Bức thư tình cuối - Phần I - Chương 04 - Phần 1
Chương 4
“Thưa bà, tôi chuẩn bị hút bụi, nếu việc ấy không làm phiền
bà.”
Cô nghe tiếng bước chân phía đầu cầu thang và cô ngồi quỳ tựa
trên gót.
Bà Cordoza, tay cầm máy hút bụi, đang đứng ngay ngoài cửa.
“Ồ! Đồ đạc của bà... Tôi không biết bà đang sắp xếp đồ trong
phòng. Bà có muốn tôi giúp một tay không?”
Jenny lau trán, nhìn kĩ lại những thứ trong tủ quần áo vừa bị
vứt vung vãi xuống dưới sàn quanh chỗ cô ngồi. “Không, cám ơn bà Cordoza. Bà cứ
làm việc của bà đi. Tôi chỉ sắp xếp lại cho dễ tìm hơn thôi.”
Người giúp việc có vẻ vẫn hơi do dự. “Nếu bà không cần, tôi
sẽ đi ra cửa hàng sau khi xong việc. Tôi đã để vào tủ lạnh một vài miếng thịt
cắt lát nhỏ. Bà nói là bà không muốn ăn nhiều vào bữa trưa.”
“Thế là đủ cho tôi rồi. Cám ơn bà.”
Còn lại một mình cô, tiếng rè rè của máy hút bụi nhỏ dần theo
hành lang. Jennifer đứng thẳng người, mở một hộp đựng giấy khác.
Cô đã làm việc này trong mấy ngày vừa qua. Cùng với bà
Cordoza, khi mùa đông qua đi, cô dọn dẹp và sắp xếp lại các phòng để đón mùa
xuân tới. Cô lôi tất cả các thứ từ trên giá xuống và trong tủ ra, sắp xếp, gói
ghém lại với một chút rụt rè, cô khắc dấu một cách vô thức vào những vật dụng
thuộc về cô, vào những việc cô làm ở trong cái nhà mà cô vẫn chưa tìm được cảm
giác chúng thực sự là của cô trước đây.
Đó cũng là một cách để cô quên đi, để cô không nghĩ quá nhiều
về những cảm xúc gần đây của cô: cô đang thực hiện một vai trò mà mọi người
mong chờ cô phải làm. Đó cũng là cách giúp cô gắn bó với cái nhà này và khám
phá xem trước đây cô là ai, cô đã từng là người như thế nào. Cô có những bức
thư, những bức hình và sách ảnh từ thời thơ ấu với hình ảnh một cô bé thắt bím
cau có trên lưng một con ngựa trắng mập mạp. Cô cố gắng giải mã những dòng chữ
viết vội nhưng cẩn thận từ thời đi học, những câu nói đùa suồng sã trong những
bức thư gửi cho cô và nhẹ nhõm nhận ra cô đã có thể nhớ lại toàn bộ quãng thời
gian này. Cô bắt đầu chú ý tới sự cách biệt giữa con người thực của cô trước
đây, một cô gái vui vẻ được mọi người yêu quý và nuông chiều và người đàn bà
hiện tại trong cô.
Cô hầu như đã nắm trong tay tất cả những điều có thể giúp cô
tìm hiểu về bản thân, nhưng lại không đủ để giúp cô vượt qua cái cảm giác luôn
thường trực trong đầu cô, đó là cô không thuộc về nơi này, rằng cô bị bỏ nhầm
vào một cuộc đời khác không phải của cô.
“Ôi, bà bạn yêu quý, ai cũng có cảm giác đó hết.” Yvonne vỗ
nhẹ vào vai cô đầy thông cảm khi Jennifer đề cập tới vấn đề này vào buổi chiều
hôm trước, sau khi đã uống cạn hai li martini. “Đã không biết bao nhiêu lần tớ
tỉnh dậy, nhìn sang vẻ đẹp không tì vết đang nằm bên cạnh là ông chồng say
khướt, nồng nặc mùi rượu và ngáy như sấm và tự hỏi, làm thế quái quỷ nào
mà cuộc đời tớ lại kết thúc thế này?”
Jennifer cố cười phụ họa. Không ai muốn nghe những câu chuyện
tầm phào của cô. Cô không có lựa chọn nào hơn là chung sống hòa bình với điều
đó. Một hôm sau bữa ăn tối, lo lắng và buồn bã, cô một mình tới bệnh viện và
yêu cầu được nói chuyện với ông Hargreaves. Ông vội vàng đẩy cô vào văn phòng -
ở ông dường như thiếu cái tận tâm và phép lịch sự tối thiểu cần có với phu nhân
của một khách hàng đặc biệt giàu có. Câu trả lời của ông, dù có bớt suồng sã
hơn Yvonne, cũng không khác. “Một cú va chạm mạnh vào đầu có thể ảnh hưởng tới
cô theo nhiều cách,” ông nói, dụi điếu thuốc lá. “Một vài người sau đó thấy rất
khó khi tập trung làm gì đó, một vài người khác tự dưng khóc vào những thời
điểm lạ lùng không vì lí do gì cả, hay tự dưng bực tức trong một thời gian dài.
Tôi còn có những bệnh nhân nam bỗng trở nên rất bạo lực. Suy nhược thần kinh
cũng không phải là biểu hiện gì bất thường sau những gì cô đã trải qua.”
“Còn hơn là cả suy nhược, ông Hargreaves. Tôi thực sự nghĩ
tôi đã từng... là chính tôi hơn bây giờ.”
“Vậy cô không cảm thấy là chính mình à?”
“Mọi thứ dường như đều đi chệch hướng. Đặt sai vị trí.” Cô
cười một cách rụt rè. “Đôi khi tôi nghĩ tôi sắp phát điên tới nơi.”
Ông gật đầu, như thể ông đã nghe về hiện tượng này nhiều lần
rồi. “Thời gian thực sự là phương thuốc hiệu quả, cô Jennifer ạ. Tôi biết đó là
một câu nói sáo rỗng, nhưng nó rất đúng. Đừng khó chịu khi cố phải tuân theo
một vài cách suy nghĩ đúng đắn. Với những chấn thương ở đầu, hầu như không có
tiền lệ nào. Có thể một lúc nào đó cô cảm thấy lạ lùng - ở sai vị trí, như cô
nói. Tôi sẽ cho cô đơn thuốc giúp cô hồi phục. Cố gắng đừng để những vấn đề này
choán hết tâm trí cô.”
Ông viết nguệch ngoạc gì đó lên giấy. Cô đợi một lúc, lấy đơn
thuốc và đứng dậy ra về. Cố gắng đừng để những vấn đề này choán hết tâm trí
cô.
Một giờ sau khi trở về nhà, cô bắt tay dọn dẹp nhà cửa. Cô có
một căn phòng chứa đầy quần áo. Cô có một hộp đồ trang sức làm từ gỗ óc chó
trong đó có bốn chiếc nhẫn với mặt đá quý và một chiếc hộp khác đựng đủ các
loại trang sức trang phục. Bộ sưu tập của cô còn có thêm mười hai cái mũ, chín
đôi găng tay và mười tám đôi giày khi cô lục tung chiếc hộp cuối cùng. Cô viết
lên mỗi hộp giày một vài miêu tả ngắn gọn - bệt để đi chơi, màu rượu chát
và dạ hội buổi tối, lụa xanh. Cô cầm từng chiếc giày lên, cố nhớ xem có
kỉ niệm nào gắn bó với chúng hay không. Một vài lần hiếm hoi một hình ảnh vụt
qua trong trí nhớ cô: bàn chân cô, trong đôi hài bằng lụa xanh, bước xuống taxi
- tới nhà hát? - nhưng rồi hình ảnh ấy nhanh chóng biến mất trước khi cô kịp
giữ chúng lại.
Cố gắng đừng để những vấn đề này choán hết tâm trí cô.
Cô xếp đôi giày cuối cùng vào hộp và chú ý tới một cuốn sách
bìa mềm. Đó là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn thời xưa, bị kẹp giữa những tờ
giấy lụa và cạnh của hộp giày. Cô liếc nhìn trang bìa, tự hỏi vì sao cô không
thể nhớ cuốn sách này viết về cái gì trong khi cô đã nhớ ra nội dung của hầu
hết các cuốn sách khác để trên giá.
Có thể mình đã mua nó và quyết định bỏ nó đi, cô nghĩ khi lật
qua những trang sách đầu tiên. Có vẻ là một câu chuyện buồn. Cô sẽ để dành tới
tối nay đọc và có lẽ sẽ đưa cho bà Cordoza. Cô đặt cuốn sách lên tủ đầu giường
và phủi bụi bám vào váy. Giờ cô có nhiều việc quan trọng hơn phải làm, như dọn
dẹp đống lộn xộn này và nghĩ xem nên mặc gì cho buổi tiệc tối nay.
Có hai lá thư được gửi tới. Chúng giống hệt nhau. Moira nghĩ
khi đọc lướt qua bức thư, cùng một triệu chứng, cùng một lời phàn nàn. Chúng
được gửi tới từ cùng một nhà máy, cả hai người viết lá thư này đều làm ở nhà
máy đó gần hai chục năm trước đây. Có lẽ đây là việc của các công đoàn, sếp của
bà đã từng nói thế, nhưng cũng thật bực mình khi những bức thư tố cáo từ vài
năm trước đây lại cứ nhỏ giọt dội về.
Ngẩng đầu lên, bà nhìn thấy ông đã đi ăn trưa về và tự hỏi có
nên cho ông biết về hai bức thư. Ông bắt tay ông Welford, cả hai nở nụ cười mãn
nguyện chứng tỏ họ vừa có cuộc gặp mặt thành công. Sau một hồi do dự, bà nhét
cả hai bức thư vào ngăn bàn. Bà sẽ xếp chúng vào cùng những bức thư tương tự
khác. Không nên làm ông lo lắng. Bà biết trước sau ông sẽ nói gì.
Bà nhìn theo ông một lúc khi ông tiễn ông Welford ra khỏi
phòng họp về phía cửa thang máy và bà nhớ lại cuộc nói chuyện giữa họ sáng nay.
Chỉ có duy nhất ông và bà ở trong văn phòng lúc đó. Những thư kí khác hiếm khi
có mặt ở văn phòng lúc trước chín giờ, nhưng bà vẫn có thói quen tới sớm hơn
một tiếng để khởi động máy pha cà phê, sắp xếp tài liệu cho ông, kiểm tra các
bức thư tín nhận được vào buổi đêm hôm trước và đảm bảo văn phòng hoạt động
trơn tru khi ông tới. Đó là công việc của bà. Ngoài ra, bà cũng thích ăn sáng
tại công ty hơn: làm thế có vẻ bớt cô đơn hơn ở nhà, khi mà giờ đây Mẹ bà đã
mất.
Ông ra hiệu cho bà vào phòng ông, ông đứng và đưa một tay
lên. Ông biết bà sẽ nhận ra tín hiệu của ông: bà luôn để một mắt chú ý tới ông
phòng khi ông cần gì ngay. Bà vuốt phẳng váy và nhanh nhẹn bước về phía ông,
chờ đợi ông ra lệnh hay yêu cầu bà đưa một số liệu nào đó, nhưng không, ông chỉ
bước vào phòng và đóng ngay cửa lại khi bà bước vào theo. Bà cố kìm nén sự
thích thú. Ông chưa từng đóng cửa phòng làm việc của ông khi có bà ở trong,
chưa bao giờ trong năm năm qua. Bà bất giác đưa tay sửa lại tóc.
Ông hạ giọng khi tiến một bước về phía bà. “Moira, cái chuyện
chúng ta trao đổi vài tuần trước đây.”
Bà chăm chú nhìn ông, gần như tê liệt bởi sự hiện diện quá
gần của ông ở bên cạnh, điều bà không ngờ tới. Bà lắc đầu - một cách hơi ngốc
nghếch, đấy là sau này khi nghĩ lại bà thấy thế.
“Vấn đề chúng ta trao đổi” - giọng ông không giấu nổi sự sốt
ruột - “sau tai nạn của vợ tôi. Tôi nghĩ tôi cần kiểm tra. Đã không có gì...”
Bà hồi tỉnh, tay run rẩy để lên cổ áo. “Ồ, ồ, không thưa ông.
Tôi đã tới đó hai lần, như ông yêu cầu. Nhưng không. Không có gì.” Bà ngừng một
lúc rồi nói thêm: “Không có gì cả. Tôi chắc chắn thế.”
Ông gật đầu, khi được khẳng định chắc chắn. Rồi ông mỉm cười
với bà, một trong những nụ cười hiếm hoi dịu dàng của ông. “Cám ơn Moira. Bà
biết tôi trân trọng những gì bà đã làm chứ.”
Bà thấy toàn cơ thể run lên vì hãnh diện.
Ông bước ra mở cửa. “Sự kín đáo và thận trọng là một trong
những phẩm chất đáng quý nhất của bà.”
Bà nuốt khan trước khi có thể trả lời. “Tôi... Ông có thể tin
tưởng tôi mãi mãi. Ông biết điều đó mà.”
“Có chuyện gì vậy Moira?” Một cô nàng đánh máy hỏi, khi gặp
bà vào cuối ngày ở phòng vệ sinh nữ. Cô ta nhận ra bà rất lạ. Bà tô son đậm
hơn, thậm chí còn xức một ít nước hoa. “Trông chị giống như sắp biểu diễn kịch
vậy.”
“Có lẽ anh chàng Mario ở phòng bên cạnh cuối cùng cũng chú ý
tới đôi tất chân của chị ấy.” Có tiếng cười khúc khích ở phòng nghỉ cạnh đó.
“Chỉ cần cô để ý tới công việc của cô bằng một nửa so với
những mối quan tâm nhảm nhí này, Phillis, thì cô chắc chắn sẽ tiến bộ rất nhanh
chứ không mãi làm một nhân viên đánh máy cấp thấp như thế này,” bà nói rồi bỏ
đi. Ngay cả tiếng huýt sáo rúc rích vọng theo khi bà bước chân ra khỏi văn phòng
cũng không thể làm giảm niềm vui trong bà.
Rất nhiều đèn nhấp nháy Giáng sinh được trang trí quanh quảng
trường, loại đèn hình hoa tulip màu trắng. Chúng được quấn quanh cột đèn và
treo theo hình xoắn ốc dọc những thân cây làm hàng rào cho các khu vườn của khu
dân cư.
“Năm nào cũng làm rõ sớm,” bà Cordoza chép miệng khi nhìn qua
chiếc cửa sổ rộng và nhô ra ngoài từ phòng đọc sách khi thấy Jennifer bước vào.
Bà chuẩn bị kéo rèm lại. “Vẫn chưa tới tháng Mười Hai mà.”
“Nhưng rất đẹp.” Jennifer tìm cách đeo đôi khuyên tai. “Bà
Cordoza, làm ơn cài hộ tôi chiếc nút ở cổ này. Tôi không thể với tới.” Tay cô
đã đỡ hơn nhiều, nhưng vẫn thiếu độ linh hoạt cần thiết để có thể tự mặc váy mà
không cần sự trợ giúp.
Người phụ nữ già kéo hai phía cổ lại, cài chiếc khuy bọc lụa
màu xanh thẫm và lùi lại một bước, đợi Jennifer quay lại. “Bà mặc chiếc váy này
lúc nào cũng thật đẹp,” bà nói.
Jennifer đã dần quen với những thời điểm như thế, khi cô phải
cố kiềm chế để không hỏi lại: “Thật vậy ư? Khi nào?” Cô dần biết cách giấu cảm
xúc, để thuyết phục những người sống xung quanh cô rằng cô đã biết chắc chắn
mình là ai.
“Tôi không thể nhớ tôi đã mặc nó lần cuối cùng là khi nào,”
cô dè dặt nói.
“Đó là bữa tiệc sinh nhật bà. Tổ chức trong một nhà hàng ở
Chelsea.”
Jennifer hi vọng điều này có thể thức tỉnh trí nhớ của cô.
Nhưng chẳng có gì. “Vậy là lúc đó,” cô nói, thoáng mỉm cười, “bữa tiệc hôm đó
thật tuyệt vời.”
“Thế bữa tiệc tối nay có nhân sự kiện đặc biệt nào không,
thưa bà?”
Cô nhìn hình cô phản chiếu qua chiếc gương để trên bệ lò
sưởi. Mái tóc vàng của cô lượn sóng thả nhẹ trên vai, mắt cô kẻ một đường phấn
mờ rất nghệ thuật. “Ồ không, tôi không nghĩ thế. Gia đình Moncrieff mời chúng
tôi tới ăn tối. Ăn uống và nhảy nhót. Mấy hoạt động tiêu khiển thường ngày ý
mà.”
“Tôi sẽ làm thêm một tiếng nữa nếu bà cần. Vẫn còn một vài bộ
đồ bằng lụa cần là.”
“Chúng tôi có trả tiền làm ngoài giờ cho bà không?” Cô hỏi
không kịp suy nghĩ.
“Ồ, có ạ.” Bà Cordoza trả lời. “Bà và chồng bà rất hào
phóng.”
Laurence - cô vẫn chưa quen gọi ông là Larry, mặc cho tất cả
mọi người đều gọi ông như thế - đã nói trước là ông sẽ không thể về nhà sớm,
nên cô bảo ông cô sẽ đi taxi tới văn phòng và đón ông ở đó. Ông có vẻ hơi do dự
nhưng cô cả quyết đó là điều nên làm. Trong những tuần vừa rồi cô luôn cố gắng
tìm cơ hội để ra khỏi nhà như một cách để khẳng định sự tự do của mình. Cô đã
ra ngoài mua sắm, một lần với bà Cordoza và một lần một mình. Cô bước chậm rãi
dọc theo phố mua sắm cao cấp Kensington, cố không để cảm xúc cuốn theo dòng
người tấp nập ngược xuôi mua sắm. Cô mua cho mình một cái áo choàng tại cửa
hàng hai ngày trước, không phải vì cô đặc biệt thích nó hay cần có nó mà chỉ để
không ai nghi ngờ khi cô về nhà.
“Tôi có thể giúp bà không ạ?”
Người giúp việc giơ chiếc áo khoác thêu kim tuyến và đính
ngọc lên. Bà đưa lên gần với vai cô, để Jennifer chỉ việc thò tay vào. Lớp vải
lót bên trong bằng lụa, lớp kim tuyến trĩu nặng một cách dễ chịu trên người cô.
Cô chỉnh lại cổ áo cho ngay ngắn. “Bà làm gì? Khi bà rời khỏi đây?”
Người giúp việc chớp mắt, hơi sững người trước câu hỏi. “Tôi
làm gì ư?”
“Ý tôi là bà về đâu.”
“Tôi về nhà,” bà trả lời.
“Về... với gia đình bà?” Người phụ nữ này đã ở bên cạnh mình
rất lâu rồi, cô nghĩ. Vậy mà mình không biết gì về bà.
“Gia đình tôi ở Nam Phi. Các con gái tôi lớn lên ở đó. Tôi có
hai cháu ngoại.”
“Tất nhiên rồi. Xin lỗi bà, tôi vẫn chưa thể nhớ ra hết mọi
chuyện. Tôi không nhớ là bà có nhắc tới chồng hay không.”
Người giúp việc nhìn xuống chân. “Ông ấy đã mất cách đây tám
năm, thưa bà.” Rồi bà nói tiếp khi thấy Jennifer im lặng. “Ông ấy là quản lí
cho một khu mỏ ở Transvaal. Chồng bà đã giúp tôi có công việc này để tôi có thể
tiếp tục nuôi gia đình.”
Jennifer có cảm giác như cô có vẻ đi quá sâu vào đời tư người
khác. “Thành thật chia buồn. Như tôi nói, thực sự trí nhớ tôi vẫn chưa đủ độ
tin cậy trong thời gian này. Làm ơn đừng nghĩ tôi...”
Bà Cordoza lắc đầu.
Mặt Jennifer ửng đỏ. “Tôi chắc chắn bình thường tôi đã -”
“Bà đừng nói thế. Tôi có thể thấy...” bà giúp việc dừng lại
để lựa lời “... rằng bà vẫn chưa trở về là chính bà như trước đây.”
Họ đứng đó, nhìn thẳng vào nhau, người phụ nữ lớn tuổi hơn rõ
ràng đang khá bối rối bởi hình như bà đã tỏ ra quá suồng sã.
Nhưng Jennifer không bận tâm về điều đó. “Bà Cordoza,” cô
hỏi, “bà có thấy tôi thay đổi nhiều kể từ sau tai nạn không?” Cô thấy người
giúp việc nhìn cô chăm chú trước khi trả lời. “Bà Cordoza?”
“Hơi một chút.”
“Bà có thể cho tôi biết là khác theo cách nào không?”
Vẻ mặt bà giúp việc rất khó hiểu, Jennifer có cảm giác như bà
sợ phải đưa ra một câu trả lời trung thực. Nhưng cô không thể dừng lại được.
“Xin làm ơn. Không có câu trả lời đúng hay sai ở đây cả, tôi chắc chắn với bà
thế. Tôi chỉ... Mọi thứ với tôi khá lạ lùng kể từ khi... Tôi muốn biết chuyện
gì đã xảy ra.”
Bà siết chặt tay trước ngực. “Có lẽ cô ít nói hơn. Ít... ra
ngoài giao du kết bạn hơn.”
“Ý bà là trước đây tôi sống hạnh phúc hơn?”
“Thưa bà, xin bà...” Người giúp việc bối rối đưa tay lần vòng
đeo cổ. “Tôi không - tôi phải đi đây. Tôi sẽ để mấy bộ đồ lanh tới ngày mai ủi
nếu bà đồng ý.”
Trước khi Jennifer kịp nói thêm, bà đã biến mất sau cánh cửa.
Nhà hàng Beachcomber ở khách sạn Mayfair là một trong những
nhà hàng đông khách nhất. Khi Jennifer tới, có chồng hộ tống đằng sau, cô hiểu
lí do vì sao: chỉ cách đường phố Luân Đôn lạnh lẽo vài mét là bạn đã bước chân
vào thiên đường của biển. Quầy bar hình tròn được lát bằng tre, cả trần cũng
vậy. Nền nhà là những thảm cỏ biển, lưới và phao đánh cá được treo trên xà gồ
của nhà. Giai điệu sôi động của thổ dân Hawaii vọng ra từ vô số loa để xung
quanh đập vào các bức vách bằng đá nhân tạo, vừa đủ để át đi tiếng nói chuyện
ồn ào của đám đông vào tối thứ Sáu. Một bức bích họa với trời xanh và bờ cát
trắng trải dài vô tận choáng hết một bức tường, bộ ngực quá khổ của một người
phụ nữ chụp trên boong tàu như đâm thẳng vào khu vực quầy bar. Chính ở đó họ
nhìn thấy Bill, đang cố treo chiếc mũ của anh ta lên một trong hai bầu vú được
đẽo gọt khéo léo.
“A, Jennifer... Yvonne... em có thấy Ethel Merman tới chưa?”
Anh cầm mũ và vẫy họ lại.
“Cẩn thận đấy,” Yvonne thì thào và đứng dậy chào đón họ.
“Violet bận việc nên phải ở nhà, trong khi Bill thì say bí tỉ rồi.”
Laurence buông tay Jennifer ra khi họ được đưa tới chỗ ngồi.
Yvonne ngồi đối diện với cô, cô duyên dáng vẫy tay chào hai người vừa tới là
Anne và Dominie. Bill ngồi ở đầu kia của bàn, đã kịp nắm lấy bàn tay của
Jennifer và đặt lên đó những nụ hôn đắm đuối khi cô đi lướt qua anh.