã từng xa rời con đường chính đạo đến mức nào và việc thực hiện bước đi sai
lầm đầu tiên mới dễ làm sao.”
“Quá tuyệt
vời và quá đáng quý,” nàng thốt lên, cúi sát cửa sổ hơn như để nhìn cho rõ con
người mẫu mực kia. “Rất nhiều người viết lại quá khứ hơn là đối mặt với nó. Em
thật vui mừng khi biết chúng em có được những người như anh bảo vệ cho chúng
em.”
Nàng rót lời
đường mật quá êm ái đến mức nghe như thật tình.
Trong khi sĩ
quan Varner đang phơi mình trong lời tâng bốc cách sung sướng như cái bánh quế
nằm trong lớp bơ đánh tan, nàng quay sang tôi và lên tiếng, “Odd, em phải về
rồi, sáng mai em dậy sớm.”
Tôi chúc sĩ
quan Varner may mắn và anh ta không nhăm nhe tiếp tục tra hỏi tôi nữa. Anh ta
có vẻ đã quên mối nghi ngờ của mình.
Vào trong
xe, tôi nói với Stormy, “Chưa bao giờ anh nhận ra em lại có tài lừa gạt.”
“Ôi, dùng từ
đó nghiêm trọng quá. Em chỉ uốn nắn anh ta một tí.”
“Sau khi
chúng mình cưới, anh sẽ đề phòng chuyện đó,” tôi vừa cảnh báo nàng vừa khởi
động xe.
“Ý anh là
sao?”
“Đề phòng em
cố uốn nắn anh một tí.”
“Trời, cưng
à, em uốn nắn anh mỗi ngày đấy chứ. Và còn cuộn anh lại, duỗi anh ra nữa đó.”
Tôi chẳng
biết nàng đang nói thật hay đùa. “Em có làm vậy sao?”
“Một cách
dịu dàng, tất nhiên. Dịu dàng và cực kì âu yếm. Và anh luôn thích vậy mà.”
“Anh thích
hả?”
“Anh có cả
đống mánh lới khiến em làm thế.”
Tôi gài số
xe nhưng vẫn giữ chân trên phanh. “Em đang nói là anh mời gọi em uốn nắn hả?”
“Nhiều hôm
em nghĩ anh thúc đẩy việc đó.”
“Anh chẳng
biết em đang thật hay đang đùa.”
“Em biết mà.
Anh thật đáng yêu.”
“Chó con mới
đáng yêu. Anh không phải chó con.”
“Anh và chó
con. Hết sức đáng yêu.”
“Em đang nói
thật.”
“Em nói thật
ư?”
Tôi quan sát
nàng thật kỹ. “Không, không phải em đang nói đùa.”
“Em nói đùa
à?”
Tôi thở dài,
“Anh nhìn thấy người chết thì được chứ nhìn thấu em thì anh thua.”
Khi chúng
tôi chạy ra khỏi bãi đậu xe, sĩ quan Varner đang đậu xe gần cửa chính đi vào
Green Moon Lanes.
Thay vì lẳng
lặng giám sát nơi này với hi vọng tóm cổ được Robertson trước khi màn bạo lực
diễn ra thì anh ta lại đang làm lộ mình hết cỡ, hệt như người phá đám. Hiểu và
thực hiện nhiệm vụ theo kiểu này rất nhiều khả năng không phải điều mà cảnh sát
trưởng chấp thuận.
Khi chúng
tôi chạy ngang qua, sĩ quan Varner vẫy tay. Hình như anh ta đang ăn bánh.
Bà ngoại
Sugars luôn luôn phản bác suy nghĩ tiêu cực vì bà tin một cách dị đoan rằng khi
chúng ta lo nghĩ sợ phải đau buồn bởi chuyện không hay thì thực ra chúng ta
đang mời gọi điều cực kì khủng khiếp mà ta sợ hãi, và chúng ta đang đảm bảo cho
việc diễn ra cái sự kiện mà ta khiếp đảm. Thế nhưng tôi không thể thôi nghĩ
rằng thật quá dễ để Bob Robertson có thể tiến đến xe tuần tra từ phía sau và
bắn vào đầu Simon Varner trong lúc anh ta ngấu nghiến cái bánh Krispy Kremes.
CHƯƠNG 24
Chị Viola
Peabody, nhân viên phục vụ đã mang bữa trưa cho tôi và cô Terri ở Quán Vỉ nướng
mới cách đây tám tiếng đồng hồ đầy sự kiện, sống cách xa Camp’s End chỉ có hai
khu nhà, nhưng nhờ khả năng trồng vườn, sơn phết và làm mộc không mệt mỏi của
chị mà ngôi nhà như một thế giới cách xa những con phố ảm đạm kia.
Tuy nhỏ bé
đơn sơ nhưng mái ấm này giống ngôi nhà thần tiên trong tranh lãng mạn của
Thomas Kinkade. Dưới bóng trăng khuyết, tường nhà sáng dịu như thạch cao tuyết
hoa lấp lánh và ngọn đèn soi tỏ những cánh hoa đỏ thẫm trên nhánh dây leo trang
trí hàng rào mắt cáo nằm bên hông và nhô ra phía trước.
Không tỏ ra
ngạc nhiên khi thấy chúng tôi đến bất ngờ vào giờ này, chị Viola ân cần đón
chào Stormy và tôi, mỉm cười hỏi mời chúng tôi dùng cà phê hay trà đá, nhưng
hai đứa từ chối.
Chúng tôi
ngồi trong gian phòng khách nhỏ, nơi chính chị Viola tháo rời và thay lại sàn
gỗ. Chị kết mảnh vụn thành một tấm thảm. Chị lấy vải hoa sặc sỡ may rèm cửa và
những tấm vải bọc bàn ghế khiến đồ đạc trông mới ra.
Ngồi ở mép
ghế bành, chị Viola mảnh khảnh như thiếu nữ. Việc mang nặng đẻ đau và những
gánh nặng cuộc sống không để lại dấu vết nơi chị. Trông chị không già nua hoặc
ưu phiền khi làm người mẹ độc thân nuôi hai đứa con gái năm và sáu tuổi đang
ngủ ở trong phòng.
Chồng chị,
Rafael, kẻ bỏ rơi chị và không góp một xu tiền trợ cấp cho con, là một tên ngốc
hoàn hảo đến mức lẽ ra phải bắt hắn ăn mặc như thằng hề, thêm cái mũ lố bịch và
đôi giày mũi cong cho đủ bộ.
Ngôi nhà
không có máy điều hòa. Cửa sổ để mở và một cây quạt điện đặt trên sàn, cánh
quạt chuyển động mang đến ảo giác mát mẻ cho không khí.
Chồm ra
trước đưa hai tay ôm gối, chị Viola đổi nụ cười thành vẻ chờ đợi nghiêm nghị vì
chị biết lí do tôi buộc phải đến đây. “Chuyện giấc mơ của chị phải không?” Chị
dịu dàng lên tiếng.
Tôi cũng nói
khẽ để hai đứa bé ngủ. “Kể cho em nghe lần nữa đi.”
“Chị thấy
chính mình, một lỗ trên trán, mặt chị... dập nát.”
“Chị nghĩ
chị bị bắn.”
“Bị bắn
chết,” chị xác nhận, chắp hai tay lại giữa gối như cầu nguyện. “Mắt phải của
chị đỏ ngầu và lồi lên rất ghê, gần một nửa lồi ra khỏi hốc mắt.”
“Những giấc
mơ lo âu,” Stormy lên tiếng, có ý đoán chắc lại lần nữa. “Chúng không liên quan
gì tới tương lai đâu.”
“Chúng ta ở
ngoài phạm vi hiểu biết này,” chị Viola nói với nàng. “Odd... cô ấy cũng có
cùng ý kiến đó hồi trưa.” Chị nhìn tôi. “Hẳn là em đã đổi ý, nếu không em sẽ
không đến đây.”
“Trong mơ chị ở đâu?”
“Không nơi nào cả. Em biết đó, một nơi
trong mơ… hoàn toàn mờ nhạt, biến đổi.”
“Chị có bao giờ chơi bowling không?”
“Trò đó tốn kém lắm. Chị phải để dành
hai khoản tiền đại học. Mấy đứa con gái chị phải học thành tài.”
“Chị có bao giờ vào trong Green Moon
Lanes chưa?”
Chị lắc đầu, “Chưa.”
“Có điều gì đó trong mơ cho thấy nơi đó
có thể là sân chơi bowling không?”
“Không. Như chị đã nói, nó không phải
bất kì nơi nào. Sao em nói đến sân chơi bowling? Em cũng có giấc mơ à?”
“Dạ phải, em có mơ.”
“Người ta bị chết phải không?” chị Viola
hỏi.
“Dạ.”
“Có những giấc mơ nào của em trở thành
sự thật chưa?”
“Thỉnh thoảng,” tôi thừa nhận.
“Chị biết em hiểu mà. Đó là lí do chị
nhờ em bói cho chị.”
“Kể cho em nghe thêm về giấc mơ của chị
đi, chị Viola.”
Chị nhắm mắt cố nhớ. “Chị đang chạy khỏi
một cái gì đó. Có những cái bóng, vài tia sáng nhưng không có gì cụ thể hết.”
Giác quan thứ sáu của tôi độc đáo về bản
chất và mức độ rõ ràng. Nhưng tôi tin nhiều người có những năng lực tri giác
siêu nhiên chưa được phát hiện và ít gây ấn tượng hơn, những năng lực đó thỉnh
thoảng bộc lộ trong suốt cuộc đời họ: các linh cảm đôi lúc đến dưới hình thức
giấc mơ, cũng như những giây phút khác nảy sinh cảm nhận và sự thấu hiểu kì lạ.
Họ không thể thăm dò những trải nghiệm
đó một phần vì họ tin thừa nhận sự siêu nhiên là điều phi lí. Họ cũng hoảng sợ,
thường là một cách vô thức, trước viễn cảnh mang trí óc và trái tim đến với sự
thật của một vũ trụ phức tạp và ý nghĩa hơn rất nhiều cái thế giới vật chất mà
nền giáo dục nói với họ đó là tổng hợp của tất cả mọi thứ.
Vì thế tôi không ngạc nhiên khi cơn ác
mộng của chị Viola, lúc trưa có vẻ chả là gì, giờ xét cho cùng đã tỏ ra là một
vấn đề quan trọng. “Giấc mơ của chị có giọng nói, âm thanh không?” Tôi hỏi chị
ấy, “Của một số người không có.”
“Của chị có. Trong mơ, chị nghe thấy
được chính mình đang thở. Và đám đông.”
“Đám đông à?”
“Một đám đông la hét, như âm thanh trong
sân vận động.”
Bối rối, tôi nói. “Một nơi như vậy thì ở
đâu trong thị trấn Pico Mundo?”
“Chị không biết. Có thể là trận bóng
chày Little League.”
“Không có đám đông lớn đến vậy ở một
trong những trận như thế,” Stormy lưu ý.
“Đâu nhất thiết phải cả ngàn giọng nói.
Có thể vài trăm người,” chị Viola nói. “Chỉ là một đám đông, tất cả đều la
hét.”
Tôi lên tiếng, “Vậy rồi chị thấy mình bị
bắn thế nào?”
“Không thấy nó diễn ra. Những cái bóng,
tia sáng, chị đang chạy và trượt chân, ngã chống tay và đầu gối.”
Đôi mắt chị Viola cử động sau hàng mi
như chị đang ngủ và lần đầu tiên trải qua cơn ác mộng.
“… chống tay và đầu gối,” chị lặp lại,
“tay dính thứ gì đó trơn ướt. Đó là máu. Rồi những cái bóng xoay tít ra xa và
ánh sáng xoáy vào, và chị đang nhìn xuống khuôn mặt đã chết của chính mình.”
Chị rùng mình và mở mắt ra.
Những giọt mồ hôi bé tí lấm tấm trên
trán và môi trên của chị.
Mặc dù có cây quạt điện nhưng căn phòng
vẫn nóng. Song chị ấy không hề đổ mồ hôi trước khi bắt đầu nhớ lại giấc mơ.
“Còn gì khác không, chi tiết nào khác
nữa?” Tôi hỏi. “Ngay cả một điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể giúp em. Chị ở
đâu... Ý em là xác chết của chị... nằm trên cái gì? Nền loại gì? Có đường
nhựa…”
Chị ấy nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu.
“Không biết. Chỉ có duy nhất một thứ khác nữa chính là một anh chàng, một anh
chàng đã chết.”
Tôi ngồi thẳng hơn nữa trên ghế. “Ý chị là một… thi thể khác à?”
“Cạnh chị...
cạnh xác chị. Anh ta nằm hơi nghiêng một cánh tay quật ra sau lưng.”
“Có các nạn
nhân khác ư?” Stormy hỏi.
“Có thể. Chị
không thấy ai ngoài anh ta.”
“Chị có nhận
ra anh ta không?”
“Không thấy
mặt anh ta. Khuôn mặt quay qua bên kia.”
Tôi lên
tiếng. “Chị Viola, nếu chị có thể cố hết sức nhớ ra…”
“Dù sao thì
chị cũng không chú ý đến anh ta. Chị quá sợ hãi không băn khoăn xem anh ta là
ai. Chị nhìn khuôn mặt đã chết của chính mình và cố hét lên nhưng không thể, và
chị cố hơn nữa rồi chị bật dậy trên giường, tiếng hét vang ra nhưng em biết
đấy, chỉ là một tiếng khào khào.”
Kí ức khiến
chị Viola xúc động. Chị toan đứng lên khỏi ghế. Nhưng chân chị đứng không vững.
Chị lại ngồi xuống.
Cứ như đang
được đọc tâm trí của tôi, Stormy cất giọng hỏi. “Anh ta mặc đồ gì?”
“Gì cơ...
anh chàng trong mơ đó hả? Một chân bị bẻ quật ra sau, chiếc giày bung ra một
nửa. Một chiếc giày da.”
Hai đứa tôi
chờ đợi trong lúc chị Viola lục lại trí nhớ. Những giấc mơ ngập đầy như kem khi
chúng phô bày, trở thành sữa không kem khi ta tỉnh dậy và lúc đó chúng bay biến
khỏi tâm trí ta, để lại lớp cặn thừa nhỏ như nước thấm qua mảnh vải thưa.
“Quần anh ta
dính máu tung tóe,” chị Viola nói. “Chị nghĩ là quần kaki. Là chiếc quần màu
nâu.”
Cây quạt
xoay chầm chậm rung rinh cành lá của cây cọ đặt trong chậu nằm ở góc phòng, từ
những chiếc lá dấy lên âm thanh xào xạc khô khốc khiến tôi liên tưởng đến bầy
gián và lũ chuột đang chạy nhốn nháo, và không có gì tốt đẹp cả.
Đọc những
chi tiết cuối cùng trong mơ lúc này hãy còn sót lại trên mảnh vải thưa của trí
nhớ, chị Viola lên tiếng, “Một cái áo thun cổ có bâu…”
Tôi đứng dậy
khỏi ghế. Tôi cần di chuyển. Nhận thấy căn phòng quá nhỏ để có thể đi lại nhưng
tôi vẫn đứng.
“Xanh lá
cây,” chị Viola nói. “Một cái áo thun xanh lá cây cổ có bâu.”
Tôi nghĩ đến
anh chàng phía sau quầy cho thuê giày tại Green Moon Lanes, cô gái tóc vàng rót
bia phía sau quầy rượu, cả hai đều mặc đồng phục làm việc mới.
Giọng trở
nên càng khẽ khàng hơn, chị Viola nói. “Nói thật chị nghe đi Odd. Nhìn mặt chị
xem. Em có thấy sự chết chóc nơi chị không?”
Tôi đáp,
“Có.”