Giao Lộ Sinh Tử - Chương 15 - 16

CHƯƠNG
15

Tại khu phố Pico Mundo, khi chúng tôi
đang chạy ngang nhà thờ, Elvis ra hiệu muốn tôi ngừng lại.

Xe dừng, ông giơ tay phải về phía tôi.
Cái nắm tay của ông cũng thật và ấm như của Penny Kallisto.

Thay vì bắt tay tôi, ông nắm chặt bằng
cả đôi tay mình. Tôi nghĩ ông ấy chỉ muốn cảm ơn nhưng cử chỉ của ông dường như
còn hơn thế.

Elvis xem ra đang lo lắng cho tôi. Ông
nhẹ nhàng siết tay tôi, nhìn xoáy vào tôi với vẻ quan tâm hiện rõ mồn một, và
rồi siết tay tôi lần nữa.

“Ổn mà,” tôi lên tiếng dù chẳng biết
liệu đó có phải là lời đáp thỏa đáng về mặt nào đó hay không.

Ông ấy ra khỏi xe mà không cần mở cửa,
chỉ từ từ xuyên người qua, rồi bước lên mấy bậc tam cấp của nhà thờ. Tôi nhìn
theo đến khi ông đi qua cánh cửa gỗ sồi nặng trịch và khuất dạng.

Cuộc hẹn ăn tối với Stormy đến tám giờ
mới diễn ra, thế nên tôi phải làm gì đó để giết thời gian.

Bà ngoại Sugars thường nói Phải bận rộn
suốt, cho dù chơi bài, đánh nhau hay đua xe, vì việc ăn không ngồi rồi sẽ lôi
con vào rắc rối tệ hại.

Cho dù không có lời khuyên của bà, tôi
cũng không thể đến chỗ hẹn và ngồi đợi Stormy. Chẳng có điều gì khác choán hết
đầu óc thì tôi lại canh cánh chuyện gã Bob Robertson và những tập tài liệu quỷ
quái của gã.

Chạy chầm chậm khỏi nhà thờ, tôi gọi
điện cho P. Oswald Boone, anh chàng nặng bốn trăm pao và có bàn tay trái sáu
ngón.

Ozzie “bé” nhấc máy ngay hồi chuông thứ
hai. “Odd, con bò đẹp đẽ của anh bị nổ tung rồi.”

“Nổ tung ư?”

“Bùm,” Ozzie “bé” nói, “phút trước mọi
thứ vẫn ổn, phút sau con bò tuyệt vời đã bị văng thành trăm mảnh.”

“Chuyện xảy ra khi nào? Em có nghe nói
gì đâu.”

“Chính xác là cách đây hai tiếng hai
mươi sáu phút. Cảnh sát đã đến và đi rồi, anh tin ngay cả họ, với kinh nghiệm
đầy mình về những hành vi phạm tội tàn bạo, cũng bị sốc trước chuyện này.”

“Em mới gặp cảnh sát trưởng Porter và
bác ấy không đề cập gì đến chuyện đó.”

“Sau khi rời khỏi đây, mấy ông cảnh sát
dứt khoát cần phải đi uống một hai li rượu nặng đô trước khi ngồi viết báo
cáo.”

“Anh sao rồi?” tôi hỏi.

“Anh không quẫn trí, vì đó là phản ứng
công kích thái quá về mặt đạo đức, nhưng anh đang buồn.”

“Em biết anh yêu quý con bò đó lắm.”

“Anh yêu quý con bò đó,” anh xác nhận.

“Em đang nghĩ đến việc ghé thăm nhưng có
lẽ đây không phải lúc thích hợp nhất.”

“Đây là lúc lí tưởng nhất đó, Odd thân
mến. Không gì tệ hơn là cô đơn vào lúc chiều tối trong cái ngày con bò bị nổ
tung.”

“Em sẽ có mặt ở đó trong vài phút nữa,”
tôi hứa.

Ozzie “bé” sống ở Jack Flats, nơi cách
đây năm mươi năm được gọi là Jack Rabbit Flats, khu vực phía tây và nằm bên
dưới một vùng đất lịch sử. Tôi không biết lũ thỏ đã đi đâu.

Khi vùng đất đẹp như tranh nằm trong khu
kinh doanh sinh lời bắt đầu trở thành điểm thu hút du khách vào cuối những năm
1940, nó được tiêm chích thêm hàng loạt điều kì thú để gia tăng sức hấp dẫn.
Những tiệm kinh doanh ít ăn ảnh nhất như hiệu bán khăn choàng, cửa hàng lốp xe,
nơi bày bán súng, đều bị tống xuống Flats.

Rồi cách đây hai mươi năm, các trung tâm
thương mại mới nguy nga tráng lệ mọc lên dọc theo đường Green Moon và xa lộ
Joshua Tree. Chúng rút cạn khách hàng ra khỏi những cửa hàng bình dân ở Flats.

Dần dà trong suốt mười lăm năm qua, Jack
Flats trở mình. Những tòa nhà công nghiệp và thương mại cũ kỹ được san bằng,
thay vào đó là những căn nhà hiện đại và những căn hộ quy mô hơn.

Người đầu tiên đến định cư khi chẳng mấy
ai nhìn thấy được tương lai nơi này, Ozzie “bé” mua mảnh đất một mẫu[26], chỗ
của một nhà hàng đã dẹp tiệm từ lâu. Tại đây, anh xây nên ngôi nhà mơ ước của
mình.

[26]
1 mẫu bằng 0,4 hecta.

Ngôi nhà hai tầng theo phong cách thợ
thủ công có thang máy, những ô cửa rộng và sàn được gia cố bằng thép. Ozzie xây
nó vừa để phù hợp với tầm vóc của anh vừa để tránh hình phạt có thể phải chịu
nếu cuối cùng anh trở thành một trong những người mà dịch vụ tang lễ phải dùng
đến cần trục và xe tải sàn phẳng như Stormy vẫn sợ.

Khi đỗ xe trước ngôi nhà giờ đây không
còn con bò, tôi bị sốc hơn mức tưởng tượng bởi cảnh tàn sát.

Đứng dưới một tán cây nguyệt quế Ấn Độ
trải bóng dài trong ánh nắng chiều tà, tôi bàng hoàng nhìn chằm chằm cái xác
khổng lồ. Tất cả mọi thứ trên trái đất này cuối cùng sẽ mất cả thôi, nhưng sự
ra đi đột ngột và vội vã của con bò dù sao cũng khiến lòng tôi nao nao.

Bốn chân, mấy phần của cái đầu bị nổ
tung và những mảnh thân vương vãi khắp bãi cỏ trước nhà, bụi cây và lối đi. Đặc
biệt rùng rợn, cái vú bị văng ra đã đáp xuống một cây cột trên hàng rào và đầu
vú chĩa thẳng lên trời.

Con bò thuộc giống Holstein đen trắng,
to cỡ mẫu xe SUV, trước đây gắn trên đỉnh hai cây cột thép cao sáu mét, không
cây cột nào bị hư hại trong vụ nổ. Thứ duy nhất còn lại trên cao ấy là cái mông
con bò, nó đung đưa đổi vị trí đến khi hướng ra đường như thể đang nhìn ngắm
người qua lại.

Bên dưới tấm hình con bò giống Holstein
bằng nhựa từng treo tấm biển quảng cáo cho nhà hàng đặc sản thịt bò lúc trước
nằm trên mảnh đất này. Khi xây nhà, Ozzie “bé” không giữ lại tấm biển, chỉ giữ
miếng nhựa khổng lồ hình con bò.

Đối với Ozzie, con bò không chỉ là vật
dụng trang trí bãi cỏ lớn nhất trên thế giới. Nó là nghệ thuật.

Trong số rất nhiều sách anh đã viết có
bốn quyển nói về nghệ thuật, thế nên anh buộc phải biết mình đang nói về cái
gì. Thực ra, vì anh là cư dân nổi tiếng nhất thị trấn Pico Mundo (dù sao vẫn
còn sống) và có lẽ được kính trọng nhất, và vì anh xây nhà ở Flats trong lúc
tất cả những người khác đều cho rằng khu này vẫn sẽ lụi tàn mãi mãi nên chỉ
Ozzie “bé” mới có thể thuyết phục thành công Sở Xây dựng thành phố để giữ lại
con bò làm công trình điêu khắc.

Khi khu Flats mở rộng quy mô hơn, một
vài người hàng xóm của anh, không phải hầu hết, chỉ là phần thiểu số hay to mồm
nhất, phản đối con bò khổng lồ vì lí do mỹ quan. Có lẽ một trong số họ đã dùng
đến bạo lực.

Tôi len lỏi qua những mảnh vụn đầy răng
cưa của bức hình con bò, leo lên bậc tam cấp ngoài hiên trước, chưa kịp bấm
chuông thì Ozzie đã mở cánh cửa rộng, thở hổn hển bên kia ngưỡng cửa và đón
chào tôi. “Chuyện này chẳng phải đáng khinh sao Odd, một thằng ngốc mất dạy nào
đó đã làm? Hắn ta an ủi bằng cách nhắc nhở bản thân rằng ‘nghệ thuật là dài lâu
còn những kẻ chỉ trích là sâu bọ của thời đại’.”

“Shakespeare hả?” tôi hỏi.

“Không. Randall Jarrell. Một thi sĩ xuất
chúng nhưng bị lãng quên vì những trường đại học thời nay chẳng dạy gì ngoài sự
tự mãn.”

“Em sẽ dọn dẹp giùm anh.”

“Không
được!” Ozzie la lên. “Phải để bọn họ thấy đống đổ nát một tuần, một tháng,
những ‘kẻ luồn cúi độc địa thích huýt gió’.”

“Shakespeare
hả?”

“Không,
không. W.B. Daniel, viết về những tên khoái chỉ trích. Cuối cùng cũng sẽ nhặt
hết mấy mảnh vụn nhưng cái mông của con bò xinh đẹp kia vẫn sẽ nằm trên đó, câu
trả lời của anh dành cho những kẻ thất học mang bom.”

“Vậy là có
bom à?”

“Một trái
bom rất nhỏ, gắn trên công trình điêu khắc cả đêm với thiết bị hẹn giờ cho phép
những ‘kẻ luồn cúi nuôi dưỡng từ ngữ tục tĩu và lời nói chua cay’ ở xa hiện
trường khi vụ nổ xảy ra. Đó cũng không phải Shakespeare. Voltaire viết về những
tên khoái chỉ trích.”

“Này, em hơi
lo cho anh đó,” tôi nói.

“Hơi đâu mà
bận tâm chứ. Mấy tên hèn nhát kia chỉ đủ gan lén đến gần con bò nhựa vào nửa
đêm thôi chứ chúng không dám đương đầu với một người mập mạp có bắp tay chắc
nịch như anh đâu.”

“Em không
nói về bọn chúng. Em nhắc đến huyết áp của anh đó.”

Vẫy một cánh
tay kinh khủng của mình một cách thô bạo, Ozzie “bé” nói, “Nếu em mang dáng
người như anh, máu em chứa đầy những phân tử cholesterol to bằng thục quỳ thu
nhỏ thì em sẽ hiểu sự sỉ nhục chính đáng nhỏ nhặt đôi khi là thứ duy nhất giúp
huyết mạch của em không bị tắc nghẽn hoàn toàn. Sự sỉ nhục chính đáng và rượu
vang đỏ thượng hạng. Vào đây, vào đây. Anh sẽ khui một chai và chúng ta nâng
cốc uống mừng cuộc phá hoại của bọn khoái chỉ trích kia, ‘cuộc tranh đua thảm
hại của bầy cá sấu đói khát’.”

“Shakespeare
hả?” tôi hỏi.

“Vì Chúa Odd
à, Bard vùng Avon[27] có phải nhà văn duy nhất từng đặt bút viết lên giấy đâu.”

[27]
The Bard of Avon: tên khác của Shakespeare.

“Nhưng nếu em bám riết mỗi tên ông ta...”
tôi đáp và theo Ozzie vào nhà, “... sớm muộn gì em cũng đúng được một câu.”

“Có phải nhờ mánh lới thảm hại đó mà em
lết qua hết bậc phổ thông không?”

“Đúng thế.”

Ozzie bảo tôi cứ tự nhiên ngồi ngoài
phòng khách trong lúc anh đi tìm chai rượu Robert Mondavi Cabernet Sauvignon,
và thế là tôi ở một mình với Terrible Chester.

Con mèo này không mập mà nó to lớn và
bạo gan. Có lần tôi thấy nó chỉ cần tỏ thái độ đã xua được con chó béc giê
giống Đức hung hăng lảng xa ra.

Tôi nghĩ ngay đến một con Pitbull[28],
dở chứng và đang muốn đánh nhau cũng sẽ bỏ đi như con chó béc giê kia để tìm
kiếm con mồi dễ xơi hơn. Giống hệt lũ cá sấu.

[28]
Giống chó chọi.

Terrible Chester có màu lông như trái bí
ngô chín đỏ pha vài đốm đen. Nhìn những mảng đen cam trên mặt nó, có thể bạn sẽ
nghĩ nó là bạn bè thân thiết quỷ quái của nhóm nhạc rock Kiss[29] lâu đời.

[29]
Nhóm nhạc Kiss thành lập năm 1973, tạo ấn tượng độc đáo khi thành viên Simmons
trong nhóm biểu diễn với áo giáp, thân người tô vẽ vằn vện hai màu trắng đen.

Nằm trên bậu cửa sổ rộng, nhìn chằm chằm
ra ngoài sân trước, nó giả vờ cả phút như không hề biết có người đến.

Chuyện phớt lờ ấy tốt cho tôi. Đôi giày
tôi mang chưa bao giờ bị tè bậy lên và tôi hi vọng giữ được chúng ở tình trạng
đó.

Cuối cùng nó quay đầu lại, chăm chú nhìn
tôi theo kiểu đánh giá, vẻ coi thường tràn trề đến mức tôi tưởng như nghe thấy
thái độ đó rơi bắn xuống sàn phát ra âm thanh văng tung tóe. Sau đó con mèo một
lần nữa chuyển hướng sự chú ý sang cửa sổ.

Khung cảnh tấm hình con bò giống
Holstein bị nổ tung dường như thôi miên và đưa nó vào trạng thái u sầu, suy tư.
Có lẽ nó đã dùng hết tám mạng sống và cảm nhận sự ớn lạnh chết chóc.

Đồ đạc trong phòng khách nhà Ozzie được
đặt làm riêng, kích thước quá khổ và mang đến sự thoải mái. Tấm thảm Ba Tư với
tông màu đá quý sậm, vật dụng gỗ gụ Honduras và kệ sách này chồng lên kệ sách
khác tạo nên không khí ấm cúng.

Bất chấp mối nguy xảy đến cho đôi giày,
tôi nhanh chóng thư giãn và thấy cảm giác hiểm họa tận số đang treo lơ lửng
giảm đi hơn bất cứ lúc nào từ khi phát hiện ra Penny Kallisto đang đứng chờ
dưới cuối những bậc tam cấp tại căn hộ của tôi vào sớm tinh mơ.

Mới được nửa phút, Terrible Chester lại
khiến tôi bực mình bởi tiếng rít giận dữ đầy đe dọa của nó. Tất cả bọn mèo đều
có tài này, dĩ nhiên, nhưng Chester sánh được với cả lũ rắn chuông và rắn hổ
mang về mức độ dữ dội và khiếp đảm trong tiếng rít.

Có gì đó bên ngoài khiến nó khó chịu đến
mức nhổm đứng dậy trên bậu cửa sổ, cong lưng và xù lông dựng đứng cả lên.

Dù rõ ràng tôi không phải nguyên nhân
khiến nó kích động nhưng tôi cũng trượt ra khỏi ghế bành, chuẩn bị bỏ đi.

Chester lại rít lên, sau đó cào tấm
kính. Tiếng ken két của móng vuốt trên cửa sổ khiến tôi run rẩy tận sâu trong
xương sống.

Bất chợt tôi tự hỏi có phải kẻ hủy hoại
con bò đã quay lại vào ban ngày ban mặt để hạ luôn hình cái mông còn ngoan cố
nằm trên kia không.

Khi Chester quơ quào tấm kính lần nữa,
tôi bắt đầu bước đi. Tôi nhẹ nhàng thận trọng tiến về phía cửa sổ, không phải
do sợ một quả bom có thể bay ập vào mà vì không muốn con mèo đang bực tức kia
hiểu sai động cơ của tôi.

Bên ngoài, tại hàng rào, mặt hướng về
phía ngôi nhà là Gã Nấm, Bob Robertson.

CHƯƠNG
16

Việc đầu tiên tôi làm theo bản năng là
thụp người né khỏi cửa sổ. Song nếu Gã Nấm bám theo tôi ngay từ đầu thì chắc
hẳn vì lí do nào đó gã đã nghi ngờ chuyện lúc nãy tôi có mặt trong ngôi nhà của
gã ở Camp’s End. Hành động lén lút sẽ càng chứng thực cho điều sai trái của
tôi.

Tôi vẫn ở gần cửa sổ nhưng thật lấy làm
biết ơn khi Terrible Chester đứng giữa tôi và Robertson. Tôi cũng hài lòng nhận
thấy vẻ ghét cay ghét đắng lộ rõ của con mèo dành cho gã này, dù ở khoảng cách
xa như vậy, đã củng cố sự ngờ vực của tôi về gã.

Cho đến giờ phút này, tôi không bao giờ
nghĩ rằng Terrible Chester và tôi sẽ cùng tán đồng về bất cứ chuyện gì hay có
bất kì điểm chung nào khác ngoài lòng yêu mến dành cho Ozzie “bé”.

Lần đầu tiên tôi thấy Robertson không
mỉm cười, không mang vẻ mơ mộng, mà gã khác hẳn. Đứng trong cái nắng mà sức
nặng của một ngày đã biến ánh sáng trắng chói lóa thành màu vàng mật ong, phía
sau lưng có những hình thù và bóng râm của hàng nguyệt quế làm phông nền, trông
gã dữ tợn như bức ảnh khổng lồ của Timothi McVeigh treo trên tường trong phòng
làm việc.

Từ phía sau, Ozzie lên tiếng, “Ôi Chúa
ơi, chẳng lẽ người ta phải cho kẻ thù vào miệng để cướp đi sự minh mẫn của mình
sao.”

Quay lại, tôi thấy anh cầm cái khay gồm
hai li rượu và một đĩa nhỏ đựng phô mai viên, bao quanh là bánh quy trắng mỏng.

Cất tiếng cảm ơn, tôi cầm lấy một li
rượu và liếc nhìn ra ngoài.

Bob Robertson không còn ở chỗ cũ nữa.

Đánh liều chấp nhận nguy cơ gây hiểu lầm
nguy hiểm với Terrible Chester, tôi bước gần hơn đến cửa sổ, nhìn trái phải dọc
theo con đường.

“Sao thế?” Ozzie nôn nóng hỏi.

Robertson đã đi, nhanh như có ý định cấp
bách.

Đã hoảng sợ khi nhìn thấy người đàn ông
lạ mặt này ở hàng rào, tôi còn lo lắng hơn nhiều khi để mất tăm hơi của gã. Nếu
gã muốn theo tôi, tôi sẽ chịu để gã bám đuôi vì như thế tôi sẽ biết được gã ở
đâu và khi biết rồi sẽ dễ ngơi nghỉ hơn.

“Ôi Chúa ơi, chẳng lẽ người ta phải cho
kẻ thù vào miệng để cướp đi sự minh mẫn của mình sao,” Ozzie lặp lại.

Quay người từ cửa sổ vào, tôi thấy anh
đã đặt khay xuống và đang đứng cầm li rượu giơ lên như thể nâng cốc chúc mừng.

Cố lấy lại bình tĩnh, tôi cất tiếng,
“Một vài ngày khó khăn đến mức nếu không để rượu cướp đi sự minh mẫn thì sao
chúng ta ngủ được?”

“Này, anh đâu bảo em thảo luận về câu
nói đó, chỉ xác định nguồn gốc của nó thôi.”

Vẫn chưa hoàn hồn bởi gã Robertson nên
tôi nói, “Hả?”

Hơi điên tiết, Ozzie la lên,
“Shakespeare! Anh cố tình nói câu này vào để đảm bảo em vượt qua trót lọt, thế
mà vẫn hỏng bét. Đây là lời Cassio đã nói trong hồi hai, cảnh ba của vở
Othello.”

“Em... bị xao lãng.”

Ra dấu về phía cửa sổ, nơi Chester không
còn tỏ ra kích động và một lần nữa thả lỏng lớp lông dày trên bậu cửa sổ rộng,
Ozzie nói, “Cảnh tưởng phá hoại do bọn thiếu văn hóa bỏ lại mang vẻ đẹp thật
tàn nhẫn, đúng không? Nó nhắc nhở ta rằng lớp vỏ bề ngoài của nền văn minh mới
mỏng manh làm sao.”

“Xin lỗi đã khiến anh thất vọng, anh à,
nhưng suy nghĩ của em không sâu sắc đến thế đâu. Chỉ là... em nghĩ đã thấy một
người em có biết đi ngang qua đây.”

Nâng li rượu trong bàn tay năm ngón,
Ozzie cất lời, “Chửi cha mắng mẹ tất cả lũ vô lại!”

“Chửi cha mắng mẹ, hơi nặng lời đó.”

“Đừng làm mất vui chứ em, uống đi!”

Vừa uống tôi vừa liếc nhìn ra cửa sổ lần
nữa. Sau đó tôi quay lại ghế bành đã ngồi trước khi con mèo rít lên một cách
đáng sợ.

Ozzie cũng ngồi xuống nhưng cái ghế của
anh kêu lên ầm ĩ hơn ghế tôi nhiều.

Tôi nhìn quanh sách vở, bản sao tuyệt
đẹp của mấy cây đèn Tiffany[30] nhưng căn phòng không tạo ra tác động xoa dịu
như thường lệ. Tôi như nghe thấy đồng hồ đeo tay của mình đang đếm từng giây,
hướng đến nửa đêm và ngày mười lăm tháng Tám.

[30]
Đèn Tiffany: một loại đèn kính màu nổi tiếng bậc nhất thế giới.

“Em hay đem quà cáp đến đây,” Ozzie lên
tiếng, “và vì hôm nay không thấy món quà nào nên anh cho rằng em đang gặp phải
rắc rối phiền muộn gì đó.”

Tôi kể anh nghe tất cả về gã Bob
Robertson. Tuy giấu chuyện căn phòng tối đen với cảnh sát trưởng Porter nhưng
tôi kể luôn cho Ozzie vì anh có óc tưởng tượng đủ lớn để nhét hết mọi thứ.

Ngoài các tác phẩm thực tế, anh đã sáng
tác hai bộ tiểu thuyết thần bí rất thành công.

Bộ đầu tiên, như bạn có thể đoán được,
nói về một thám tử mập ú tài nghệ vô song, vừa phá án vừa đưa ra những nhận xét
dí dỏm. Anh ta nhờ cô vợ xinh đẹp và rất khỏe mạnh (người hết lòng yêu anh) đảm
nhận tất cả các công việc điều tra cần đi lại và thực hiện toàn bộ những hành
động mạo hiểm.

Ozzie nói rằng các quyền đó dựa trên
những ý tưởng mới lớn ướt đẫm kích thích tố choán ngợp tâm trí anh trong suốt
quãng đời niên thiếu. Và vẫn ám ảnh chưa dứt.

Bộ thứ hai liên quan đến một nữ thám tử,
cô vẫn là người nữ anh hùng đáng mến bất kể vô số căn bệnh thần kinh và chứng
cuồng ăn. Nhân vật này tượng hình trong bữa tối kéo dài năm giờ đồng hồ mà suốt
khoảng thời gian đó, Ozzie và biên tập viên của anh đụng tới muỗng nĩa ít hơn
cầm đến li rượu.

Đặt nghi ngờ trước sự quả quyết của
Ozzie rằng nhân vật thám tử trong truyện cũng có thể có bất kì vấn đề hay thói
quen cá nhân nào, dù không mấy dễ ưa, và vẫn có thể làm say mê công chúng miễn
là tác giả biết khéo léo biến nhân vật trở nên đáng mến, biên tập viên trả lời,
“Không ai có thể tạo ra lượng lớn độc giả muốn đọc truyện về một thám tử cứ
thọc tay vào họng và cho nôn hết ra sau mỗi bữa ăn.”

Tiểu thuyết đầu tiên viết về nhân vật
thám tử như trên đã giành được giải Edgar, giải thưởng dành cho thể loại thần
bí tương đương tượng Oscar. Tập thứ mười mới xuất bản gần đây của bộ sách bán
được số lượng nhiều hơn hẳn chín quyển trước.

Bằng giọng long trọng không thể che giấu
niềm vui sướng tinh tướng, Ozzie nói chưa quyển tiểu thuyết nào trong lịch sử
văn học mô tả quá nhiều lần nôn mửa lại chiếm được tình cảm của đông đảo độc
giả đến thế.

Thành công của Ozzie hoàn toàn không hề
khiến tôi ngạc nhiên chút nào. Anh yêu mến mọi người và lắng nghe họ, đồng thời
tình yêu thương nhân loại ngời sáng trong những trang sách của anh.

Khi tôi kể xong chuyện gã Robertson, căn
phòng tối đen và những dãy tủ đựng hồ sơ đầy nghẹt các vụ giết người điên loạn,
anh nói, “Odd, anh ước gì em có một khẩu súng.”

“Em sợ súng mà,” tôi nhắc anh.

“Anh sợ cuộc đời em đó. Anh chắc bác
Wyatt Porter sẽ chịu cấp phép cho em mang theo vũ khí giấu trong người.”

“Vậy em phải mặc áo khoác thể thao.”

“Em có thể đổi sang áo sơ mi kiểu
Hawaii, để súng trong bao nhỏ đeo sau lưng.”

Tôi nhăn mặt, “Áo sơ mi kiểu Hawaii
không hợp với em.”

“Ừ, phải rồi,” Ozzie nói bằng giọng mỉa
mai không che giấu, “áo phông quần jeans của em đúng là cách thể hiện thời
trang độc đáo thật.”

“Có lúc em mặc quần kaki.”

“Độ sâu tủ quần áo của em làm đầu óc
người ta choáng ngợp. Đến Ralph Lauren còn phải bật khóc.”

Tôi nhún
vai, “Em là em.”

“Nếu anh mua
một vũ khí thích hợp cho em và đích thân hướng dẫn em sử dụng...”

“Cảm ơn vì
sự lo lắng của anh nhưng chắc chắn em sẽ bắn vào cả hai chân mình và điều kế
tiếp em được biết là anh viết một bộ truyện về tay thám tử tư bị què cả đôi
chân.”

“Cái đó có
rồi.” Anh hớp ngụm rượu. “Cái nào cũng có hết rồi. Việc cho ra đời thứ mới
toanh như nhân vật thám tử nôn mửa chỉ đến duy nhất một lần thôi.”

“Vẫn còn
bệnh tiêu chảy kinh niên đó.”

Ozzie nhăn
nhó, “Anh e rằng em không có sở trường để trở thành tiểu thuyết gia viết truyện
thần bí nổi tiếng. Gần đây em đã viết cái gì?”

“Cái này cái
kia.”

“Anh cho
rằng ‘cái này’ ám chỉ danh sách vật dụng cần mua còn ‘cái kia’ chỉ những bức
thư tán tỉnh dành cho Stormy Llewellin, em còn viết cái gì khác nữa không?”

“Chẳng còn
gì khác hết,” tôi thú nhận.

Khi tôi mười
sáu tuổi, P.Oswald Boone, khi đó mới nặng ba trăm năm mươi pao, đồng ý làm giám
khảo cuộc thi viết văn tại trường tôi, ngôi trường chính anh đã tốt nghiệp cách
đó vài năm. Giáo viên tiếng Anh của tôi yêu cầu học sinh nào cũng phải gửi bài
dự thi.

Vì bà ngoại
Sugars mới vừa qua đời và vì tôi đang nhớ bà nên tôi đã viết một bài về bà.
Chẳng may, bài đó đoạt giải nhất, khiến tôi nổi tiếng chút ít trong trường, dù
rằng tôi thích chìm hơn.

Nhờ những kí
ức về bà, tôi nhận được ba trăm đôla với một tấm bằng. Tôi bỏ tiền ra mua một
dàn nhạc không đắt nhưng nghe khá hay.

Tấm bằng và
dàn nhạc sau đó bị đập vỡ thành trăm mảnh bởi một con yêu quái nổi cơn tam
bành.

Kết quả duy
nhất còn lại lâu dài từ cuộc thi viết văn đó là tình bạn của tôi với Ozzie
“bé”, điều tôi rất trân trọng dù trong suốt năm năm anh cứ liên tục thúc ép tôi
viết, viết và viết. Anh nói tài năng là một món quà và theo lương tâm, tôi có
nghĩa vụ phải tận dụng nó.

“Hai món quà
là quá nhiều,” tôi đang nói với anh. “Nếu em phải đối phó với hồn người chết
rồi còn phải viết ra gì đó đáng giá thì em một là phát điên hoàn toàn, hai là
sẽ tự bắn vào đầu mình bằng khẩu súng anh muốn cho em.”

Hết kiên
nhẫn với lí sự của tôi, anh nói, “Viết lách không phải khởi nguồn của đau khổ.
Đó là chất trị liệu cho tinh thần. Nó khiến những khối u tâm lí bớt sưng tấy và
xoa dịu nỗi đau.”

Tôi không
nghi ngờ điều đó có đúng với anh không hay anh có đau đến mức cả đời phải cần
chất trị liệu cho tinh thần không.

Tuy Ozzie
“lớn” vẫn còn sống nhưng Ozzie “bé” chỉ gặp bố mỗi năm một hai lần. Mỗi lần gặp
xong, anh cần hai tuần để lấy lại sự cân bằng cảm xúc và tinh thần vui vẻ đặc
trưng.

Mẹ anh cũng
còn sống. Ozzie “bé” không nhắc đến bà đã hai mươi năm.

Ozzie “lớn”
hiện chỉ nhẹ hơn con trai chừng năm mươi pao, do đó đa số mọi người đều cho
rằng Ozzie “bé” thừa hưởng tình trạng béo phì từ bố.

Song Ozzie
“bé” không chịu xem mình là nạn nhân của sự di truyền. Anh nói bản chất anh là
người yếu lòng nên mới có thân hình đồ sộ vậy.

Nhiều năm
qua, đôi lúc anh nói bóng gió và tôi thường suy ra rằng chuyện bố mẹ làm tan
nát một phần trái tim anh đã dẫn đến sự mềm yếu ghê gớm này. Thế nhưng anh chưa
bao giờ kể về tuổi thơ gian khó và không hề nói ra điều anh đã phải cam chịu.
Anh chỉ viết tiểu thuyết thần bí, hết quyển này đến quyển khác...

Anh không
nhắc đến người thân bằng giọng cay đắng. Thay vào đó, hầu như anh không hề nói
đến họ và tránh xa họ hết mức có thể. Anh viết sách về nghệ thuật, âm nhạc, ẩm
thực, rượu vang, hết cuốn này đến cuốn khác...

“Viết lách,”
tôi nói, “không thể xoa dịu nỗi đau của em nhiều bằng hình ảnh của Stormy...
hay bằng hương vị kem dừa anh đào sôcôla miếng, vấn đề là chỗ đó.”

“Anh không
có Stormy nào trong đời,” anh đáp, “nhưng anh có thể hiểu chuyện kem.” Ozzie
uống cạn li rượu. “Em tính thế nào với gã Bob Robertson này?”

Tôi nhún
vai.

Ozzie thúc
ép tôi, “Em phải làm gì đó chứ, gã biết em vào nhà gã hồi chiều và bám theo em
khắp nơi rồi.”

“Tất cả
những gì em có thể làm là thận trọng. Và chờ lúc cảnh sát trưởng Porter tìm ra
điều gì đó về gã. Dù sao thì cũng có thể không phải gã bám theo em. Chắc gã
nghe chuyện con bò nổ tung của anh và đi ngang xem đống tàn tích thôi.”

“Odd, anh sẽ
thất vọng không gì tả xiết nếu chưa tận dụng tài năng viết lách của em vào mục
đích hữu ích nào mà ngày mai em đã chết ngoẻo.”

“Nghĩ xem em thấy sao.”

“Anh ước gì em mau khôn ra, kiếm một khẩu
súng và viết một cuốn sách chứ anh không mong bất kì mạng sống của ai phải ra
đi vì gã. ‘Bước chân ngày tháng trong những năm tuổi trẻ mới nhanh làm sao’.”

Quy kết cho trích dẫn, tôi nói, “Mark
Twain.”

“Tuyệt vời! Có lẽ xét cho cùng em không
phải thằng khờ non nớt ngu dốt cứng đầu.”

“Lúc trước anh đã nói câu này rồi,” tôi
thú thật, “thế nên em mới biết.”

“Ít ra em cũng còn nhớ! Anh tin điều đó,
cho dù vô tình, em đã bộc lộ lòng khao khát muốn từ bỏ vỉ nướng và trở thành
người của văn chương.”

“Điều em mong trước nhất là chuyển sang
lĩnh vực lốp xe.”

Ozzie thở dài, “Đôi lúc em đúng là người
thích cực khổ.” Anh lấy một ngón tay gõ vào li rượu rỗng không. “Lẽ ra anh phải
đem theo cả chai.”

“Cứ ngồi đi. Em lấy cho,” tôi lên tiếng
vì tôi có thể xuống bếp mang chai rượu Cabernet lên trong khoảng thời gian mà
đối với Ozzie chỉ đủ để nhấc mình ra khỏi ghế bành.

Dãy hành lang rộng hơn ba mét dùng làm
nơi trưng bày nghệ thuật, hai bên là những căn phòng chất đầy cũng là tác phẩm
nghệ thuật.

Cuối hành
lang là gian bếp. Trên quầy bếp lát đá granit đen có một cái chai đã tháo nút
để rượu được thở.

Mấy phòng
ngoài có gắn máy điều hòa tạo cảm giác dễ chịu còn gian bếp lại nóng đến kinh
ngạc. Bước vào, trong chốc lát tôi cứ tưởng cả bốn bếp lò đều đang nướng thức
ăn.

Và rồi tôi
thấy cửa sau để mở. Chiều tối ở vùng sa mạc, vẫn nóng bức dưới ánh mặt trời mùa
hè ngoan cố, đã hút hết không khí mát mẻ trong bếp.

Khi bước ra
đóng cửa, tôi thấy Bob Robertson ở sân sau, tái nhợt và giống cây nấm như bộ
dạng trước nay.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3