Hoa Tư dẫn - Phần I - Chương 1 - Phần 1
Phần 1: Tận kiếp
phù du
Cô hôn mắt chàng,
run rẩy chống tay ngồi dậy, ôm mặt chàng, “Em sẽ cứu chàng, cho dù phải chết,
em cũng cứu chàng”.
Chương 1
Tháng
tư, sắc xuân ngập tràn núi rừng, Quân sư phụ cuối cùng đã trở về sau sáu tháng biệt
tăm. Có nghĩa là những vết khâu trên cơ thể tôi không lâu nữa có thể cắt chỉ.
Sáu
tháng nay, toàn thân tôi bị băng bó kín. Ban đầu, tôi còn có hứng thú trong đêm
tối nhảy ra ngoài dọa đồng môn. Nhưng không lâu sau, tôi phát hiện chẳng đồng môn
nào sợ hãi khi họ đã bị dọa một lần. Mà tôi lại không thể nhận ra những ai đã từng
bị dọa, những ai chưa. Vậy là tôi mất hứng đi trêu mọi người.
Hai
tháng trôi qua, tôi đã thấy hơi khó chịu.
Nhiều
đồng môn tưởng tôi không chịu đựng nổi hàng ngày mang cơ thể quấn đầy băng đi ngâm
bốn canh giờ trong bể thuốc. Thực ra, ngâm thuốc như vậy dưỡng thương rất tốt. Chỉ
có điều sau khi ngâm phải giữ nguyên những lớp băng ướt sũng như vậy ngồi chờ cho
đến lúc khô, điều này khiến tôi vô cùng khó chịu. Sự khó chịu càng tăng lên khi
thời tiết lạnh dần.
Về
sau, tôi nghĩ phàm những anh hùng cái thế, đều phải chấp nhận những thử thách rèn
luyện đặc biệt hà khắc của sư phụ. Quân sư phụ ắt là muốn giúp tôi rèn luyện bản
lĩnh, nghị lực. Vì vậy, dẫu trong những ngày tháng Chạp buốt giá căm căm, tôi cũng
cắn răng chịu đựng, quyết không bỏ cuộc, cho dù có thể bị nhiễm thương hàn.
Kiên
trì được nửa năm, qua mấy lần cảm thương hàn, quả nhiên khả năng kháng thương hàn
của tôi tăng lên rõ rệt. Tôi nói chuyện đó với Quân sư phụ, sư phụ trầm tư giây
lát, rồi hóm hỉnh trả lời: “À... ta quên không bảo con, cạnh nhà tắm có một cái
lò có thể giúp vải băng trên người khô nhanh, ha ha...”.
Quân
sư phụ chính là tông chủ Quân Vũ giáo. Quân Vũ giáo lập nghiệp trên núi Quân Vũ,
thuộc địa phận Trần quốc. Nghe nói, ông tổ khai sơn lập giáo không phải họ Quân
mà là họ Vương, xuất thân nghèo khó, cha mẹ đặt tên là Vương Tiểu Nhị(*).
Về
sau, sư tổ Vương Tiểu Nhị được một bậc cao nhân truyền võ, sau khi thành tài, lập
ra giáo phái trên núi Quân Vũ. Nhưng không chiêu mộ được đệ tử tốt, hỏi ra mới biết,
khi nghe danh tông chủ Quân Vũ là Vương Tiểu Nhị, mọi người đều cho rằng đó là lớp
dạy nghề phụ việc, đệ tử học xong sẽ phục vụ trong các quán ăn trên khắp nước.
Sư
tổ Vương Tiểu Nhị đành mời một ông thầy đồ gần đó đổi tên cho. Ông thầy xem xét
đại thế thiên hạ, rồi phán, các họ lớn như Tây Môn, Đông Phương, Bắc Đường, Nam
Quan, Thượng Quan, Mộ Dung đều đã lập giáo phái riêng; hai họ Đông Quách và Nam
Quách mặc dù chưa lập giáo, song nếu lấy họ này sẽ khó khăn trong việc giải thích
lai lịch, chi bằng lấy ngay tên địa danh, lập giáo phái trên núi Quân Vũ, vậy lấy
họ Quân Vũ, coi như sáng tạo ra một họ kép mới, họ Quân Vũ.
Nhưng
lại nghĩ, tạo ra họ kép phải lập hồ sơ trình quan phủ, thủ tục phức tạp, lại không
có người tiến cử, chi bằng tốt nhất dùng ngay họ “Quân”, vả lại họ này nghe rất
khí thế, rất “quân tử”. Vương Tiểu Nhị thấy có lý, bèn đổi thành họ “Quân” và nghe
theo đề nghị của ông thầy, dựa theo cổ ngôn dịch trực tiếp hai chữ “Tiểu Nhị” thành
Thiếu Song(**), tên đầy đủ là Quân Thiếu Song.
(*) Tiểu nhị: Người phụ việc trong các
nhà hàng, quán trọ.
(**) “Tiểu” là nhỏ, ít chuyển thành
“Thiếu”cũng là ít, “Nhị” là hai chuyển thành “Song” cũng là hai.
Sau
khi Vương Tiểu Nhị đổi tên thành Quân Thiếu Song quả nhiên chiêu mộ được rất nhiều
đệ tử tốt. Từ đó thanh thế của Quân Vũ giáo mạnh dần. Quân sư phụ chính là cháu
bảy đời của sư tổ Quân Thiếu Song.
Từ
nhỏ tôi đã biết Quân sư phụ. Lúc đó tôi còn sống trong Quốc tông của Vệ quốc. Sư
phụ đầu tiên của tôi là Huệ Nhất tiên sinh, tuổi tuy cao nhưng vẫn tráng kiện, ăn
uống cũng tốt, đến món đậu phộng rang vẫn còn nhai được. Quân sư phụ đưa con trai
đến sống gần Thanh Ngôn tông, ở trong một căn nhà tranh cách núi Nhạn Hồi hai dặm,
thường đến chơi cờ với sư phụ tôi.
Lúc
sư phụ đưa tôi lên núi ngắm mặt trời mọc, thường nghỉ lại ở căn nhà đó của Quân
sư phụ. Trong nhà chỉ có một chiếc giường. Mỗi lần tôi và sư phụ đến, bao giờ tôi
cũng được dành cho chiếc giường đó. Ba người còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Điều
đó khiến tôi rất khoái trá, vì mỗi lần tới đó, tôi trở thành người đặc biệt.
Sau
này, tôi nói chuyện đó với Quân Vỹ, con trai của Quân sư phụ. Quân Vỹ nói: “Như
thế chứng tỏ có lẽ muội là một công chúa bẩm sinh, chỉ có công chúa mới thích khác
người”. Nhưng tôi không đồng ý với lý giải của Quân Vỹ, công chúa không phải là
thích khác người, mà là quen với sự khác người. Chủ yếu là do không ai dám giống
công chúa. Giữa thích và quen rất khác nhau. Điều này nhiều năm sau khi phải đối
diện với cái chết, tôi mới thấu hiểu sâu sắc.
Quân
Vỹ là người thông kim bác cổ, anh ta biết rất rành về lai lịch từng vị thê thiếp
của hoàng đế các triều đại, thậm chí cả những người được hoàng đế ân sủng một đêm,
chưa kịp rước về.
Quân
Vỹ cho rằng, gia sự ảnh hưởng quốc sự, quốc sự là việc lớn của thiên hạ, mà gia
sự của các bậc đế vương hầu hết là do hậu cung gây ra. Thực ra, chỉ cần các vị hoàng
đế không quá ham mê nữ sắc, không nạp nhiều phi tần là sẽ không xảy ra chuyện gì.
Nhưng không nạp thêm phi tần thì quả là tàn nhẫn đối với hoàng đế, hoàng đế cảm
thấy không thể tàn nhẫn với bản thân, thế là họ lựa chọn tàn nhẫn với người trong
thiên hạ.
Quan
điểm của Quân Vỹ là hòa hợp hậu cung của hoàng đế chính là hòa hợp toàn thiên hạ.
Từ đó, cả đời anh ta tập trung suy nghĩ làm thế nào để hòa hợp hậu cung của hoàng
đế.
Ngoài
đại sự cả đời đó, Quân Vỹ còn có một niềm đam mê khác. Đam mê viết tiểu thuyết.
Nhưng Quân sư phụ rất không tán thành. Bởi lẽ, sư phụ mong muốn con trai sẽ trở
thành một kiếm khách nổi tiếng thiên hạ. Hễ thấy anh ta viết tiểu thuyết là tịch
thu bản thảo, phạt chép kiếm phổ. Thế là anh ta đành văn võ kết hợp, lén viết tiểu
thuyết trong quá trình chép phạt kiếm phổ.
Trong
những bản kiếm phổ Quân Vỹ chép phạt, thỉnh thoảng có đoạn đại loại như: “Mỗi ngày
khi mặt trời chiếu sáng, nàng dùng đôi tay trần cởi từng lớp xiêm y, để tấm thân
như men sứ lõa lồ dưới ánh mặt trời. Đó là nơi cực lạnh, nàng ngồi trên chiếc giường
băng lạnh, phát ra tia sáng trắng lạnh người, lạnh, rất lạnh, vô cùng lạnh, nàng
cứ ngồi khoanh chân như thế, mặt hướng về bắc, lưng quay về nam. Hơi khí vận hành
đủ bảy ngày viên mãn. Nàng không hề biết, xa xa cách đó mười trượng, phía sau lớp
lớp giậu tường vi mùa đông đang có một đôi mắt đen thẫm lần theo từng tấc da thịt
nàng”.
Thực
ra không ai nghĩ, đó là bốn câu trong kiếm phổ tâm pháp: “Lúc trời lạnh nhất, một
mình ngồi trên giường băng, lõa thể, mặt hướng về bắc, vận khí đủ tuần chẵn”. Sau
này, Quân Vỹ trở thành kiếm khách giỏi viết tiểu thuyết nhất và tiểu thuyết gia
kiếm pháp cao cường nhất.
Bản
thân tôi vì lớn lên trong Thanh Ngôn tông phái, tông phái quy định đàn ông không
được để tóc. Cả tông môn gần hai ngàn người, trừ tôi tất cả đều là đàn ông. Vì vậy,
toàn tông môn chỉ có mình tôi để tóc dài. Điều này khiến tôi có những lệch lạc trong
nhận thức đầu tiên về giới tính, trong một thời gian dài tôi cho là sự khác biệt
lớn nhất giữa đàn ông và đàn bà là đàn bà thì để tóc dài, đàn ông thì đầu trọc.
Thế là đương nhiên tôi cho rằng Quân sư phụ và Quân Vỹ đều là đàn bà. Cảm giác tương
đồng giới tính khiến tôi trở nên thân thiết với họ.
Rất
tự nhiên, sau này cuối cùng tôi cũng vỡ lẽ, cha con họ đều là đàn ông. Nhưng ý nghĩ
họ là đàn bà đã thâm căn cố đế trong tôi, khiến sau này tôi không thể nào đối xử
với Quân Vỹ theo tình cảm nam nữ. Luôn coi anh ta là chị em của tôi, câu chuyện
vốn là thanh mai trúc mã bị tôi biến thành chỉ thuần thanh mai.
Lúc
ba tuổi, vì một cơ duyên ngẫu nhiên tôi biết mình là công chúa Vệ quốc, nhưng tôi
thấy chuyện này cũng rất bình thường. Chủ yếu là do lúc đó tôi chẳng hiểu “công
chúa” là gì. Quân Vỹ lớn hơn tôi một tuổi. Biết hơn tôi rất nhiều, anh ta nói: “Công
chúa thực ra là một tầng lớp đặc quyền”. Tôi hỏi: “Đặc quyền nghĩa là gì?”. Quân
Vỹ trả lời: “Là mọi điều muội muốn đều có thể làm, những điều không thích có thể
không làm”. Nghe Quân Vỹ nói vậy, trưa hôm đó tôi dứt khoát không chịu rửa bát,
buổi tối cũng không giặt quần áo, kết quả tôi bị sư phụ phạt quỳ tới nửa đêm.
Từ
đó về sau, tôi thực sự quên việc mình là công chúa. Cũng năm đó, sư phụ thấy tôi
cũng đã lớn liền dạy tôi cầm kỳ thư họa. Sư phụ cho rằng, con người ta sống trên
đời nên có gì đó để gửi gắm nỗi lòng.
Nếu
cầm kỳ thư họa tôi đều tinh thông đương nhiên là tốt nhất, coi như đã thành nhân
tài. Hoặc nếu chỉ giỏi một trong tứ tài đó cũng tốt, ít nhất cũng là một chuyên
gia. Nếu như cái gì cũng không giỏi, cái gì cũng biết một ít, thì bét nhất cũng
là một tạp gia. Tôi hỏi sư phụ: “Ngộ nhỡ sau này con không những không giỏi mà còn
hoài nghi ý nghĩa những thứ phải học đó thì sao?”. Sư phụ trầm ngâm rồi trả lời:
“Triết gia, dù gì cũng là một nhà gì đó...”.
Không
biết tại sao, Quân Vỹ không bái sư phụ tôi làm thầy nhưng lại có thể cùng học với
tôi. Sư phụ giải thích là học thuật vốn không biên giới, không phân biệt sư môn.
Quân Vỹ lại bí mật tiết lộ với tôi, đó là do cha anh ta đã tặng sư phụ mười cây
nhân sâm nghìn tuổi.
Quả
nhiên, học thuật là không biên giới, biên giới quốc gia cũng có thể mua được. Học
cùng với Quân Vỹ, lúc tập viết chữ còn có thể chịu được, nhưng lúc học đàn thì tôi
thực sự khó chịu. Lúc mới học đàn, chúng tôi mỗi người một cây đàn, ngồi đối diện
ở hai đầu phòng, cùng chơi đàn. Nhưng ở cái tuổi này tôi không sao hiểu nổi dư âm
của tiếng đàn có thể dai dẳng ba ngày không dứt, mà điều đầu tiên tôi hiểu lại là
tại sao tiếng đàn như quỷ ám đó có thể khiến người ta như bị cắn xé, tan nát cõi
lòng.
Chúng
tôi ai cũng cảm thấy người kia chơi quá tuyệt, làm cho mình đau khổ, lại càng cố
tạo ra âm thanh diệu kỳ khiến người kia càng đau khổ để trả thù. Cây đàn trong ấn
tượng của tôi là một hung khí, không phải nhạc cụ. Điều đó cũng lý giải vì sao tôi
học được cách giết người bằng tiếng đàn mà mãi mãi không học được cách dùng tiếng
đàn để cứu người, đó hoàn toàn là ám ảnh tâm lý Quân Vỹ gây ra cho tôi. Nhưng sau
khi tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn, muốn dùng tiếng đàn để cứu người
thì tất cả đã chết.
Lúc
mười tuổi, tôi nhặt được một con hổ con vừa mở mắt. Con hổ đó theo tôi suốt đời,
thể hiện lòng trung thành tột bậc của một con dã thú. Mặc dù nghĩ lại hồi đó, tôi
và Quân Vỹ nhặt con hổ đó chẳng qua chỉ vì định giết thịt nó. Đúng lúc cha Quân
Vỹ bị sư phụ tôi thuyết phục, quyết làm một người bảo vệ động vật, khiến Quân Vỹ
ba tháng liền không biết tới mùi thịt. Còn tôi sống trong tông phái cũng ít ăn thịt,
đúng lúc chúng tôi thèm thịt nhất.
Sau
này, không ăn thịt con hổ đó hoàn toàn là do chúng tôi thấy có thể nuôi nó lớn hơn
chút nữa, như vậy thịt mới có thể làm được nhiều món khác nhau như vừa luộc vừa
hấp lại đến hầm đến xào, không khéo vẫn còn thừa ấy chứ. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó
tôi có thể kìm chế cơn thèm, không giết Tiểu Hoàng đúng là một việc đáng khâm phục.
Tiểu Hoàng là tên con hổ đó. Sau này, khi đã tìm hiểu kỹ tôi phát hiện con hổ đó
thuộc loài hổ quý. Tôi và Quân Vỹ đều rất vui, bởi vì bán nó có thể kiếm được món
tiền to. Nhưng khổ nỗi không tìm được người mua, đành giữ nó lại.
Đến
khi chúng tôi tìm được người mua thì cả hai đã lớn, chúng tôi cũng dần dần có tiền,
không cần phải trông vào tiền bán hổ nữa. Điều đó khiến chúng tôi không khỏi than
thở, đời người là vậy, con đường phát tài sao mà gian khổ.
Số
mệnh đã an bài mỗi lần tôi gặp chuyện lớn đều chỉ có một mình, hơn nữa còn bị thương.
Sư phụ nói: “Con đã nghe nói chưa, ông trời đặt trọng trách lên vai người nào, trước
tiên cũng đều thử gân cốt người đó...”. Tôi có thể tưởng tượng, trọng trách lớn
nhất mà ông trời có thể đặt lên vai tôi chắc chắn không ngoài khả năng sau khi sư
phụ qua đời, tiếp nhận tông y, trở thành tông chủ. Nhưng về sau, Quân Vỹ lén lấy
tông quy cho tôi xem, trong đó quy định rõ, nữ nhi và phù thủy không được đảm nhận
chức vụ trong Quốc tông, thế là giấc mộng của tôi tan thành mây khói.
Nhiều
người sau khi vỡ mộng thường đi vào tà đạo. Dưới chân núi cũng có một thích khách
do mưu việc lớn không thành mà lưu lạc giang hồ, sau chuyển nghề mổ lợn. Lại có
thư sinh do hỏng thi mà chuyển sang viết tiểu thuyết dâm ô, vẽ tranh khiêu dâm.
Nhưng trước sau tôi vẫn cho rằng, mơ mộng và lấy vợ cũng gần như nhau, cái cũ chưa
qua, cái mới sao đến được, hơn nữa cái mới thường tốt hơn cái cũ, mộng cũ tan vỡ
là để xây mộng mới. Đó là việc đáng mừng, có gì đáng chán nản.
Tôi
chia sẻ suy nghĩ này với Quân Vỹ, anh ta cũng cho là có lý. Thế là buổi chiều anh
ta hăm hở xuống núi an ủi Vương Mục Tượng, người đàn ông vừa mất vợ: “Vợ mất thì
sớm muộn cũng có người đàn bà mới đến với anh. Vợ mới chắc chắn tốt hơn vợ cũ. Đó
là một việc đáng mừng. Anh cứ vui lên, việc gì phải đau lòng”. Hậu quả là bị Vương
Mục Tượng vác chổi đuổi đánh, Quân Vỹ không thể giải thích được gì, thậm chí còn
thấy bị tổn thương. Tôi đành an ủi anh ta: “Người đời thường tỏ ra tức giận khi
chân tướng bị bại lộ để che đậy nỗi xấu hổ trong lòng”.
Trong
cái đêm giấc mộng trở thành tông chủ tan vỡ, tôi dự định lúc trời sẩm tối sẽ ra
ngoài, vào rừng bẫy chim để thay đổi tâm trạng, tìm cảm giác mới mẻ, dệt giấc mơ
mới, lấy lại niềm tin. Có thể thấy, tôi thực sự là một người theo chủ nghĩa tích
cực.
Ngoài
ra, tính cách tích cực đó còn thể hiện trong cuộc sống riêng tư của tôi. Ví dụ,
tôi không bao giờ hoài nghi một ngày nào sau này tôi có chồng, chẳng may anh ta
mất sớm, tôi sẽ không ngần ngại thu dọn hành trang ra đi ngay trong đêm anh ta tắt
thở, đi tìm người chồng mới.
Nhưng
cho tới cái đêm tôi bị lây cảm cúm từ Quân sư phụ, vẫn quen cho rằng người chồng
tương lai của mình là Quân Vỹ, thấy anh ta vô tư nhảy nhót trước mặt mình, tôi thầm
nghĩ: Ôi trời, sao mình có thể lập tức đi tìm hạnh phúc mới khi con người này vừa
tắt thở?
May
mà suy nghĩ đó chỉ kéo dài đến cái đêm giữa hạ khi tôi mười bốn tuổi, đêm dự định
xây lại giấc mơ đó.
Về
cái đêm giữa hạ đó, có bao nhiêu mỹ tự để mô tả, nhưng chân thực nhất chính là ba
chữ: quá tàn nhẫn. Nghe nói trong đêm giữa hạ, rắn độc đặc biệt trở nên hung dữ.
Trong tông môn đã có ba đệ tử bị rắn độc cắn khi đi ra ngoài vào ban đêm, mong những
đệ tử khác cảnh giác, phải biết quý trọng bản thân.
Khi
còn nhỏ, tôi luôn tin rằng mình là người đặc biệt, sẽ không giống ba người bất hạnh
kia, lần ra ngoài đó không mang theo hùng hoàng(*). Bây giờ nghĩ lại, ba sư huynh
chết vì bị rắn độc cắn đó chắc cũng nghĩ rằng mình đặc biệt. Con người ta ai cũng
cho rằng mình đặc biệt, thực ra trong mắt người khác chẳng có gì đặc biệt, trong
mắt rắn độc lại càng không có gì đặc biệt.
(*) Hùng hoàng là một loại đá mà rắn
rất sợ.
Có
lẽ đối với loài rắn độc, chỉ có người mang theo hùng hoàng thì mới đặc biệt. Lúc
còn nhỏ, chúng ta thường muốn tỏ ra khác người, lúc trưởng thành lại muốn giống
mọi người. Nếu có thể ngược lại, chẳng phải quá tốt hay sao, chí ít tính mạng của
ba sư huynh đó cũng được bảo toàn, cho dù trở thành người thực vật. Nhưng tôi lại
không mang theo hùng hoàng, rõ ràng rắn độc thấy tôi chẳng có gì đặc biệt
Một
con rắn xanh, đuôi nhỏ, mồm có viền trắng đớp vào chân tôi một cái, chất độc ngấm
vào máu truyền khắp cơ thể. Tôi lảo đảo một lúc, dần dần ngã gục, vào lúc ý thức
mơ hồ, cuối cùng tôi hiểu ra đạo lý tôi đã nói ở trên. Tôi lại còn nhớ đến hai bức
tranh vẽ ngôi chùa cổ trong núi mà tôi phải vẽ hai ngày mới xong, không biết đã
tô màu chưa, sau khi nhớ lại, cảm thấy chẳng có gì lưu luyến, có thể yên tâm nhắm
mắt đợi thần chết đến, rồi không mở ra được nữa.
Đúng
lúc đó, có tiếng giày đạp trên lá khô lạo xạo vẳng lại mỗi lúc một gần, cuối cùng
dừng lại bên tôi, bế tôi lên, thoảng ngửi thấy mùi hương mai thanh lạnh, có thể
hình dung ra trong đêm thanh vắng dưới muôn ánh sao xán lạn, hoa mai tháng hai nở
đầy các triền núi.
Lúc
tỉnh dậy, cảm thấy huyết dịch sôi sục trong người, chảy xuống tụ ở vùng bụng, tay
sờ lên bụng, từng trận đau âm ỉ. Gót chân chỗ bị rắn cắn tê cứng, chạm vào vật gì
mềm mềm âm ấm, đầu gối hơi co, bắp chân như bị treo trên không. Toàn thân cảm giác
kỳ dị như vậy, tôi không chịu được, muốn mở mắt xem có chuyện gì. Vừa mở ra, thấy
ngay một cảnh tượng khủng khiếp. Đó là cảnh trong hang núi, tôi nằm trên chiếc giường
đá, dưới ánh trăng bàng bạc, chân phải bị một người đàn ông nắm chặt. Ngón tay mảnh
khảnh, trắng muốt, miệng anh ta ngậm chặt vết thương ở gót chân tôi. Tôi chỉ nhìn
được phía đó, phía bên kia đã bị món tóc xõa che khuất, khiến tôi chỉ muốn vén tóc
anh ta để nhìn cho kỹ. Anh ta không biết tôi đã tỉnh, toàn thân anh ta y phục đen
tuyền, lặng lẽ ngồi cạnh mép giường đá, miệng vẫn ngậm chặt gót chân tôi. Ống tay
áo dài rộng trùm lên chân tôi, cúi đầu, có thể nhìn thấy những đường viền hoa văn
cùng màu ở cổ tay.
Mọi
vật xung quanh mờ mờ, không thể nhìn rõ. Món tóc đen mướt xõa xuống, chạm vào chân
tôi. Trộm nghĩ nếu cả hai không ở tư thế kỳ quặc như vậy, sự hội ngộ giữa một thiếu
nữ xinh đẹp và một chàng công tử anh tuấn sẽ bay bổng lãng mạn như nét chữ thảo
của nhà đại thư pháp. Tự nhiên, tôi cảm thấy đang bị người ta cợt nhả, liền thuận
thế đạp cho anh ta một cái. Cú đạp quá mạnh, khiến máu ở chỗ kín trong người ục
ra.
Tôi
và người đó lần đầu gặp nhau, tôi đạp anh ta một cái, hậu quả là bật ra máu tháng
đầu tiên.
Anh
ta đương nhiên không bị đạp ngã, nhìn thấy tôi ra chân, anh ta lập tức lùi về sau,
có thể thấy anh ta phản ứng rất nhanh. Còn tôi hoàn toàn không nhận ra rút cục anh
ta làm thế nào đang từ tư thế ngồi chuyển sang tư thế đứng, nhưng tôi thấy thân
thủ anh ta rõ mòn một. Tôi nheo mắt nhìn anh ta, dưới ánh trăng màu bạc rọi vào
cửa hang, dáng người anh ta to cao thẳng tắp, một chiếc mặt nạ màu bạc che nửa khuôn
mặt bắt đầu từ sống mũi tới trán, phía dưới là đôi môi mỏng lạnh lùng, hàm dưới
là một đường vòng cung tuyệt đẹp.
Một
thoáng yên lặng.
Anh
ta lau vết máu dính trên môi, nhếch mép: “Nha đầu này, ghê gớm thật, tôi cứu cô,
vậy mà cô lấy oán trả ơn”.
Nhưng
cơ thể ra quá nhiều máu khiến tôi hoảng sợ, không thể giải thích được gì, đột nhiên
ngoác miệng òa khóc hu hu. Trong khi khóc, vùng bụng vận động quá mạnh, khiến váy
tôi dần dần ướt hết, máu trào từng đợt, càng lúc càng nghiêm trọng. Nhưng tồi tệ
nhất là, hôm đó tôi mặc váy trắng. Ánh mắt anh ta bắt đầu hướng vào chiếc váy của
tôi, ngập ngừng một lát, anh ta hỏi: “Nước quỳ(*) à?”.
(*) Quỳ là tên gọi khác của hoa hướng
dương. “Nước quỳ” là cách nói nho nhã của việc đến tháng của phụ nữ cổ Trung Quốc.
Tôi
nức nở: “Cám ơn, tôi không khát. Nhưng có lẽ tôi bị chứng bại huyết, sắp chết rồi”.
Anh
ta tiếp tục chú ý tới chiếc váy của tôi, chặc lưỡi một tiếng: “Cô không chết đâu,
chỉ là thấy nước quỳ mà thôi”.
Tôi
không hiểu: “Nước quỳ là gì?”.
Anh
ta lưỡng lự một lát: “Chuyện này mẹ cô nên nói với cô chứ”.
Tôi
nói: “Anh à, tôi không có mẹ, anh hãy nói với tôi đi”.
Thật
khó tưởng tượng, tôi nhận được toàn bộ kiến thức về “nước quỳ” từ một người đàn
ông xa lạ. Nhưng càng khó tưởng tượng nếu sư phụ đích thân nói với tôi là, “Nước
quỳ chính là tử cung xuất huyết có quy luật, theo chu kỳ...”. Ngay ông trời cũng
cảm thấy như vậy là làm khó cho một ông lão bảy mươi chín tuổi, nên đã không để
cho ông phải nói.
Anh ta bảo tên anh ta là Mộ Ngôn. Đương nhiên đó không phải
là tên thật. Nếu một người đeo mặt nạ, thì cái tên tất nhiên cũng phải đeo mặt nạ,
nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc giấu mặt.
Tôi nói với anh ta tôi tên là Quân Phú Quý, đơn thuần chỉ
là do lo sợ, biết đâu con người này là kẻ thù của cha tôi mà tôi chưa biết mặt.
Một khi biết tôi là con gái của ông rất có thể hắn sẽ giết tôi để rửa hận. Trong
lịch sử đã có những bi kịch như vậy, rất nhiều công chúa bị liên lụy, mất mạng,
nếu không cũng bị ép gả cho người nào đó, để rồi sống trong hôn nhân bất hạnh.
Cứ như vậy, chúng tôi ở bốn, năm ngày trong hang núi, uống
nước suối bên ngoài, ăn các loài cá dưới suối. Tôi không thể về nhà ngay được vì
chất độc còn chưa giải hết, bởi vì Mộ Ngôn cho rằng, đã cứu người phải cứu tới cùng,
cũng như tiễn Phật phải tiễn đến tận Tây Thiên, làm nửa vời không phải là tính cách
của anh ta.
Hằng ngày tôi đều phải uống một loại thuốc, sau đó chích cổ
tay lấy ra nửa cốc máu. Khi tôi chích máu, Mộ Ngôn thường ngồi trên phiến đá trước
giường chơi đàn. Đó là một loại đàn bảy dây, dây được làm bằng tơ tằm, mỗi lần gảy
phát ra những âm thanh tròn mượt giống như thuốc giảm đau. Mỗi lần Mộ Ngôn chơi
đàn đều khiến tôi nhớ tới Quân Vỹ và trình độ đàn khiến người ta chỉ muốn chết ngay
cho xong của anh ta. Rồi lại thấy tiếc là anh ta không được nghe những thanh âm
tuyệt diệu của người ngồi trước mặt tôi, để anh ta xấu hổ mà tự sát, không còn có
thể đầu độc tôi bằng tiếng đàn của mình nữa.
Trong năm ngày, tôi thực sự rất muốn giật phăng chiếc mặt
nạ của Mộ Ngôn, để xem rốt cuộc mặt mũi anh ta thế nào. Nhưng cứ nghĩ tới làm vậy
có thể bị anh ta chém chết, lại không dám động đậy. Cũng chỉ hiếu kỳ mà thôi, có
lúc chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng vẫn muốn làm cho rõ, đúng là bới việc
ra làm.
Buổi chiều ngày thứ sáu, vết thương ở chân tôi cũng đã khá
hơn nhiều, có thể đi lại được. Mộ Ngôn dặn tôi: “Không cần phải chích máu nữa, sáng
sớm mai tôi sẽ đưa cô về”.
Không ngờ lại chia tay nhanh như vậy, quan trọng là tôi vẫn
chưa giật phăng được mặt nạ của anh ta, tôi nhất thời không chịu được, đứng chôn
chân tại chỗ.
Anh ta hỏi: “Sao, chưa muốn đi hả?”.
Tôi lắc đầu trả lời: “Không phải, không phải. Nhưng mà, anh
không đi với tôi sao? Cái hang núi này làm gì có nhiều đồ, anh cũng đâu phải sẽ
sống mãi ở đây”.
Anh ta trầm ngâm trả lời: “Tôi không đi được, tôi phải ở lại
đây”.
Tôi nói: “Nhưng anh ở lại đây làm gì? Anh có một mình, ở lại
đây chẳng có ai nói chuyện với anh, chẳng có ai nghe anh đàn”.
Anh ta gục đầu trên cây đàn: “Tôi phải đợi một người, e là
nếu tôi đi, người tôi cần đợi sẽ không tìm thấy tôi”.
Tôi lập tức cảm thấy bối rối, nếu tiếp tục hỏi sợ rằng can
thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư của anh ta, nhưng nếu không hỏi sẽ mãi mãi không
biết câu trả lời. Tôi nói: “Chuyện này...”.
Anh ta đứng dậy, cười: “Nói đến là đến, hôm nay có thể là
ngày may mắn”.