Bức thư tình cuối - Phần II - Chương 13
Chương 13
“Tôi không biết. Tôi nghĩ cậu đang có một công việc khá tốt ở
đó rồi. Sao cậu còn muốn quay trở lại?”
“Vì đó là một đề tài đáng chú ý và tôi là người tốt nhất để
viết về nó.”
“Cậu thực sự đang làm rất tốt tại Liên Hợp Quốc. Ở đó vui thú
hơn nhiều.”
“Nhưng câu chuyện thực sự lại nằm ở Congo. Don, ông biết điều
đó mà.”
Mặc cho rất nhiều sự kiện động trời đã xảy ra, mặc cho được
thăng chức từ phóng viên viết bài lên biên tập chính, văn phòng của Don
Franklin và bản thân ông thì chẳng thay đổi gì nhiều kể từ khi Anthony O’Hare
rời nước Anh. Mỗi năm Anthony đều về Anh để thăm con trai và lần nào anh thò
mặt vào cái phòng này là mỗi lần thấy cửa sổ bị ố bởi khói thuốc lá nhiều hơn,
các loại mẩu tin cắt từ báo chất đống lên nhau ngày càng lộn xộn. “Tôi thích
thế”, Don sẽ chống chế khi bị hỏi. “Tôi cần quái gì phải lau cửa sổ để chỉ nhìn
thấy mưa xối xả ngoài đó?”
Ngoài việc căn phòng lộn xộn bẩn thỉu của Don vẫn ở nguyên
đó, tờ Nation đã thay đổi khá nhiều. Các trang báo được trình bày sáng
sủa và bắt mắt hơn nhằm tiếp cận giới độc giả trẻ hơn. Có những chuyên mục chỉ
nói về bí quyết trang điểm, về xu hướng âm nhạc đang thịnh hành, lời khuyên về
phương pháp tránh thụ thai và mục chuyện phiếm chuyên thọc vào những vụ bê bối
hôn nhân. Trong phòng viết báo, bên cạnh những anh chàng phóng viên tất bật tay
áo xắn tận khuỷu là những cô nàng váy ngắn chuyên lo sao chép giấy tờ và tán
gẫu dọc hành lang. Họ sẵn sàng ngừng cuộc nói chuyện nhìn theo anh một cách tò
mò mỗi khi anh đi ngang qua. Những cô gái Luân Đôn đã mạnh bạo hơn rất nhiều.
Anh hầu như không cảm thấy đơn độc khi trở lại thành phố này.
“Ông cũng biết như tôi. Không ai ở đây có kinh nghiệm hơn tôi
về châu Phi. Và giờ đây không chỉ những nhân viên lãnh sự Mỹ bị bắt làm con
tin, người da trắng ở khắp mọi nơi. Có những câu chuyện khủng khiếp đang được
lan truyền - những nhà lãnh đạo Simba không thèm quan tâm những tên phiến loạn
đang làm gì. Thôi nào, Don. Đừng nói rằng Phipps giỏi hơn tôi trong vụ này nhé?
Hay MacDonald?”
“Tôi không biết, Tony.”
“Hãy tin tôi, những người Mỹ không thích người truyền giáo
của họ, Carlson, người chỉ suốt ngày lượn lờ để giảng giải và thuyết phục.” Anh
ngả hẳn người về phía trước. “Có hẳn một chương trình giải cứu... Tên chương
trình đó là Rồng Đỏ.”
“Tony, tôi không biết ban biên tập có quyết định cử người
sang đó không. Những tên phiến loạn là một lũ mất trí.”
“Ai có nhiều mối quan hệ ở đó hơn tôi? Ai biết về Congo, về
Liên Hợp Quốc hơn tôi? Tôi đã ở trong hang thỏ đó bốn năm trời. Bốn năm chết
tiệt đó. Ông cần đưa tôi tới đó. Tôi cần tới đó.” Anh có thể thấy sự quyết tâm
của Don bắt đầu lung lay. Kinh nghiệm của Anthony ở nước ngoài, vẻ ngoài bảnh
trai của anh rõ ràng tăng thêm rất nhiều trọng lượng cho lời cầu khẩn. Trong
suốt bốn năm, anh đã chăm chỉ gửi rất nhiều bài viết về những biến động chính
trị xảy ra trong mê cung Liên Hợp Quốc.
Trong suốt năm đầu tiên anh hầu như chẳng nghĩ ngợi gì nhiều,
chỉ đơn thuần là thức dậy vào buổi sáng và làm cho xong việc được giao. Nhưng
anh vẫn không bao giờ hết dằn vặt rằng những vấn đề thực sự nóng hổi, lẽ sống
của anh, đang diễn ra ở một nơi khác rất xa nơi anh đang ở. Nước Congo giờ đây
đang ở bên bờ vực vô cùng nguy hiểm kể từ vụ ám sát Lumumba và có thể bùng nổ
bất kì lúc nào. Những tiếng còi báo động luôn văng vẳng bên tai anh như thúc
giục anh.
“Tình hình ở đó giờ đây đã hoàn toàn khác,” Don nói. “Tôi
không thích. Tôi không chắc chắn có nên gửi bất kì một ai sang đó hay không cho
đến khi đất nước đó ổn định hơn một chút.”
Nhưng cả Don và Anthony đều biết đây chính là cơ hội để tường
thuật về cuộc xung đột: nó giúp anh dễ dàng nhìn thấy cái đúng cái sai, nhiệt
huyết tăng cao và anh luôn ở trong trạng thái của các cung bậc cảm xúc khác
nhau: lạc quan, tuyệt vọng và tình bạn. Cuộc chiến có thể khiến anh kiệt sức,
nhưng bất kì ai đã từng ở đó đều biết rằng rất khó để bằng lòng với một cuộc
sống bình dị ở nhà.
Sáng nào thức dậy Anthony cũng gọi điện, lục tìm trên báo chí
tất cả tin tức liên quan đến đất nước này, cố gắng tìm hiểu chuyện gì đang xảy
ra ở đó. Anh cảm thấy nó đã bắt đầu ăn sâu vào tận xương tủy. Anh cần phải có
mặt ở đó, cảm nhận cuộc sống ở đó và tường thuật trên báo cho mọi người biết.
Anh đã giả vờ điếc bốn năm trời rồi. Anh cần phải quay lại đó để sống một cuộc
sống thực sự.
Anthony tựa hẳn người về phía trước. “Nhìn này, Philmore nói
với tôi ban biên tập đã chỉ định tôi đích danh. Ông định làm tôi thất vọng ư?”
Don châm một diếu thuốc nữa. “Tất nhiên là không. Nhưng anh
ta không ở đây khi anh...”. Ông gõ điếu thuốc lên mép gạt tàn thuốc lá.
“Chỉ thế thôi ư? Ông sợ tôi sẽ kiệt sức lần nữa?”
Nét bối rối hoài nghi trên mặt Don rõ ràng cho anh biết điều
anh nghĩ tới. “Tôi đã không đụng tới một giọt rượu hàng năm nay. Tôi giữ một
cuộc sống lành mạnh. Tôi sẽ đi tiêm phòng sốt vàng da nếu đó là điều anh thực
sự lo lắng.”
“Tôi chỉ lo cho anh thôi, Tony. Việc này rất mạo hiểm. Thế
con trai anh thì sao?”
“Ồ, đó không phải là vấn đề.” Hai bức thư một năm. Clarrisa
tất nhiên làm thế là vì Philip: sẽ tốt hơn cho thằng bé nếu nó không bị phân
tán bởi những cuộc gặp mặt trực tiếp. “Hãy cho tôi đi ba tháng. Cuộc xung đột
đó chắc chắn sẽ kết thúc vào cuối năm nay. Tất cả mọi người đều nói thế.”
“Tôi không biết...”
“Tôi chưa từng bao giờ nộp bài trễ hạn đúng không? Tôi cũng
từng có những bài viết đáng chú ý. Vì Chúa, Don, ông cần gởi tôi tới đó.
Tờ báo này cần có tôi ở đó. Cần một người rất có kinh nghiệm ở đó. Một
người với nhiều mối quan hệ. Một người có thể vẽ đúng bức tranh ở đó.” Anh đưa
tay vạch ra một tít báo tưởng tượng. ‘Những con tin da trắng ở Congo đã được
giải cứu’. Thấy chưa, Don, hãy làm việc này vì tôi.
“Anh vẫn chưa hết thói thích bay nhảy nhỉ?”
“Tôi biết nơi tôi cần phải đến.”
Don hít một hơi phồng má, như một con hamster, rồi phà ra một
cách ồn ào. “Thôi được. Tôi sẽ lên nói với Ông ấy ở Trên Gác. Tôi không thể hứa
trước điều gì - nhưng tôi sẽ nói chuyện với Ông ấy.”
“Cảm ơn.” Anthony định dợm bước quay đi.
“Tony.”
“Gì vậy?”
“Anh trông rất bảnh.”
“Cảm ơn.”
“Tôi thực sự nghĩ thế. Anh có muốn ra ngoài uống tán phét tối
nay không? Anh, tôi và một vài người bạn cũ? Miller đang ở đây. Chúng ta có thể
làm vài li bia - với đá, Coca-cola, tùy anh chọn.”
“Hình như tôi đã nói với anh là tôi có hẹn với Douglas
Gardiner.”
“Ồ?”
“Tới dự bữa tiệc của Đại sứ Nam Phi. Phải giữ quan hệ.”
Don lắc đầu đầy cam chịu. “Gardiner? Nói với anh ta là tôi
nói rằng anh ta chẳng thể viết một cái gì nên hồn đâu.”
Cheryl, nữ thư kí của tòa báo, đang đứng cạnh tủ văn phòng
phẩm, nháy mắt đầy ẩn ý khi anh đi ngang qua. Đúng là cô nháy mắt với
anh. Anthony O’Hare tự hỏi có đúng là anh đã thay đổi trong những năm qua mà
anh không nhận ra.
“Nháy mắt với cậu? Tony, ông bạn già ơi, vẫn còn may là cô ta
không lôi cậu chui vào đống tủ đó.”
“Tớ mới chỉ đi có vài năm thôi, Douglas. Đất nước này vẫn thế
mà.”
“Không.” Douglas đảo mắt nhìn quanh phòng. “Cậu sai rồi. Luân
Đôn bây giờ là trung tâm của vũ trụ. Mọi chuyện đều có thể xảy ra ở đây. Bình
đẳng nam nữ chỉ là một phần trong số đó.”
Cách nào đó, anh phải thừa nhận là Douglas nói đúng. Ngay cả
bộ mặt của thành phố cũng thay đổi nhiều: không còn những con phố chỉn chu cổ
kính, không còn những kiến trúc trang nhã nhưng buồn tẻ gợi nhớ tới thời cơ hàn
sau chiến tranh. Thay vào đó là những biển hiệu nhấp nháy đầy màu sắc, những
cửa hàng thời trang phụ nữ với cái tên rât khêu gợi như Party Girl hay Jet Set,
những nhà hàng nước ngoài và những tòa nhà cao tầng. Mỗi lần trở lại Luân Đôn
là một lần anh thấy mình như một người xa lạ: những công trình quen thuộc không
còn nữa, mà nếu có còn thì cũng bị che khuất bởi Tòa tháp Bưu điện hoặc những
tòa tháp to lớn khác. Khu căn hộ anh ở trước đây đã bị phá bỏ nhường chỗ cho
một công trình gì đó theo phong cách hiện đại gớm ghiếc. Quầy bar chuyên chơi
nhạc jazz Alberto giờ chuyển sang kiểu nhạc rock-and-roll. Ngay cả quần áo của
mọi người cũng sáng sủa hơn. Thế hệ cũ, với những gam màu nâu và xanh thủy
chiến, giờ nhìn đã khá lạc hậu.
“Vậy là... cậu vẫn nuối tiếc những ngày làm phóng viên chiến
trường?”
“Không hẳn. Tất cả chúng ta đều sẽ có lúc phải bỏ mũ bảo hiểm
ra, đúng không? Phụ nữ làm nghề này có vẻ ưa nhìn hơn. Chắc chắn là thế.”
“New York thế nào? Cậu nghĩ gì về Johnson?”
“Ông ta không phải là Kennedy... Mà hiện
tại cậu phụ trách mảng gì? Chuyên thâm nhập vào tầng lớp cao trong xã hội à?”
“Bây giờ không giống như thời cậu ra đi
nữa Tony à. Chẳng ai còn quan tâm đến những câu chuyện ngồi lê đôi mách về phu
nhân của các Đại sứ. Giờ họ quan tâm tới mấy ngôi sao ca nhạc - The Beatles và
Cilla Black. Chả gây ra đổ máu gì. Tớ theo chủ nghĩa quân bình, tớ phụ trách
mảng xã hội.”
Tiếng li vỡ từng mảnh vọng lại từ góc
phòng phá vỡ cuộc nói chuyện của hai người.
“Wow. Ai đó chắc uống nhiều quá.”
Douglas nhìn về phía có tiếng vỡ. “Có một thứ không thay đổi. Các quý bà vẫn
không thể cầm chắc li rượu của họ.”
“Tớ lại có cảm giác một vài cô gái trong
tòa soạn của chúng ta có thể khiến chúng ta say khướt ở dưới gầm bàn.” Anthony
nhún vai.
“Cậu đã bỏ rượu?”
“Gần ba năm nay rồi.”
“Cậu không nên theo nghề này quá lâu.
Cậu vẫn nhớ nghề à?”
“Từng ngày qua đều không thể quên.”
Douglas ngừng cười và nhìn qua vai anh.
Anthony nhìn cậu ta. “Cậu cần nói chuyện với ai à?” Anh quay nửa người về phía
Douglas đang nhìn.
“Không.” Douglas hơi nghiêng người. “Tớ
nghĩ có ai đó đang chăm chú nhìn tớ. Nhưng không phải. Đó là nhìn cậu. Cô ấy
quen cậu à?”
Anthony quay lại - đầu óc anh quay cuồng
như thể bị một quả bóng ném trúng đầu. Tất nhiên là cô cũng ở đây. Người mà bao
lâu anh đã cố không nghĩ tới. Người mà anh hi vọng sẽ không bao giờ gặp lại.
Anh mới chỉ quay lại Anh chưa đầy một tuần, vậy mà anh gặp cô. Vào buổi tối đầu
tiên anh đi ăn ở ngoài.
Anh nhận ra chiếc váy đỏ sẫm, phong cách
gần như hoàn hảo khiến cô không thể lẫn với bất kì người đàn bà nào trong khán
phòng này. Khi mắt họ gặp nhau, cô dường như sắp ngã.
“Không. Không phải là cậu.” Douglas thốt
lên. “Nhìn kìa, cô ấy đi về hướng ban công. Tớ nhận ra cô ấy. Cô ấy là...” Cậu
ta búng móng tay. “Stirling. Phu nhân ngài Stirling. Ông trùm
quặng a-mi-ăng.” Rồi cậu ta gõ nhẹ lên đầu. “Cậu có muốn tới gặp cô ta chút
không. Biết đâu chúng ta có thể viết được một bài. Cách đây vài năm cô ấy cũng
là một nhân vật khá tiếng tăm. Có thể họ vẫn sẽ để bài viết về Elvis Presley
vào đó, nhưng biết đâu đấy...”
Anthony nuốt khan. “Được thôi.” Anh dựng thẳng lại cổ áo, hít
một hơi thật sâu và đi theo người bạn xuyên qua đám đông về phía ban công.
“Bà Stirling.”
Cô đang ngắm đường phố Luân Đôn tấp nập về đêm, lưng cô quay
lại phía anh. Tóc cô cuộn sóng một cách óng ả, những viên hồng ngọc lấp lánh
trên cổ cô. Cô từ từ quay lại, tay đưa lên che miệng.
Rồi việc này cũng phải xảy ra, anh tự nhủ. Có lẽ nhìn thấy cô
thế này, buộc phải gặp lại cô, sẽ giúp anh cảm thấy thảnh thơi hơn. Mặc dù ngay
lúc này đây anh thực sự không biết phải nói gì. Họ sẽ trao đổi một vài câu xã
giao rồi đi? Cũng có thể cô sẽ xin lỗi và tảng lờ anh rồi bỏ đi. Phải chăng cô
bối rối vì những gì đã xảy ra? Hay ân hận? Cô đã yêu một ai khác rồi? Tâm trí
anh rối bời.
Douglas chìa tay về phía cô và cô bắt tay anh, nhưng mắt cô
thì không rời Anthony. Mặt cô gần như biến sắc.
“Chào bà Stirling. Tôi là Douglas Gardiner, phóng viên tờ Express.
Chúng ta đã gặp nhau tại bữa tiệc ở Ascot, hình như vào mùa hè thì phải?”
“Ồ, vâng,” cô trả lời. Giọng cô run run. “Tôi xin lỗi. Tôi -
Tôi -”
“Ôi, bà vẫn ổn đấy chứ? Trông bà rất xanh.”
“Tôi... Tôi cảm thấy hơi chóng mặt một chút.”
“Bà có muốn tôi đi tìm chồng bà?” Douglas đưa tay đỡ khuỷu
tay của cô.
“Không!” cô nói. “Không.” Cô
thở sâu. “Tôi chỉ cần một cốc nước, nếu anh có thể giúp tôi.”
Douglas liếc sang anh rất nhanh. Chúng ta có gì ở đây? “Tony...
cậu ở lại với bà Stirling nhé? Tớ sẽ quay lại ngay.” Douglas bước vào trong, và
khi cánh cửa đóng lại sau lưng anh ta, chặn tiếng nhạc ồn ào lại, chỉ còn cô và
anh. Mắt cô mở to và vẫn chưa hết bàng hoàng. Dường như cô không thể cất nên
lời.
“Tệ thế ư? Việc gặp lại tôi ấy?” Giọng anh hơi một chút đanh
lại - anh không thể nói khác.
Cô chớp mắt, nhìn đi chỗ khác, rồi lại nhìn anh, như để kiểm
tra có đúng thực là anh đang đứng đó không.
“Jennifer? Cô có muốn tôi ra khỏi đây không? Tôi xin lỗi. Tôi
không có ý định quấy rầy cô. Chỉ là vì Dougie -”
“Họ nói - họ nói anh đã chết. Đã chết.” Giọng cô thì thào như
vừa qua một cơn ho dài.
“Chết?”
“Trong một vụ tai nạn.” Cô đổ mồ hôi, da mặt cô tái xanh. Anh
thót tim tự hỏi chẳng lẽ cô đang sắp ngất. Anh bước lên một bước, đưa cô tới
thành ban công, và anh cởi chiếc áo choàng anh đang mặc đưa cô để cô ngồi lên.
Đầu gục trên hai tay, cô thì thầm rất khẽ. “Không thể là anh đang ở đây.” Như
thể cô đang tự nói mình.
“Gì cơ? Tôi không hiểu.” Anh vẫn tự hỏi phải chăng cô đang
mất trí.
Cô nhìn lên. “Chúng ta cùng đi trên một chiếc ô tô. Rồi có vụ
đâm xe... Không thể là anh! Không thể.” Mắt cô chuyển hướng xuống đôi bàn tay
của anh, như thể cô mong đợi nó cũng sắp bốc hơi.
“Một vụ tai nạn?” Anh quỳ xuống sát cô. “Jennifer, lần cuối
cùng anh gặp em là trong một quán rượu, không phải trong một chiếc ô tô.”
Cô liên tục lắc đầu, rõ ràng không hiểu gì.
“Anh đã viết cho em một bức thư -”
“Đúng vậy.”
“- van nài em đi cùng anh.”
Cô gật đầu.
“Và anh đã đợi em ở sân ga. Em không tới. Anh nghĩ em đã
quyết định không đi theo anh. Rồi anh nhận được một bức thư của em, gửi trực
tiếp cho anh, trong đó em nói rõ và nhiều lần rẳng em là người đã có chồng.”
Anh nói bình tĩnh đến độ như thể việc này cũng chỉ đơn giản
là việc anh đứng đợi một người bạn cũ, như thể sự biệt tăm của cô không hề ảnh
hưởng gì đến cuộc sống của anh, hạnh phúc của anh, trong bốn năm qua.
“Nhưng em đang trên đường tới gặp anh.”
Họ nhìn nhau không chớp mắt.
Mặt cô đổ gục trên đôi tay, vai cô run nhẹ. Anh đứng dậy,
liếc nhìn ra phía sau cô về phòng tiệc sáng đèn và đặt một tay lên vai cô.
Người cô chùng xuống như thể cô đã bị đốt cháy hết năng lượng. Anh vẫn chưa
quên được tấm lưng thon thả đằng sau chiếc đầm kia và hơi thở anh như ngưng
lại. Anh không thể suy nghĩ thấu đáo. Anh không thể nghĩ bất kì cái gì vào lúc
này.
“Bao lâu nay,” cô nhìn anh, nước mắt giàn giụa. “Bao năm
nay... anh vẫn sống.”
“Anh tưởng... em không muốn đi với anh.”
“Anh nhìn đi!” Cô kéo cao tay áo, chỉ anh thấy một vệt bạc
nham nhở chạy dọc theo cánh tay cô. “Em đã mất trí nhớ. Hàng tháng trời sau đó.
Nhưng em vẫn nhớ một vài việc. Ông ấy bảo em là anh đã chết. Ông ấy bảo em -”
“Chẳng lẽ em không thấy tên anh vẫn xuất hiện đều đặn trên
báo ư? Hầu như ngày nào cũng có bài viết của anh.”
“Em không đọc báo nữa. Kể từ hồi đó. Vì sao em phải đọc?”
Nói tới đó cô như thể sắp vỡ òa. Anthony cũng bắt đầu thấy
loạng choạng trên đôi chân. Cô nhìn về phía cửa sổ kiểu Pháp, đã bị mờ đi một
nửa bởi hơi nước, rồi cô dùng ngón tay gạt đi những giọt nước mắt. Anh đưa cô
khăn mùi xoa, cô ngập ngừng cầm lấy, như thể cô sợ phải va chạm bằng da bằng
thịt với anh.
“Em không thể ngồi đây lâu,” cô nói sau khi đã lấy được bình
tĩnh. Mascara bị lem một vệt đen nhỏ dưới mắt cô và anh muốn cô lau nó đi. “Ông
ấy sẽ đi tìm em.” Khóe mắt cô đã bắt đầu xuất hiện những dấu chân chim, làn da
mượt mà của cô giờ đây có vẻ săn chắc hơn. Không còn hình ảnh một thiếu nữ điệu
đà, giờ cô là một người đàn bà lịch lãm. Anh không thể rời mắt khỏi cô. “Làm
thế nào để liên lạc với em?” anh hỏi.
“Anh không thể.” Cô lắc nhẹ, như thể cô cũng đang cố gắng
không nghĩ tới điều đó.
“Anh đang ở khách sạn Regent,” anh nói. “Hãy gọi cho anh vào
ngày mai.”
Anh thọc tay vào túi áo, và viết nguệch ngoạc lên tấm danh
thiếp của anh.
Cô cầm và đọc chăm chú, như thể cố khắc sâu vào trí nhớ từng
chi tiết trên đó.
“Đây rồi.” Douglas xuất hiện giữa họ với một li nước trên
tay. “Chồng bà đang nói chuyện ngay bên trong, tôi có thể nhắn với ông ấy nếu
bà muốn.”
“Ồ không - không, tôi ổn rồi.” Cô uống một ngụm nước. “Cảm ơn
anh nhiều. Tôi phải đi đây, anh Anthony.”
Cái cách cô gọi tên anh. Anthony. Anh thấy mình đang
mỉm cười. Cô đã ở đây, chỉ cách anh vài bước. Cô thực sự đã yêu anh, đã đau khổ
vì anh. Cô đã tìm cách để tới gặp anh vào buổi tối định mệnh đó. Những khổ sở
trong suốt bốn năm vừa qua dường như đã được giải tỏa.
“Hai người biết nhau ư?”
Anthony nghe những lời Douglas nói như thể từ xa vọng lại.
Jennifer uống thêm ngụm nước nữa, mắt cô vẫn không rời anh. Anh biết rồi chỉ
chút nữa đây thôi anh có thể sẽ nguyền rủa Chúa trời đã khiến họ phải xa cách
nhau và phải đau khổ trong từng ấy năm trời. Nhưng giờ anh chỉ có duy nhất cảm
giác vui tột cùng khi tìm lại được vật sở hữu thiêng liêng mà anh tưởng mình đã
vĩnh viễn mất.
Đã đến giờ cô phải đi. Cô đứng dậy, vuốt gọn mái tóc.
“Tôi trông... có ổn không?”
“Cô trông -”
“Bà trông rất tuyệt vời, bà Stirling.” Douglas mở cửa dẫn vào
sảnh chính.
Gương mặt cô thoáng cuời, một nụ cười nhỏ đủ làm tan nát trái
tim Anthony.
Cô đi ngang qua anh, đặt bàn tay nhỏ bé chạm khẽ trên khuỷu
tay anh. Và rồi cô bước vào khu sảnh chính ồn ào.
Douglas nhướn mày khi chiếc cửa đóng lại sau lưng cô.
“Đừng nói với tôi đây là một cuộc chinh phạt nữa của cậu đấy
nhé? Anh ta nói. “Cậu thật ghê gớm. Cậu luôn đạt được điều cậu muốn.”
Mắt Anthony vẫn không rời cánh cửa. “Không,” anh nói khẽ.
“Không như cậu nghĩ.”
Jennifer im lặng trên suốt hành trình về nhà. Laurence cho
một người quen trong giới kinh doanh đi nhờ xe, vì thế cô có thể ngồi yên đằng
sau để hai người đàn ông nói chuyện.
“Tất nhiên, Pip Marchant bị sập bẫy bởi chính mấy cái mánh
lới của anh ta, toàn bộ vốn của anh ta đổ vào một dự án.”
“Anh ta là người chuyên đem lại rắc rối. Bố anh ta cũng vậy.”
“Tôi nghĩ nếu anh tìm hiểu ngọn ngành
gia phả nhà anh ta, biết đâu anh có thể thấy anh ta liên quan tới vụ bong bóng
Biển Nam.”
“Tôi nghĩ tôi sẽ còn tìm được nhiều hơn
thế nữa.”
Bên trong chiếc ô tô màu đen ngập mùi
khói thuốc. Laurence thường nói nhiều và ngoan cố thể hiện chính kiến khi ông
được vây quanh bởi những doanh nhân khác hay khi bị wisky kích thích. Cô hầu
như không nghe ông nói gì. Cô nhìn qua cửa kính xe như bị thôi miên, nhưng cô
không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không thấy mọi người đang trên đường về
nhà, cô chỉ thấy duy nhất khuôn mặt của Anthony. Đôi mắt màu nâu của anh, khi
anh nhìn cô, mặt anh có thêm một vài nếp nhăn, nhưng có khi thế lại đẹp trai
hơn và từng trải hơn. Cô vẫn còn cảm thấy hơi ấm bàn tay của anh trên lưng cô.
Làm thế nào để liên lạc với em?
Anh vẫn sống, bốn năm vừa qua. Sống,
thở, uống cà phê và đánh máy. Anh còn sống. Cô đã có thể viết thư cho anh, nói
chuyện với anh. Đến gặp anh.
Cô nuốt khan, cố gắng kiềm chế cái cảm
xúc dữ dội đang dâng trào trong cô. Cần phải có lúc nào đó để cô thật bình tâm
nghĩ về tất cả những việc đã dẫn đến kết cục như thế này, không phải ở đây,
trong chiếc ô tô với một người đàn ông thậm chí không hề quan tâm đến sự hiện
diện của cô trên xe. Không phải là lúc này. Những mạch máu chảy dữ dội trong
người cô. Vẫn còn sống, điệp khúc tiếp tục vang lên.
Chiếc xe dừng lại trên phố Upper
Wimpole. Martin bước ra khỏi xe và mở cửa cho khách. Vị khách vẫn tiếp tục điếu
xì gà trên tay. “Cảm ơn anh, Larry. Tuần này anh có tới câu lạc bộ không? Tôi
mời anh ăn tối.”
“Tôi mong chờ đến ngày đó.” Người đàn ông
lê thân hình nặng nề về phía cửa nhà, lúc này đã mở sẵn như thể ai đó đang đợi
anh ta ở nhà. Laurence nhìn theo cho tới khi người đồng nghiệp đi khuất hẳn, và
nói với lên hàng ghế trước. “Eric, về nhà.” Ông cựa quậy trên hàng ghế.
Cô thấy ông quay lại nhìn mình. “Cô đã
rất im lặng.” Ông luôn thể hiện sự không đồng tình với cô.
“Em ư? Em nghĩ em không biết gì để có
thể tham gia vào cuộc hội thoại của hai người.”
“Thôi được. Suy cho cùng, một buổi tối
không đến nỗi tệ.” Ông gật đầu với chính mình.
“Đúng vậy,” cô khẽ nói. “Một buổi tối
không hề tệ chút nào.”
Xin lỗi nhưng anh buộc phải chia tay em. Đừng buồn vì đó
không phải lỗi của em. Dave nói nó muốn chúng ta chia tay nếu có thể. Anh sẽ
còn gặp lại em.
Tin nhắn của
một người đàn ông gửi một người đàn bà.