Bức thư tình cuối - Phần III - Chương 24 - Phần 2
“Nhưng tôi cần biết...” Don dụi điếu thuốc vào gạt tàn thuốc lá.
“Được thôi.”
“Để tôi nói tiếp. Tôi cần chắc chắn cậu sẽ tự chăm sóc bản thân. Tôi không muốn phải lo lắng.”
“Không rượu. Không có gì phải lo lắng. Tôi chỉ... tôi cần tập trung vào công việc.”
“Đó chính là điều tôi muốn nói.” Nhưng Don không tin anh - Anthony có thể thấy rõ điều đó qua cái nhìn liếc xéo của ông. Ông hơi chựng lại. “Tôi phải có trách nhiệm.”
“Tôi hiểu.”
Don thật là người khôn ngoan. Nhưng Anthony không thể chắc chắn với ông được. Làm sao anh có thể làm thế. Anh còn chưa dám chắc anh có thể vượt qua chính mình trong nửa giờ đồng hồ tới hay không, thì làm sao anh có thể chắc chắn khi ở giữa lòng Châu Phi.
Don cất tiếng trước khi anh kịp nói thêm gì. Ông dụi điếu thuốc. “Sắp có trận đá bóng trong vài phút nữa. Chelsea và Arsenal. Cậu thích xem không?” Ông nặng nề bước ra khỏi ghế và bấm vào chiếc hộp bọc gỗ gụ ở góc phòng. “Tôi sẽ cho cậu biết một tin tốt lành. Cậu không thể bị mắc lại cơn sốt vàng da quái đản đó một lần nữa. Khi cậu đã bị một lần nặng như thế, chắc chắn là cậu đã được miễn dịch sau đó.”
Anthony nhìn chằm chằm vô định vào màn hình đen trắng trước mặt. Làm thế nào để cả những phần khác trong con người tôi cũng miễn dịch?
Họ ngồi trong phòng của trưởng ban biên tập tin quốc tế. Paul de Saint, một người thuộc dòng dõi quý tộc, cao ráo với mái tóc đen vuốt ngược và mang phong thái của một nhà thơ trữ tình lãng mạn, đang nghiên cứu bản đồ để trên bàn làm việc. “Nóng bỏng nhất là ở Stanleyville. Có ít nhất tám trăm người không phải người Congo đang bị bắt làm con tin ở đó, rất nhiều người đang bị giữ ở khách sạn Victoria và có lẽ còn có thêm hàng ngàn người nữa bị giam giữ ở những khu vực lân cận. Những nỗ lực ngoại giao dường như đã thất bại. Có quá nhiều đấu đá trong nội bộ quân phiên loạn đến mức tình hình ở đó thay đổi từng giờ, không ai có thể có một bức tranh chính xác. Tình hình ở đó rất hỗn loạn, O’Hare. Cho tới sáu tháng trước đây, tôi vẫn có thể khẳng định số phận bất kì người da trắng nào ở đó cũng sẽ được đảm bảo, cho dù chuyện gì xảy ra với người bản địa. Giờ, tôi sợ rằng chúng đang nhắm tới người ngoại quốc. Có một vài câu chuyện rất khủng khiếp đang được lan truyền. Nhưng chúng ta không thể đưa những tin tức đó.” Ông dừng lại. “Hãm hiếp chỉ là một phần trong đó.”
“Làm sao tôi vào đất nước đó được?”
“Đó là vấn đề đầu tiên. Tôi đang bàn bạc với Nicholls, cách tốt nhất là đi qua Rhodesia - hay Zambia, vì chúng đã chiếm giữ nửa phía bắc. Người của ta ở đó đang tìm đường đi tốt nhất cho cậu, nhưng rất nhiều đường ở đó đã bị phá hủy nên sẽ phải mất một thời gian.”
Khi ông giải thích thêm cho Don về cách di chuyển sao cho hợp lí, Anthony tạm thời để tâm trí ra ngoài cuộc hội thoại của họ. Với một chút biết ơn, anh nhận ra rằng trong vòng nửa tiếng vừa qua anh đã không hề nghĩ tới cô và thậm chí anh còn thấy câu chuyện khá hấp dẫn. Anh cảm thấy hồi hộp và bồn chồn trước thử thách làm sao vượt qua được lãnh thổ của quân phiến loạn. Anh không hề thấy sợ hãi. Sao anh có thể như thế chứ? Còn gì tồi tệ hơn có thể xảy ra với anh nữa?
Anh đọc lướt qua tập hồ sơ mà nhân viên phó của de Saint vừa đưa cho anh. Chế độ chính trị; quân phiến loạn khiến người Mỹ tức giận; vụ hành quyết nhà truyền giáo Mỹ, Paul Carlson. Anh đọc báo cáo tường thuật về những tội ác quân phiến loạn đã gây ra và hai hàm anh nghiến chặt.
Báo cáo đưa anh trở về năm 1960 và vụ nổi loạn dưới sự chỉ đạo của Lumumba. Anh đọc nó như thể một bản báo cáo hoàn toàn xa lạ. Anh cảm giác như thể cái người thanh niên đã từng ở đó trước đây - cái người đã rất đau khổ trước những gì anh ta chứng kiến - là một người anh không hề nhận ra.
“Vậy là, chúng ta sẽ đặt chuyến bay tới Kenya ngày mai, đúng không? Chúng ta có người ở Sabena và anh ta sẽ cho chúng ta biết có chuyến bay nội địa nào tới Congo hay không. Nếu không, có thể tới sân bay Salisbury và tìm cách tới biên giới Rhodesian. Được không?”
“Chúng ta có biết những phóng viên nào đã có mặt ở đó không?”
“Không có nhiều phóng viên tới đó lắm. Tôi nghĩ thời điểm này liên lạc rất khó. Nhưng hôm nay tôi có đọc được một mẩu tin của Oliver trên tờ Mail và nghe đồn tờ Telegraph sẽ có một bài phóng sự dài cho số báo ngày mai.”
Cửa phòng bật mở. Mặt Cheryl lộ vẻ lo lắng.
“Chúng tôi đang bàn chuyện, Cheryl.” Don có vẻ bực tức.
“Xin lỗi,” cô nói, “nhưng con trai của anh đang ở đây.”
Anthony phải mất vài giây mới định thần là cô ta đang nhìn về phía anh. “Con trai tôi?”
“Tôi để cậu bé ngồi ở phòng làm việc của Don.”
Anthony bật dậy, dường như không tin những gì vừa nghe thấy. “Tôi xin phép ra ngoài một chút,” anh nói và đi theo Cheryl ra ngoài phòng họp.
Và thằng bé kia rồi: cảm giác choáng váng anh vẫn gặp phải trong những lần hiếm hoi anh được gặp Philip, một cú sốc bản năng khi thấy đứa trẻ thay đổi đến mức không nhận ra so với lần gặp cuối cùng, sự phát triển khỏe khoắn của thằng bé là một lời trách móc thầm lặng tới sự vắng mặt của người cha trong cuộc đời nó.
Mới chỉ sáu tháng mà thằng bé đã dài nhẳng người ra, giờ nhìn nó sắp giống một thanh niên mới lớn. Lưng hơi khòng khòng, trông nó giống như một dấu chấm hỏi. Nó nhìn lên khi thấy Anthony bước vào, mặt nó tái nhợt, mắt hoe đỏ.
Anthony đứng sững, tự hỏi chuyện gì đã khiến nỗi đau khổ hiển hiện trên gương mặt nhợt nhạt của con trai. Lại là vì mình nữa? Chẳng lẽ nó đã biết những gì vừa xảy ra với mình? Phải chăng mình đã làm sụp đổ hình ảnh người bố trong mắt nó?
“Là Mẹ,” Philip nghẹn ngào. Nó chớp mắt giận dữ và dùng một tay lau mũi.
Anthony bước lại gần hơn. Thằng bé đứng dậy và thả mình hoàn toàn vào vòng tay của bố. Anthony thấy mình ghì chặt lấy con, đôi tay của Philip bám chặt vào áo sơ mi của anh như thể nó không muốn anh đi đâu cả. Anh nhẹ nhàng vuốt lên đầu nó, tấm thân gầy gò của nó run rẩy trong những tiếng nức nở.
Mưa giội xối xả lên nóc xe của Don đến mức hầu như mọi suy nghĩ cũng bị cuốn trôi theo mưa. Hầu như chứ không phải tất cả. Trong vòng hai mươi phút họ đã ra tới ngoại ô thông qua con đường đông đúc của phố mua sắm Kensington High Street. Hai người đàn ông ngồi im lặng, âm thanh duy nhất là tiếng rít thuốc liên tục của Don.
“Một vụ tai nạn,” Don nói, nhìn chằm chằm vào dãy đèn đỏ nhấp nháy trước mặt. “Có vẻ nghiêm trọng đây. Phải gọi về tòa soạn ngay.” Ông nhanh chóng lái xe về phía buồng điện thoại công cộng.
Thấy Anthony không nói gì, Don nhoài người về phía trước, dò sóng radio. Ông xem lại đầu điếu thuốc, thổi nhẹ để nó lại cháy lên. “De Saint nói có thể đi vào ngày mai. Nếu không phải đợi tới bốn ngày nữa cho chuyến bay kế tiếp.” Ông nói như thể họ đã quyết định. “Cậu có thể đi và chúng tôi sẽ hoãn chuyến đi của cậu lại nếu xác cô ấy bắt đầu phân hủy.”
“Cô ấy đã bị phân hủy rồi.” Căn bệnh ung thư của Clarissa khiến mọi người bàng hoàng vì mọi chuyện diễn ra quá nhanh. “Mọi người đã nghĩ cô ấy đi từ hai tuần trước.”
“Chiếc xe buýt chết tiệt. Nhìn kìa, nó lấn sang gần hết đường bên kia.” Don hạ kính cửa ô tô và ném điếu thuốc xuống lề đường ướt sũng. Ông gạt những giọt nước chảy trên tay áo khi đóng cửa lại. “Chồng mới của cô ấy thế nào? Có tử tế không?”
“Tôi mới chỉ gặp một lần.”
Con không thể ở với ông ấy. Bố ơi, xin bố, đừng để con ở lại với ông ấy.
Philip vẫn bám chặt vào thắt lưng của anh như bám vào phao cứu sinh. Khi Anthony đưa cậu bé về ngôi nhà trên đường Parsons Green, anh vẫn còn cảm thấy sức nặng của những ngón tay thằng bé nhiều giờ sau khi nó buông anh ra.
“Tôi rất lấy làm tiếc,” anh chia buồn với Edgar. Người đàn ông kinh doanh rèm cửa trông già hơn nhiều so với tưởng tượng của anh. Anh ta nhìn anh đầy nghi ngờ, như thể anh đã nói điều gì đó xúc phạm.
“Tôi không thể đi.” Anh đã nói với tòa soạn. Thật nhẹ nhõm khi nói ra được điều đó. Giống như cuối cùng cũng bị kết tội tử hình sau một thời gian dài hoãn thi hành án.
Don thở dài. Không biết là vì buồn hay vì ông cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. “Đó là con trai cậu.”
“Nó là con trai tôi.” Anh đã hứa: Đúng, tất nhiên rồi, con sẽ ở lại với bố. Tất nhiên là có thể. Mọi chuyện sẽ ổn thỏa thôi. Ngay cả khi nói ra những lời này, anh vẫn không hoàn toàn hiểu anh có thể đem lại gì cho thằng bé.
Giao thông đã được giải tỏa, họ đi với tốc độ rùa bò rồi nhanh dần lên.
Họ tới Chiswick và Don cất tiếng trở lại. “Cậu biết đấy, O’Hare, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Biết đâu đây lại là may mắn. Có Chúa mới biết chuyện gì có thể xảy ra với cậu ở đất nước xa xôi đó.”
Don liếc nhìn sang một bên.
“Và ai mà biết được? Cứ chờ thằng bé lớn lên một chút... cậu vẫn có cơ hội ra chiến trường mà. Có thể thằng bé sẽ ở lại. Viv có thể trông nom nó. Nó vẫn thích ở nhà chúng tôi mà. Mà Viv thì lại rất thích có trẻ con trong nhà.” Rồi một ý nghĩ xuất hiện. “Cậu sẽ phải đi tìm một ngôi nhà riêng để ở. Không ở trong phòng khách sạn nữa.”
Anh để mặc Don dông dài, vẽ ra cuộc sống mới trước mặt anh, giống những câu chuyện được kể lại trên giấy, đầy hứa hẹn và ngọt ngào, ở đó người đàn ông của gia đình sống tử tế hơn, quên đi những mất mát, chế ngự những nhịp đập cảm xúc và kìm nén nó ở vùng tối sâu thẳm trong tâm hồn anh.
Anh dành hai tuần nghỉ phép để tìm chỗ ở mới và đưa con trai anh về dự đám tang mẹ nó cũng như làm những thủ tục cần thiết cho đám tang. Philip đã không khóc trước mặt anh một lần nào nữa. Thậm chí nó còn bày tỏ một cách lịch sự sự thích thú trước ngôi nhà liên kế nhỏ ở phía tây nam Luân Đôn - khá gần trường của nó và sự mến mộ với Don và Viv, người đã tự coi mình như một người bác của nó và đã làm điều đó đầy đam mê. Thằng bé ngồi bên cạnh chiếc va li bé nhỏ của nó, như thể vẫn đang chờ đợi những chỉ dẫn cho tương lai của nó. Edgar không gọi điện hỏi thăm nó một lần.
Giống như một người hoàn toàn xa lạ. Philip bồn chồn lo lắng, như thể nó sợ sẽ bị gửi đi chỗ khác bất kì lúc nào. Anthony thấy xót xa khi nói với thằng bé rằng anh vui mừng như thế nào khi cuối cùng họ có thể ở cùng nhau, dù tự sâu thẳm bên trong anh cảm giác như anh đang lừa dối người khác, anh được hưởng những đặc ân mà anh không xứng đáng được hưởng. Anh thấy thật khủng khiếp khi không biết làm thế nào để giúp con anh vượt qua được nỗi đau này trong khi vẫn phải cố tỏ ra cứng rắn trước mặt con.
Anh đăng kí một lớp học về kĩ năng vượt qua khủng hoảng tâm lí. Anh đem quần áo của cả hai người tới tiệm giặt là, ngồi cạnh Philip trong tiệm cắt tóc. Anh không biết nấu món gì khác ngoài món trứng luộc nên buổi tối họ tới một quán cà phê ở cuối đường, ở đó phục vụ những khẩu phần ăn thịnh soạn, khổng lồ với món nướng và đậu, rau củ luộc, bánh pút-đinh hấp trong váng sữa tráng. Họ chén sạch thức ăn trong đĩa và tối nào Philip cũng ca ngợi “ngon quá, cám ơn bố”, như thể được tới đó ăn đã là một đặc ân lớn. Trở về nhà, Anthony đứng bên ngoài cửa phòng ngủ của thằng bé, tự hỏi có nên bước vào trong hay không vì chứng kiến nỗi buồn của nó có thể sẽ làm mọi việc thêm tồi tệ.
Vào ngày Chủ nhật, họ được mời tới nhà Don chơi và Viv sẽ làm những đĩa thịt nướng to với đủ loại rau thơm bày xung quanh. Rồi cô rủ họ cùng chơi cờ sau khi cô đã dọn dẹp sạch sẽ. Ngắm đứa trẻ cười khi bị cô chọc, rồi cô khăng khăng là nó phải chơi cùng, cách cô kéo nó vào một gia đình mới khiến trái tim Anthony thổn thức.
Khi họ bước vào xe, anh thấy Philip lưu luyến vẫy tay chào Viv, gửi những nụ hôn gió qua cửa kính ô tô, một giọt nước mắt bất chợt lăn dài trên má anh. Anh phải giữ chặt tay lái, và anh bất động khi nghĩ tới trách nhiệm lớn lao của mình. Anh không biết phải nói gì. Anh có thể cho Philip những gì khi ngay cả anh cũng vẫn đang tự hỏi nếu Clarissa còn sống thì liệu cuộc sống của thằng bé có phải tốt đẹp hơn bao nhiêu không.
Tối hôm đó anh ngồi trước lò sưởi, xem những phóng sự đầu tiên trên vô tuyến về vụ giải cứu con tin ở Stanleyville. Những bóng người mờ mờ xuất hiện từ máy bay quân sự và túm tụm tụ lại theo nhóm trên mặt đường đá dăm, mặt chưa hết thảng thốt. “Quân đội thiện chiến của Bỉ mất vài giờ để giải cứu thành phố. Vẫn còn quá sớm để kết luận số người bị thương một cách chính xác, nhưng báo cáo sơ bộ cho thấy ít nhất một trăm người Châu Âu đã bị chết trong cuộc khủng hoảng nảy. Nhiều trường hợp khác vẫn chưa được xác định.”
Anh tắt vô tuyến, ngồi bất động trước màn hình rất lâu sau khi chấm trắng trên vô tuyến hoàn toàn biến mất. Cuối cùng anh đi lên lầu, đứng do dự trước cửa phòng con trai, và anh nghe tiếng nức nở đang cố kìm lại vọng ra từ trong đó. Đã mười giờ mười lăm.
Anthony nhắm mắt một lúc, rồi mở mắt và đẩy cửa bước vào. Con trai anh giật mình và vội nhét một thứ gì đó xuống tấm ga trải giường.
Anthony bật đèn lên. “Con trai của bố?”
Im lặng.
“Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì ạ.” Thằng bé đã bình tĩnh lại, lấy tay lau mặt. “Con vẫn ổn.”
“Cái gì đó?” Anh hỏi bằng giọng nhẹ nhàng nhất có thể và ngồi xuống mép giường. Người thằng bé nóng và ẩm ướt vì mồ hôi. Chắc hẳn nó đã khóc hàng tiếng đồng hồ rồi. Anthony thấy đau lòng trước sự thiếu hụt tình cha mẹ dành cho thằng bé.
“Không có gì ạ.”
“Nào. Để bố xem.” Anh lật nhẹ ga trải giường lên. Dưới đó là tầm hình Clarissa, được lắp trong một khung hình nhỏ bằng bạc, hai tay cô để trên vai con trai một cách đầy tự hào. Cô cười rất tươi. Thằng bé run bắn lên. Anthony để một tay lên tấm hình và dùng ngón tay cái gạt những giọt nước mắt còn đọng lại trên tấm kính của khung hình. Anh hi vọng Edgar cũng có thể làm em cười hạnh phúc như thế, anh thầm nói với cô. “Bức hình thật đẹp. Con có muốn chúng ta để đâu đó dưới nhà không? Trên lò sưởi nhé? Một chỗ nào đó dễ nhìn thấy nhất để bất kì lúc nào con muốn nhìn là con nhìn được?”
Anh có thể cảm nhận ánh mắt Philip nhìn anh một cách dò xét. Có lẽ thằng bé đang nghĩ trong đầu một vài lí do, đại loại như nó quá mệt mỏi, nhưng lúc này mắt Anthony đang dán chặt vào hình người phụ nữ trong tấm hình, nụ cười hết cỡ của cô. Nhưng anh không nhìn thấy cô. Anh thấy Jennifer. Anh thấy cô ấy ở khắp mọi nơi. Anh có thể nhìn thấy cô ấy ở khắp nơi.
Hãy kiềm chế nào, O’Hare.
Anh đưa trả bức hình cho con trai. “Con biết đấy... con không có lỗi gì khi buồn cả. Thật đấy. Con được phép buồn khi mất một người con yêu quý.” Anh cảm thấy rất quan trọng khi nói ra những lời đúng đắn lúc này.
Giọng của anh run run, như thể vọng lại từ rất sâu trong anh, ngực anh đau nhói với những nỗ lực không để sự việc này làm anh suy sụp. “Thật sự bố cũng rất buồn,” anh nói. “Buồn vô cùng. Mất một người con yêu quý... thực sự là điều không thể chịu đựng nổi. Bố rất hiểu điều đó.”
Anh kéo con trai về phía mình, hạ giọng như thì thầm. “Nhưng bố rất vui khi có con ở đây, vì bố nghĩ... bố nghĩ bố con mình sẽ có thể cùng nhau vượt qua khó khăn này. Con nghĩ sao?”
Philip tựa đầu vào ngực anh và cánh tay gầy guộc của nó ôm chặt lấy anh. Anh cảm nhận tiếng thở nhè nhẹ của nó và ghì nó chặt hơn. Họ ngồi đó, bất động trong im lặng và chìm trong suy nghĩ của mỗi người.
Anh đã không nhận ra rằng cái tuần lễ anh định đi làm trở lại lại đúng vào kì nghỉ giữa kì của Philip. Viv nói không một chút do dự là cô có thể trông Philip vào mấy ngày cuối tuần nhưng cô đã có kế hoạch đi thăm chị gái tới ngày thứ Tư nên hai ngày đầu Anthony sẽ phải tìm cách nào đó.
“Thằng bé có thể tới văn phòng cùng chúng ta,” Don nói. “Nó sẽ thích thú với mấy bình pha trà.” Hơn ai hết, anh hiểu Don là người rạch ròi giữa việc gia đình và việc công tại tờ Nation thế nào nên anh rất biết ơn lời gợi ý đó. Anh đã mong mỏi được đi làm trở lại, lấy lại cân bằng cho cuộc sống. Philip háo hức đến mức ai nhìn cũng phải xúc động khi được đi cùng họ tới chỗ làm.
Anthony ngồi xuống chỗ ngồi mới dành cho anh và đọc lướt qua mấy số báo buổi sáng. Không còn vị trí trống tại phòng Tin tức Trong nước, nên anh được đề nghị làm phóng viên tự do, một chức danh chắc được thiết kế đặc biệt dành cho anh. Anh nhấp một ngụm cà phê và nhăn mặt trước sự dở tệ của chất lượng cà phê mà anh chẳng xa lạ gì. Philip đi hết bàn này đến bàn khác, hỏi có ai muốn uống trà không, chiếc áo sơ mi Anthony mới là sáng nay dính chặt vào tấm lưng gầy giơ xương của nó. Anh bỗng cảm thấy - và biết ơn vì điều đó - anh như đang ở nhà. Đây chính là nơi bắt đầu cuộc sống mới của anh. Rồi mọi việc sẽ ổn. Anh không hề một lần nhìn về phía phòng Tin Quốc tế. Anh cũng không muốn biết ai được cử tới Stanleyville để thay thế anh.
“Đây.” Don đặt bản sao của tờ The Times trước mặt anh, và khoanh đỏ một bài báo trong đó. “Làm nhanh hộ tôi một mẩu tin về vụ phóng tên lửa vào vũ trụ của Mỹ. Lúc này chắc sẽ chưa thể phỏng vấn nóng ai trong chính quyền được, nhưng cậu có thể viết một tin ngắn cho trang tám.”
“Khoảng bao nhiêu từ?”
“Hai đoạn, mỗi đoạn năm mươi từ. Lần sau tôi sẽ tìm cho anh một đề tài hay hơn.” Giọng Don có vẻ ân hận.
“Không sao đâu.” Đúng là mọi chuyện ổn mà. Con trai anh đang cười sung sướng, khệ nệ bưng cái khay đầy tách chén với sự cẩn trọng quá mức cần thiết. Thằng bé liếc nhìn về phía anh và anh gật đầu đồng tình. Anh tự hào về nó, tự hào về sự dũng cảm của nó. Có một người để yêu thương thật sự là món quà Thượng đế đã ban cho anh.
Anthony kéo chiếc máy chữ lại gần và lắp những tờ giấy than vào giữa các tờ giấy trắng. Một bản cho tổng biên tập, một bản cho phó tổng biên tập và một bản để anh lưu lại. Được làm những hành động quen thuộc này thật dễ chịu. Anh đánh máy tên anh ở đầu trang, hài lòng khi nghe tiếng từng nét chữ bật tanh tách dưới ngón tay anh.
Anh đọc rồi đọc lại lần nữa bài báo đăng trênThe Times và ghi vào sổ tay những điều đáng chú ý. Anh đi xuống thư viện tòa soạn ở dưới tầng hầm và lấy ra tập hồ sơ về các sứ mệnh không gian, lật tìm những bài phóng sự gần đây nhất. Anh ghi chép được thêm vài thông tin nữa. Rồi anh đặt tay lên máy chữ.
Không đánh được chữ nào.
Như thể hai tay anh bị tê cứng.
Anh đánh thử một câu. Một câu thật nhạt nhẽo. Anh xé tờ giấy vừa đánh đi và lắp tờ khác vào.
Anh đánh một câu khác. Vẫn nhạt nhẽo. Anh đánh thêm câu nữa. Anh cố gắng kết nối chúng với nhau. Nhưng những từ ngữ dường như không đi theo hướng anh muốn. Đó là một câu viết, đúng vậy, nhưng hoàn toàn không phải là một câu viết xứng tầm cho một bài báo in trên một tờ báo tầm quốc gia. Anh tự nhắc mình về nguyên tắc kim tự tháp trong việc viết bài: thông tin quan trọng nhất được thể hiện ở câu mở đầu, và độ quan trọng giảm dần đi ở những câu tiếp theo. Vì ít người chịu khó đọc cho tới cuối bài báo.
Nhưng anh không làm được điều đó.
Don tới bàn làm việc của anh lúc mười hai giờ mười lăm phút. “Cậu viết xong mẩu tin đó rồi chứ?”
Anthony ngả lưng tựa vào ghế, tay vuốt cằm, một đống giấy tờ vứt lộn xộn trên sàn nhà.
“O’Hare? Cậu xong chưa?”
“Tôi không thể viết được, Don.” Giọng anh đầy hoài nghi.
“Gì cơ?”
“Tôi không thể làm được. Tôi không thể viết. Tôi đã mất khả năng đó.”
“Đừng có ngớ ngẩn. Chuyện gì vậy? Một nhà văn mất cảm hứng? Cậu nghĩ cậu là ai - F. Scott Fitzgerald?” Ông nhặt lên một tờ giấy bị anh vò nát, vuốt thẳng nó để lại trên bàn. Rồi ông nhặt lên một tờ khác, và đọc đi đọc lại những trang giấy này. “Cậu đã thử viết được khá nhiều,” cuối cùng ông lên tiếng. “Có lẽ cậu cần đi nghỉ một thời gian.” Ông nói không một chút hàm ý trách móc. Anthony vừa có một thời gian nghỉ ngơi rồi. “Rồi cảm hứng sẽ quay trở lại,” ông nói. “Đừng vội vàng và đừng nghiêm trọng hóa vấn đề. Tôi sẽ bảo Smith viết bài báo này. Hôm nay cậu cứ nghỉ ngơi. Rồi cảm hứng sẽ quay lại.”
Anthony nhìn về phía con trai, lúc này đang gọt bút chì cho Obits. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy mình phải có trách nhiệm. Lần đầu tiên trong đời anh thấy việc anh có thể cống hiến là một việc rất quan trọng. Anh nhận thấy tay Don để trên vai anh với một sức nặng to lớn. “Tôi còn làm được cái quái quỷ gì nữa nếu cái cảm hứng đó không quay trở lại.”
Chàng trai Ai-len theo đuổi cô gái San Diego giống như cố bắt những ngọn sóng biển chỉ bằng một bàn tay... không thể... đôi khi chỉ còn cách giong buồm đi nơi khác.
Tin nhắn của một người đàn ông
gửi người đàn bà.