Giao Lộ Sinh Tử - Chương 01

CHƯƠNG
1

Tên tôi là Odd Thomas, tôi không chắc
tại sao bạn lại nên quan tâm đến chuyện tôi là ai hoặc tôi có tồn tại hay
không, dù rằng thời nay, tiếng tăm là điều thiêng liêng mà hầu hết mọi người
đều tôn thờ.

Tôi không phải người nổi tiếng, cũng
không phải con cái của người nổi tiếng. Tôi không bao giờ kết hôn với người nổi
tiếng, không bao giờ để những kẻ đó đối xử tệ bạc với mình, và cũng không bao
giờ hiến thận để cấy ghép vào thân thể bất kì người nổi tiếng nào. Hơn nữa, tôi
không có khát vọng trở thành người nổi tiếng.

Tóm lại, tôi chỉ là một tên vô danh tiểu
tốt, theo những tiêu chuẩn trong nền tảng văn hóa của chúng ta, nền tảng khiến
tạp chí People không những sẽ không bao giờ đăng một lời nào về tôi mà còn có
thể cự tuyệt cả nỗ lực đăng kí đặt báo của tôi, bởi lẽ lực hút lỗ đen vũ trụ từ
việc tôi không nổi tiếng có tác động mạnh đến mức đủ lôi kéo toàn bộ sự nghiệp
kinh doanh của họ chôn vào quên lãng.

Tôi hai mươi tuổi. Đối với những người
lớn tuổi từng trải, tôi lớn hơn đứa con nít chút đỉnh. Thế nhưng đối với trẻ
con, tôi đã già dặn đủ để chúng ngờ vực, tống khứ vĩnh viễn ra khỏi cộng đồng
đầy sức lôi cuốn của những người thấp bé và không để râu.

Thế nên, chuyên gia nhân khẩu học có thể
kết luận rằng những người duy nhất chịu nghe tôi nói chỉ là đám thanh niên nam
nữ hiện đang lênh đênh giữa đợt sinh nhật thứ hai mươi và hai mươi mốt.

Thật tình, tôi chẳng có gì để nói với
lượng khán giả hạn hẹp đó. Theo kinh nghiệm của mình, tôi không quan tâm đến
hầu hết những thứ mà thanh niên Mỹ hai mươi tuổi quan tâm. Trừ việc tồn tại,
đương nhiên rồi.

Tôi sống một cuộc đời khác lạ.

Nói thế không có nghĩa cuộc sống của tôi
tốt đẹp hơn của các bạn. Tôi chắc chắn rằng cuộc sống của các bạn đầy ắp hạnh
phúc, niềm vui, điều kì diệu và những nỗi sợ hãi cố hữu, nhiều như bất kì ai có
thể ước muốn. Xét cho cùng, giống như như tôi, bạn cũng là một con người bằng
xương bằng thịt, và chúng ta biết điều đó sung sướng và đáng sợ đến thế nào.

Tôi chỉ có ý nói rằng cuộc sống của tôi
không bình thường. Những sự việc kì dị cứ đều đặn xảy ra với tôi mà không xảy
ra với người nào khác thật vậy.

Chẳng hạn như tôi sẽ không bao giờ viết
cuốn tự truyện này nếu không bị anh chàng nặng bốn trăm pao[1] với bàn tay trái
có sáu ngón bắt buộc.

[1]
1 pao (pound) = 0,454 kg.

Tên anh ấy là P. Oswald Boone. Mọi người
gọi anh ấy là Ozzie “bé” vì bố anh, Ozzie “lớn”, vẫn còn sống.

Ozzie “bé” có một con mèo tên Terrible
Chester và anh ấy rất yêu nó. Quả thực, nếu có một ngày Terrible Chester mất đi
mạng sống của mình dưới bánh xe Peterbilt thì tôi e rằng trái tim to lớn của
Ozzie “bé” sẽ không vượt qua được nỗi đau mất mát đó.

Về phần mình, tôi không dành nhiều tình
cảm sâu sắc cho Terrible Chester chỉ bởi một lẽ, nó đã vài lần tè bậy lên giày
tôi.

Lí do con mèo đó làm vậy, theo lời Ozzie
giải thích nghe có vẻ lọt tai, nhưng tôi không tin vào vẻ thật thà kia. Ý tôi
muốn nói tôi nghi ngờ sự chân thực của con Terrible Chester, không phải của
Ozzie.

Hơn nữa, tôi tuyệt đối không đặt niềm
tin khi một con mèo tuyên bố rằng nó đã năm mươi tám tuổi. Mặc dù có ảnh làm
chứng để xác thực tuyên bố trên nhưng tôi vẫn khăng khăng cho rằng điều đó
không đúng.

Vì những lí do sẽ trở nên hiển nhiên,
bản thảo này không thể được công bố trong suốt quãng đời của tôi và những nỗ
lực của tôi sẽ không được đền đáp bằng nhuận bút khi tôi còn sống. Ozzie “bé”
gợi ý tôi nên để lại khoản tiền bản quyền cho việc nuôi dưỡng chu đáo cho con
Terrible Chester, theo anh ấy thì nó sẽ sống thọ hơn tất cả chúng tôi.

Tôi sẽ chọn người khác cho hành động từ
thiện này, một đối tượng không tè bậy lên giày của tôi.

Dù sao đi nữa, tôi không viết quyển sách
này vì tiền. Tôi viết nó để lưu giữ sự minh mẫn và để khám phá xem tôi có thể
thuyết phục chính bản thân rằng cuộc đời mình có mục đích và ý nghĩa, đến mức
đủ để tôi vin vào đó mà tiếp tục sống không.

Bạn đừng bận tâm: những lời huyên thuyên
này sẽ không u sầu đến mức khiến bạn không thể chịu nổi. P.Oswald Boone đã
nghiêm khắc ra chỉ thị cho tôi phải giữ văn phong tươi sáng.

“Nếu em không giữ văn phong tươi sáng,”
Ozzie bảo, “anh sẽ đè cái mông bốm trăm pao của mình lên người em đấy nhé, và
em không muốn chết theo cách đó đâu.”

Ozzie đang huênh hoang đó thôi. Mông anh
ấy to thật, nhưng có lẽ chỉ nặng một trăm năm mươi pao là cùng. Hai trăm năm
mươi pao kia phân bố khắp phần còn lại trên bộ xương khốn khổ của Ozzie.

Thoạt đầu khi tôi tỏ ra không thể giữ
giọng văn tươi sáng, Ozzie gợi ý tôi hãy đóng vai người kể chuyện đáng ngờ. Anh
ấy nói: “Cách ấy hiệu quả đối với Agatha Christie trong truyện Vụ ám sát Roger
Ackroyd.”

Trong quyển truyện trinh thám dạng tường
thuật nói trên, gã kể chuyện đẹp trai hóa ra lại là kẻ giết Roger Ackroyd, sự
thật này được hắn che giấu người đọc đến tận phút cuối.

Hiển nhiên tôi không phải tên sát nhân.
Tôi không làm điều xấu xa gian ác phải giấu giếm bạn. Sự lập lờ đáng ngờ của
tôi thể hiện ở vai trò một người kể chuyện phải vất vả vật lộn với thì của một
số động từ.

Đừng bận tâm, không lâu nữa bạn sẽ biết
sự thật.

Dù sao thì tôi cũng đang tiếp tục câu
chuyện của mình. Đến sau khi con bò nổ tung, Ozzie “bé” và Terrible Chester mới
nhập cuộc.

Câu chuyện bắt đầu vào một ngày thứ Ba.

Đối với bạn, thứ Ba là ngày bình thường
tiếp theo sau thứ Hai. Đối với tôi, ngày đó cũng như sáu ngày kia, đầy ắp tiềm
năng xuất hiện những điều kì bí, mạo hiểm và hãi hùng.

Bạn nên hiểu điều đó không có nghĩa cuộc
đời của tôi thật lãng mạn và huyền ảo. Quá nhiều điều thần bí sẽ chỉ gây phiền
hà. Quá nhiều mạo hiểm thành ra kiệt sức. Và những nỗi hãi hùng cỏn con cứ đeo
bám dai dẳng.

Không cần đồng hồ báo thức, tôi dậy lúc
năm giờ sáng thứ Ba, sau khi mơ là những nhân viên sân chơi bowling đã chết.

Tôi không bao giờ đặt báo thức vì đồng
hồ sinh học trong người tôi cực kì chính xác. Nếu tôi muốn thức dậy ngay năm
giờ thì trước khi ngủ, chỉ cần tự nhủ với mình ba lần rằng tôi buộc phải dậy
đúng bốn giờ bốn mươi lăm.

Dù đồng hồ sinh học của tôi đáng tin cậy
nhưng vì một số lí do, nó chạy chậm đi mười lăm phút. Tôi biết ra điều này
nhiều năm về trước và đã quen dần.

Suốt ba năm trời, giấc mơ về những nhân
viên sân chơi bowling đã chết cứ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi mỗi tháng một hai
lần. Các tình tiết chưa cụ thể đến mức đủ để hành động. Tôi sẽ phải chờ đợi và hi
vọng sự việc sáng tỏ khi chưa quá muộn. Vậy là tôi thức dậy lúc năm giờ, ngồi
thừ trên giường và nói: “Miễn thứ con con phải phụng sự.” Đó là lời cầu nguyện
buổi sáng mà bà Sugars đã dạy cho tôi khi còn bé xíu.

Pearl Sugars
là bà ngoại của tôi. Nếu bà là bà nội thì tên tôi đã là Odd Sugars, như vậy
càng khiến cuộc đời tôi rối rắm thêm.

Bà ngoại
Sugars tin vào chuyện mặc cả với Thượng đế, bà gọi Người là “nhà buôn thảm già
nua”.

Trước mỗi
ván bài xì phé, bà hứa hẹn với Thượng đế sẽ truyền bá lời dạy cho Người hoặc
chia sẻ khoản tiền rủng rỉnh có được cho những đứa trẻ mồ côi, nếu Người mà bà
thắng cuộc. Suốt cuộc đời bà, tiền thắng bài luôn là một nguồn thu đáng kể.

Là một phụ
nữ nghiện rượu với vô vàn sở thích ngoài chuyện chơi bài, bà Sugars không phải
lúc nào cũng dành nhiều thời gian truyền bá lời của Thượng đế như đã hứa. Bà
tin Thượng đế thường đoán được thể nào cũng bị lừa và sẽ khoan dung độ lượng
chuyện đó.

Bà nói bạn
có thể lừa bịp Thượng đế và thoát tội với điều kiện bạn làm như vậy với sức hấp
dẫn và khiếu hài hước. Nếu bạn sống trên đời với trí tưởng tượng và lòng nhiệt
huyết, Thượng đế sẽ nhập cuộc để xem điều cực kì thú vị tiếp theo bạn thể hiện
là gì.

Người cũng
sẽ loại bạn ra khỏi cuộc chơi nếu bạn ngốc nghếch đến mức lố bịch. Bà ngoại tôi
quả quyết, điều đó giải thích tại sao khối kẻ ngờ nghệch kinh khủng chỉ xoay sở
được cuộc sống tạm ổn.

Tất nhiên,
bạn tuyệt đối không bao giờ được gây tổn hại đến người khác theo bất cứ phương
thức đáng sợ nào, nếu không bạn sẽ chẳng khiến Thượng đế thấy thú vị nữa. Lúc
đó cái giá phải trả sẽ xảy đến tương ứng với những điều bạn đã thất hứa.

Bất chấp
việc lén uống rượu dưới gầm bàn, bất chấp việc đều đặn thắng các ván bài xì phé
với những kẻ có trái tim sắt đá, thần kinh yếu, không thích thua cuộc, bất chấp
cả việc hằng ngày ăn rất nhiều mỡ lợn, bà Sugars đã thanh thản ra đi trong giấc
ngủ ở tuổi bảy mươi hai. Người ta tìm thấy bà cùng một li rượu mạnh gần như cạn
sạch đặt trên chiếc bàn đầu giường, một quyển sách của tác giả bà yêu thích đã
lật đến trang cuối cùng, và một nụ cười trên khuôn mặt.

Căn cứ vào
tất cả những bằng chứng sẵn có, bà ngoại tôi và Thượng đế hiểu nhau khá rõ.

Vui mừng khi
thấy mình vẫn còn sống vào sáng thứ Ba đó, trong khung cảnh lờ mờ của bình
minh, tôi bật ngọn đèn đầu giường và quan sát căn phòng dùng làm phòng ngủ,
phòng khách, nhà bếp kiêm phòng ăn của mình. Tôi không bao giờ bước xuống
giường khi chưa biết người đang đợi mình, nếu có, là ai.

Nếu khách
viếng thăm, người tốt hay kẻ xấu, đã dành một khoảng thời gian trong đêm quan
sát tôi ngủ thì họ sẽ chẳng nấn ná ở lại để tán gẫu trong bữa điểm tâm của tôi.
Đôi khi việc từ giường ngủ đến phòng tắm cũng có thể lấy mất niềm vui sướng của
một ngày mới.

Chỉ có Elvis
ở đó, đeo vòng hoa lan, mỉm cười và chĩa một ngón tay về phía tôi như thể đấy
là khẩu súng đã lên cò.

Tôi thích
sống phía trên ga-ra riêng biệt, có kích thước vừa đủ cho hai chiếc xe và tôi
thấy nơi đây thoải mái dễ chịu, nhưng tạp chí Kiến trúc Bày trí sẽ không săn
tìm bức ảnh độc quyền về bố cục nơi đây đâu. Nếu phóng viên đưa tin của tòa
soạn nhìn thấy chỗ tôi ở, có lẽ anh ta sẽ nhận xét, với thái độ khinh khỉnh
rằng xét cho cùng cụm từ thứ hai trong tên gọi của tạp chí đâu phải là Bày bừa.

Tấm bìa cứng
chân dung Elvis có kích cỡ bằng người thật, một trong những hình ảnh trưng bày
tại hành lang rạp hát để quảng bá phim Blue Hawaii, vẫn nằm nguyên vị trí tôi
đặt. Thỉnh thoảng, nó di chuyển, hoặc bị di chuyển trong đêm.

Tôi tắm bằng
xà phòng và dầu gội dầu hương đào của Stormy Llewellin tặng. Tên thật của nàng
là Bronwen nhưng nàng nghĩ tên đó khiến nàng có vẻ giống yêu tinh.

Tên thật của
tôi là Odd.

Theo lời mẹ
tôi, đây là sai sót chưa được chỉnh sửa trong giấy khai sinh. Lúc mẹ nói định
đặt tên tôi là Todd, lúc lại nói là Dobb, theo tên một ông dượng người Cộng
hòa.

Còn bố tôi
thì khăng khăng lúc nào họ cũng định đặt tên Odd cho tôi, nhưng bố không cho
tôi biết lí do. Bố lưu ý rằng tôi không có ông dượng người Cộng hòa Séc nào cả.

Mẹ tôi hùng
hồn quả quyết là người dượng đó có thực, dù mẹ từ chối giải thích tại sao tôi
chưa bao giờ được gặp dượng ấy hay dì Cymry, chị của mẹ, người được cho là đã
kết hôn với dượng.

Bố thừa nhận
sự tồn tại của dì Cymry nhưng lại tuyên bố đanh thép rằng dì ấy không bao giờ
lấy chồng. Bố nói dì ấy là một kẻ đồng bóng. Câu đó có ẩn ý gì thì tôi không
biết, vì bố không nói thêm lời nào nữa.

Mẹ tôi tức
điên lên trước lời ám chỉ cho rằng chị của mẹ là loại người đồng bóng. Mẹ gọi
dì Cymry là món quà Thượng đế ban tặng, thế nhưng, mẹ ít đề cập đến đề tài này.

Tôi thấy
sống cùng cái tên Odd dễ thở hơn là chối bỏ nó. Lúc tôi đủ lớn để nhận ra đó là
một cái tên khác thường thì tôi đã thấy thoải mái về nó.

Quan hệ của
Stormy Llewellin và tôi hơn cả mức bạn bè thông thường. Chúng tôi tin cả hai là
tri kỷ của nhau.

Bởi lẽ tấm
thẻ từ chiếc máy bói toán trong lễ hội nói rằng chúng tôi đã được an bài sẽ bên
nhau mãi mãi.

Chúng tôi
lại có cả vết bớt xứng với nhau nữa.

Ngoài chuyện
tấm thẻ và vết bớt, tôi còn yêu nàng rất mãnh liệt. Tôi ném mình xuống vách đá
cheo leo vì Stormy nếu nàng yêu cầu. Tất nhiên là tôi cũng cần phải hiểu rõ mục
đích phía sau lời đề nghị đó.

May cho tôi,
Stormy không phải kiểu người đòi hỏi những việc làm nông nổi như thế. Nàng
không trông đợi những hành động mà ngay đến bản thân nàng cũng không muốn thực
hiện. Trong thời buổi lừa lọc hiện nay, nàng được giữ vững nhờ một cái mỏ neo
lẽ phải to bằng con tàu.

Có lần
Stormy mất cả ngày trời để suy nghĩ xem có nên giữ lại năm mươi xu nàng tìm
thấy trong khe đựng tiền thừa ở trạm điện thoại công cộng không. Cuối cùng nàng
gửi trả số tiền ấy cho công ty điện thoại.

Trở lại
chuyện vách đá, tôi không có ý nói tôi sợ Tử thần. Tôi chỉ chưa sẵn sang hẹn hò
đi chơi với ông ấy thôi.

Toàn thân
thơm phức hương đào như Stormy yêu thích, không sợ Tử thần, xơi một cái bánh
xốp việt quất, giả giọng Elvis nhưng nghe chẳng giống chút nào để tạm biệt ông
bằng câu “Bảo trọng nhé”, tôi lên đường đến làm việc tại Quán Vỉ nướng Pico
Mundo.

Bình minh
vừa ló dạng, một lòng đỏ trứng vàng ươm đã lóe sáng tại đường chân trời phía
đông.

Thị trấn
Pico Mundo nằm ở phía nam California, mặc dù tất cả nước sinh hoạt đều được hệ
thống cấp nước của chính phủ cung cấp nhưng bạn không bao giờ được quên rằng
tình trạng thực sự của khu vực này là sa mạc. Tháng Ba, chúng tôi bị nung nóng.
Tháng Tám như hiện giờ, chúng tôi bị nướng chín.

Biển nằm quá
xa ở phía tây, xa đến nỗi nó lạ lẫm đối với chúng tôi không kém gì Biển Yên
bình[2], vùng đất rộng lớn âm u trên bề mặt chị Hằng.

[2] Biển Yên bình (Sea of Tranquility): địa điểm trên mặt
trăng mà phi thuyền Apollo 11 đã đáp xuống vào ngày 20 tháng 7 năm 1969.

Thỉnh
thoảng, khi đào bới để xây khu cư xá mới ở vùng ngoại vi thị trấn, các nhà khai
thác gặp vô vàn vỏ sò nằm thật sâu bên dưới. Thuở xa xưa, các con sóng đã liếm
lên bờ biển này.

Nếu áp tai
vào những vỏ sò ấy, bạn không còn nghe được tiếng sóng réo gọi nữa mà chỉ có
tiếng gió khô rang rên rỉ, như thể vỏ sò đã quên nguồn cội của nó.

Ngay bên
dưới những bậc tam cấp dẫn lên căn hộ nhỏ của tôi, trong ánh mặt trời đầu ngày,
Penny Kallisto đứng chờ như một vỏ sò trên bờ biển. Cô bé đi giày đỏ, mặc quần
lửng trắng và áo sơ mi trắng sát nách.

Nhìn chung,
Penny không mang nỗi tuyệt vọng trước tuổi dậy thì như vài đứa trẻ thời nay rất
dễ mắc phải. Em mười hai tuổi, sôi nổi, thân thiện và hay cười.

Thế nhưng
sáng nay Penny trông có vẻ nghiêm nghị. Đôi mắt xanh tối sầm như bãi biển một
ngày đầy mây.

Tôi liếc
nhìn về phía ngôi nhà cách xa hơn mươi thước, nơi đó bà chủ nhà Rosalia Sanchez
trông chờ tôi từng giây từng phút để xác nhận rằng bà ấy chưa biến mất trong
đêm. Hình ảnh phản chiếu trong gương không bao giờ đủ sức khiến nỗi sợ hãi của
bà ngủ yên.

Không nói
lời nào, Penny quay đi khỏi những bậc thềm. Cô bé hướng ra phía trước căn hộ.

Như cặp đôi
người khổng lồ, hai cây sồi đồ sộ xứ California dùng ánh nắng và chính bóng của
chúng dệt nên tấm mạng tim vàng, giăng ngang lối vào nhà.

Khi đi dưới
bức màn tranh tối tranh sáng đó, Penny có lúc sáng lung linh, lúc lại chìm vào
bóng tối. Tấm áo của bóng tối làm lu mờ vẻ rực rỡ trên mái tóc vàng óng, thoáng
thay đổi theo từng bước cô bé di chuyển.

Sợ mất dấu
Penny, tôi lao vội xuống mấy bậc thang cuối rồi đuổi theo em. Bà Sanchez đành
phải chờ đợi và lo lắng vậy.

Penny đưa
tôi băng qua ngôi nhà, ra khỏi lối dành cho xe chạy, đến bể nước ở bãi cỏ phía
trước. Xung quanh chân đế của bể nước, bà Rosalia Sanchez xếp hàng đống vỏ sò
với đủ hình thù và kích cỡ thu lượm được từ các ngọn đồi của thị trấn Pico
Mundo.

Penny cúi
xuống lựa một vỏ sò to bằng quả cam rồi đứng lên đưa cho tôi.

Kiểu dáng vỏ
sò tương tự như ốc xà cừ. Mặt ngoài xù xì mang hai màu nâu và trắng, mặt trong
bóng láng tỏa ánh hồng ngọc trai.

Khum bàn tay
phải như thể vẫn đang cầm vỏ sò, Penny áp lên tai. Cô bé ngiêng đầu lắng nghe,
ra hiệu muốn tôi làm theo.

Khi áp vỏ sò
lên tai, tôi không nghe tiếng biển cả, cũng không nghe thấy tiếng gió sa mạc
não nề như đã được kể.

Thay vào đó,
từ trong vỏ sò phát ra giọng thở hung tợn của một con quái thú. Nhịp điệu gấp
gáp của sự đòi hỏi ác nghiệt, tiếng gầm gừ của nỗi khao khát điên cuồng.

Giữa sa mạc
ngày hè mà người tôi lạnh toát.

Khi Penny
thấy gương mặt tôi lộ vẻ đã nghe thấy điều em muốn cho tôi biết, cô bé liền
băng qua bãi cỏ đi đến vỉa hè. Penny đứng ở lề đường, nhìn chằm chằm về cuối
phía tây phố Marigold Lane.

Tôi bỏ vỏ sò
xuống, đến bên cô bé và cùng chờ đợi.

Quỷ dữ đang
đến. Tôi tự hỏi, nó sẽ mang khuôn mặt kẻ nào.

Hàng nguyệt
quế Ấn Độ lâu năm chạy dọc con đường. Những rễ cây xương xẩu to lớn nứt nẻ và
oằn cong vỉa hè bê tông.

Không chút
gió len qua hàng cây. Buổi sáng tĩnh mịch bất thường như bình minh ngày tận
thế, chỉ phút chốc nữa thôi cả bầu trời sẽ nứt toạc ra.

Cũng như nhà
của bà Sanchez, hầu hết những ngôi nhà quanh đây xây theo phong cách thời
Victoria với nhiều cấp độ hào nhoáng khác nhau. Khi thị trấn Pico Mundo được
thành lập vào năm 1900, rất nhiều cư dân từ Bờ Đông đến đây nhập cư và họ
chuộng kiểu kiến trúc thích hợp với vùng bờ biển lạnh lẽo, ẩm thấp xa xôi này.

Chắc họ
tưởng có thể mang đến thung lũng này những thứ họ yêu thích, bỏ mặc sau lưng tất
cả những gì khó chịu.

Song chúng
ta không phải giống loài có thể chọn lựa hành lí buộc phải mang theo. Dù với
những mục đích tốt đẹp nhất, lúc nào chúng ta cũng nhận thấy mình phải mang bên
người một hai va li chứa sự ám muội và nỗi khổ sở.

Nửa phút
trôi qua, chuyển động duy nhất chỉ là cánh diều hâu bay lượn trên cao, thấp
thoáng giữa những nhánh nguyệt quế.

Sáng nay con
diều hâu và tôi đều là những tay săn mồi.

Penny
Kallisto chắc hẳn cảm nhận được nỗi sợ hãi của tôi. Em nắm tay phải của tôi
trong bàn tay trái của mình.

Hành động ân
cần ấy khiến tôi thấy được an ủi. Cái nắm tay chặt của Penny xem ra thật vững
vàng và bàn tay em không hề lạnh. Tôi có thêm dũng khí từ tinh thần mạnh mẽ của
cô bé.

Vì chiếc xe
không rồ ga, lăn bánh với vận tốc chỉ vài dặm một giờ nên tôi không nghe thấy
gì cho đến khi xe rẽ sang khúc quanh. Nhận ra chiếc xe, tôi thấy nỗi buồn dâng
lên bằng với nỗi sợ hãi.

Mẫu xe
Pontiac Firebird 400 đời 1968 này được phục chế hết sức cẩn thận. Chiếc xe hai
cửa màu xanh sẫm có thể đóng mở mui lướt về phía chúng tôi cách vỉa hè một
khoảng ngắn, nó lung linh như ảo ảnh trong hơi mỗi buổi sớm mai.

Harlo
Landerson và tôi là bạn cùng lớp thời học phổ thông. Suốt những năm đó, Harlo
sửa sang lại từ phần trục xe trở lên, cho đến khi trông chiếc xe bóng bẩy như
vào thời điểm mùa thu năm 67, khi lần đầu tiên mẫu xe xuất hiện tại nơi trưng
bày.

Tự ti, có
phần bẽn lẽn, Harlo không dốc sức chăm chút chiếc xe với hi vọng nó trở thành
nam châm thu hút các cô nàng xinh đẹp hay những ai từng nghĩ cậu ta nhạt nhẽo
nay bỗng nhiên thấy cậu ta tuyệt đến mức làm đóng băng thủy ngân trong nhiệt
kế. Harlo không có tham vọng trong việc giao thiệp với mọi người, cậu ta không
hề ảo tưởng đến cơ hội nâng cao thứ bậc thấp kém trong chế độ phân chia giai
cấp ở trường phổ thông.

Với động cơ
V-8, 335 mã lực, chiếc Firebird có thể tăng tốc từ không lên sáu mươi dặm một
giờ trong vòng chưa đầy tám giây. Thế nhưng Harlo không phải tay đua kiệt xuất
nên cậu ta chẳng có chút hãnh diện đặc biệt nào khi sở hữu một chiến mã tốc độ
cực đỉnh như vậy.

Harlo dồn
nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vào chiếc Firebird vì vẻ đẹp của kiểu
dáng và chức năng xe hút hồn cậu ta. Đó là việc làm xuất phát từ trái tim, một
niềm đam mê có tính trong sáng và độ mãnh liệt đến thiêng liêng.

Đôi khi tôi nghĩ
sự hiện diện của chiếc Pontiac rất quan trọng trong cuộc đời của Harlo vì cậu
ta không còn ai khác để trao gửi những yêu thương, và cậu đã dành cho chiếc xe.
Mẹ Harlo qua đời năm cậu lên sáu. Bố cậu là một kẻ nát rượu.

Một chiếc xe
không thể đáp lại tình cảm mà bạn dành cho nó. Nhưng nếu bạn đơn côi cùng cực
thì cú tóe lửa của kim loại crom, vẻ sáng bóng của nước sơn và tiếng nổ của
động cơ cũng có thể được xem là sự trìu mến thương yêu.

Harlo và tôi
không phải bạn chí cốt mà chỉ là bạn bè bình thường. Tôi mến anh chàng này. Cậu
ta trầm tính nhưng trầm tính vẫn tốt hơn thói khoe khoang khoác lác mà rất
nhiều đứa nhờ vào đó để thu hút sự chút ý trong trường phổ thông.

Tôi giơ tay
trái vẫy Harlo trong khi Penny Kallisto vẫn còn bên cạnh tôi.

Từ thời học
phổ thông, cậu ta đã làm việc chăm chỉ. Chín giờ sáng đến năm giờ chiều. Harlo
dỡ hàng tại Super Food rồi mang thực phẩm từ kho dự trữ ra bày lên giá.

Trước đó, từ
bốn giờ sáng, cậu ta đi giao hàng trăm tờ báo đến các căn hộ nằm phía đông thị
trấn Pico Mundo. Mỗi tuần một lần, cậu ta còn phát cho từng ngôi nhà một túi
nhựa chứa đầy những tờ bướm quảng cáo và phiếu giảm giá.

Sáng nay Harlo chỉ giao báo. Cậu ta ném
báo bằng một cú hất cổ tay như thể đó là mấy cái boomerang. Từng tờ Thời báo
hạt Maravilla số ra ngày thứ Ba được gập lại để trong bao, quay tít giữa không
trung rồi với tiếng “thịch” khẽ khàng, nó đáp xuống lối đi trước nhà, đúng vị
trí mà người đặt mua muốn thấy.

Harlo đang giao báo bên kia đường. Khi
đến ngôi nhà đối diện với nơi tôi đứng, cậu ta dừng chiếc Pontiac đang thả dốc lại.

Penny cùng tôi băng qua chỗ chiếc xe và
Harlo lên tiếng. “Chào Odd. Cậu thế nào vào một ngày đẹp trời hôm nay?”

“Chán,” tôi đáp. “Buồn. Rối bời.”

Harlo cau mày lo âu, “Chuyện gì không ổn
à? Tớ giúp được gì không?”

“Chuyện cậu đã làm,” tôi trả lời.

Buông tay Penny, tôi nghiêng người vào
trong chiếc Firebird từ bên phần ghế hành khách, tắt máy xe và giật mạnh chìa
khóa ra.

Hoảng hốt, Harlo vội chộp chùm chìa khóa
lại nhưng không kịp, “Này, Odd, đừng giỡn nữa được không? Lịch làm việc của tớ
sít sao lắm đấy.”

Tôi chưa từng nghe giọng Penny, song
bằng thứ ngôn ngữ của linh hồn - tuy lặng thinh nhưng lại chứa đựng nhiều điều,
cô bé hẳn đã nói với tôi.

Những gì tôi thốt ra với Harlo Landerson
chính là phần cốt yếu nằm trong điều cô bé tiết lộ: “Trong túi của cậu có máu
cô bé.”

Anh chàng ngây ngô đã bị lời tuyên bố
của tôi làm lộ tẩy. Harlo nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt bất chợt nghiêm lại nhưng
không chứa đựng vẻ từng trải mà là nỗi sợ hãi.

“Đêm đó,” tôi tiếp lời, “cậu mang theo ba
mẩu vải nỉ vuông màu trắng.”

Một tay vẫn đặt trên vô lăng, Harlo rời
mắt khỏi tôi, nhìn sau kính chắn gió như thể muốn lái chiếc Pontiac bỏ đi.

“Sau khi lợi dụng cô bé, cậu dùng mấy
mẩu vải lưu giữ lại chút máu trinh.”

Harlo rùng mình. Khuôn mặt cậu ta đỏ
bừng lên, có lẽ do xấu hổ.

Nỗi đau làm tôi nghẹn giọng, “Mấy mẩu
vải khô quánh và sẫm màu, giòn như bánh quy.”

Cơn rùng mình của Harlo vỡ òa thành
những run rẩy dữ dội.

“Cậu luôn mang một trong những mẩu vải
ấy bên mình.” Giọng tôi run lên vì bức xúc, “Cậu thích ngửi nó. Ôi, Chúa ơi,
Harlo. Đôi khi cậu còn đưa nó vào giữa hai hàm răng và cắn.”

Harlo mở tung cửa xe và bỏ chạy.

Tôi không phải luật pháp. Tôi không nhân
danh công lí. Tôi cũng không hiện thân cho sự báo thù. Tôi thật sự không biết
là gì, và tại sao.

Tuy nhiên vào những lúc này thế này, tôi
không thể ngăn bản thân đừng hành động. Cơn giận dữ cuốn phăng tôi và tôi không
thể ngoảnh mặt làm ngơ trước điều buộc phải làm, cũng như không thể mong ước
cho thế giới suy tàn này trở lại trạng thái tươi đẹp.

Khi Harlo vắt chân lên cổ phóng vọt đi
khỏi chiếc Pontiac, tôi nhìn xuống Penny Kallisto và thấy vết dây buộc hằn
quanh cổ cô bé, dấu vết đó không rõ vào lần đầu tiên cô bé hiện ra trước mặt
tôi. Độ sâu của mảnh vải cứa vào da thịt cô bé làm dấy lên cơn cuồng nộ trong
tôi. Việc cậu ta làm đã dồn cô bé đến chỗ chết.

Sự tiếc thương cào xé lòng tôi, và tôi
đuổi theo Harlo Landerson, một kẻ tôi không hề mảy may thương xót.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3