Điệu vũ bên lề - Chương kết phần 1

Phần kết

mẹ. Tôi nghĩ chuyện đó thành nếp mới phải. Người con được nhận quà của mọi
người trong dịp sinh nhật, và người con mua một món quà tặng mẹ bởi vì mẹ có
mặt lúc ta chào đời. Tôi nghĩ như vậy sẽ thật hay.

Khi chị tôi đọc xong bài phát biểu, nhà tôi vỗ tay và gào thét, nhưng không
có ai vỗ tay hoặc gào thét to hơn ông ngoại. Không một ai.

Tôi không nhớ đại diện học sinh đã nói gì, trừ chuyện chị ấy trích lời của
Henry David Thoreau chứ không phải một bài nhạc pop.

Rồi thầy Small lên sân khấu và yêu cầu mọi người đợi đến lúc xướng tên và
trao bằng xong hết rồi hãy vỗ tay. Phải nói rằng hồi năm ngoái, lời yêu cầu này
cũng không ăn thua gì.

Thế rồi tôi nhìn thấy chị nhận bằng, và mẹ tôi lại khóc nữa. Và rồi tôi thấy Mary Elizabeth. Rồi tôi thấy Alice.
Rồi tôi thấy Patrick. Rồi tôi thấy Sam. Một ngày thật là vui. Kể cả khi tôi
thấy Brad. Mọi thứ có vẻ ổn cả.

Cả nhà tôi gặp chị trong bãi
đậu xe, người đầu tiên tới ôm chị là ông ngoại tôi. Ông là một người thực sự
kiêu hãnh theo cách của ông. Mọi người khen bài phát biểu của chị ngay cả khi
họ không thích. Rồi mọi người nhìn thấy ba tôi bước lại từ bên kia bãi, tay giơ
máy quay video quá đầu, vẻ mặt đắc thắng. Tôi nghĩ ba là người ôm chị lâu nhất.
Tôi nhìn quanh tìm Sam và Patrick, nhưng chẳng thấy hai người đâu.

Trên đường về nhà mở tiệc
mừng, bọn anh em họ Ohio của tôi lại châm một điếu hút chuyền. Lần này, tôi làm
một hơi, nhưng bọn chúng vẫn gọi tôi là “con cáy”. Tôi chẳng hiểu tại sao. Có
lẽ cái loại anh em họ ở Ohio là vậy. Cộng với thói ưa kể chuyện tếu.

“Thứ gì có ba mươi hai cái
chân và một cái răng?”

“Là thứ gì?” Bọn tôi nhao
nhao.

“Hàng người thất nghiệp trước
sở việc làm Tây Virginia.”

Những chuyện đại loại thế.

Khi mọi người về nhà, bọn anh
em họ Ohio đi thẳng ra quán rượu bởi vì tốt nghiệp có vẻ là một dịp chính đáng
để người ta nhậu. Ít nhất thì năm ngoái và năm nay là như vậy. Tôi tự hỏi ngày
tốt nghiệp của tôi sẽ thế nào. Nghe sao mà xa xôi quá.

Vậy là chị tôi mất cả tiếng
đầu bữa tiệc để mở cho hết quà tặng, và chị mỉm cười mỗi lần thấy tờ séc, áo
khoác len, hay tờ năm mươi đô-la. Bà con của nhà tôi không có ai giàu, nhưng
hình như mọi người để dành vừa đủ cho những dịp thế này, và trong hôm nay tất
cả đều giả vờ rằng mọi người đều giàu có.

Những người duy nhất không
tặng tiền hay áo khoác len là anh tôi và tôi. Anh tôi có hứa đưa chị đi mua nhu
yếu phẩm để dùng khi chị lên đại học, anh trả tiền, còn tôi mua tặng chị một
cái nhà nhỏ bằng đá khắc thủ công và sơn ở Anh. Tôi bảo chị rằng tôi muốn tặng
chị thứ gì đó khiến chị cảm thấy như đang ở nhà ngay cả khi chị ở xa. Chị tôi
đã hôn má tôi vì xúc động.

Nhưng chuyện hay nhất trong
bữa tiệc là khi mẹ tôi đến bảo tôi có điện thoại. Tôi lại nghe.

“A-lô?”

“Charlie phải không?”

“Sam!”

“Chừng nào cậu qua đây được?”

“Qua liền!”

Rồi ba tôi gầm gừ khi đang
uống dở li whisky chanh,

“Con không được đi đâu cho
tới khi bà con về hết. Rõ chưa?”

“À Sam này... Tôi phải chờ họ hàng của tôi về đã.”

“Thôi được, bọn tôi sẽ ở đây tới bảy giờ. Sau đó thì đi tới đâu bọn tôi sẽ
gọi cậu.” Giọng Sam nghe rất vui.

“Được rồi, Sam. Chúc mừng nhé!”

“Cảm ơn Charlie. Tạm biệt.”

“Tạm biệt.”

Tôi gác máy.

Tôi thề với bạn, lúc đó tôi nghĩ là mấy người bà con sẽ ở lại mãi. Họ kể
hết chuyện này tới chuyện khác. Họ ăn hết khúc xúc xích này tới khúc xúc xích
khác. Họ ngắm hết bức ảnh này tới bức ảnh khác. Và họ nói “hồi con mới cao
chừng này,” tay thì diễn tả hết lần này tới lần khác. Cứ như đồng hồ ngừng chạy
vậy. Không phải là tôi bực khi nghe chuyện. Và món xúc xích đắp bột khá là
ngon. Nhưng tôi muốn đi gặp Sam.

Tới chừng 9:30, mọi người đều đã no và tỉnh rượu. Lúc 9:45, màn ôm chào kết
thúc. 9:50, lối vào nhà không còn xe nữa. Ba tôi đưa cho tôi tờ hai mươi đô-la
cùng chìa khóa xe của ông và nói, “Cảm ơn con đã ở nhà. Điều đó rất quan trọng
với ba và bà con họ hàng.” Ông ngà ngà, nhưng lời ấy là thật. Sam bảo tôi bọn
họ đang đi tới một sàn nhảy khu trung tâm. Thế là tôi trút hết quà của mọi
người vào cốp sau, leo lên xe và lái đi.

Con đường hầm dẫn tới khu trung tâm có một điều đáng chú ý. Ban đêm, nó
thật huy hoàng. Ta bắt đầu chui vào ở một bên sườn núi, trời thì tối, và tiếng
đài phát thanh thì to. Lúc ta vào đường hầm, gió bị hút đi hết, và ta nhìn he
hé để khỏi bị ánh đèn phía trên làm lóa mắt. Khi ta nhìn quen ánh đèn rồi, ta
thấy được lối ra xa xa ở bên kia ngay lúc âm thanh của đài phát ra loãng thành
hư không do mất sóng. Rồi ta đến giữa đường hầm, và mọi thứ trở nên một giấc mơ
êm đềm. Lối ra gần lại, ta không tài nào đến đó đủ nhanh. Và cuối cùng, ngay
khi ta tưởng ta sẽ không bao giờ tới được, ta lại thấy lối ra ngay trước mặt
mình. Và sóng radio có trở lại, tiếng nghe còn lớn hơn bình thường. Và gió đang
chờ đợi. Ta bay ra khỏi đường hầm, đi lên cầu. Và nó kia rồi. Thành phố. Hàng
triệu bóng đèn, tòa nhà và mọi thứ trông náo nhiệt y như ta mới được trông thấy
lần đầu tiên trong đời. Đúng là một lối vào choáng ngợp.

Sau khoảng nửa tiếng tìm loanh quanh trong sàn nhảy, rốt cuộc tôi thấy Mary
Elizabeth cùng Peter. Cả hai người đang uống rượu whisky Scotland pha sô-đa,
món này do Peter mua bởi cậu ta đã đủ tuổi. Tôi chúc mừng Mary Elizabeth rồi
hỏi những người khác đâu. Cô ấy bảo tôi Alice đang phê thuốc trong phòng vệ
sinh nữ, còn Sam và Patrick đang nhảy ở sàn. Cô ấy bảo cứ ngồi đợi tới khi họ
trở lại bởi vì cô ấy không biết cụ thể họ ở đâu. Thế là tôi ngồi xuống, nghe
Peter tranh luận với Mary Elizabeth về các ứng viên đảng Dân chủ. Một lần nữa,
đồng hồ như ngừng chạy. Tôi nóng lòng gặp Sam quá đỗi.

Sau chừng ba bản nhạc, Sam và Patrick trở lại, người ướt đẫm mồ hôi.

“Charlie!”

Tôi đứng dậy, và cả ba ôm nhau như chưa gặp mấy tháng trời rồi. Nếu xét
những chuyện đã xảy ra, tôi đoán cái ôm ấy hợp lí. Sau khi bọn tôi rời nhau,
Patrick nằm lên trên Peter và Mary Elizabeth cứ như hai người là một cái ghế
dài vậy. Rồi cậu ấy tước li của Mary Elizabeth mà uống. Cô ấy kêu lên: “Ê này,
đồ xấu xa.” Tôi nghĩ cậu ấy say rồi, mặc dù gần đây cậu ấy không nhậu nữa,
nhưng Patrick làm việc ấy tỉnh queo, chẳng làm sao biết được.

Sam chụp lấy tay tôi. “Tôi
thích bài này!”

Cô ấy dẫn tôi ra sàn nhảy.
Rồi cô ấy bắt đầu nhảy. Và tôi bắt đầu nhảy. Đó là một bài tiết tấu nhanh, nên
tôi xoay xở không tốt mấy, nhưng hình như cô ấy không bận tâm. Đơn giản là bọn
tôi nhảy, và thế là đủ. Bài hát kết thúc, rồi một bài chầm chậm nối tiếp. Cô ấy
nhìn tôi. Tôi nhìn cô ấy. Rồi cô ấy nắm tay tôi và kéo tôi vào điệu slow. Tôi
không rành nhảy điệu slow lắm, nhưng ít ra cũng biết đong đưa người.

Lời thì thầm của cô ấy thoảng
hương nước ép nham lê hòa vốt-ka.

“Hôm nay tôi tìm cậu trong
bãi giữ xe.”

Tôi mong là lời thì thầm của
tôi vẫn còn mùi kem đánh răng.

“Tôi cũng đã tìm cậu.”

Rồi chúng tôi yên lặng đến
hết bài hát. Cô ấy dẫn bước tôi lại gần hơn một chút. Tôi dẫn cô ấy gần hơn một
chút. Và chúng tôi tiếp tục nhảy. Đó là khoảnh khắc trong cả ngày ròng tôi muốn
đồng hồ ngừng chạy. Và chỉ ở yên đó một lúc lâu.

Rời khỏi vũ trường, bọn tôi
trở lại căn hộ của Peter, và tôi đưa quà tốt nghiệp cho mọi người. Tôi tặng
Alice một quyển sách phim nói về Đêm của thây ma sống mà cô ấy thích, và tôi
tặng Mary Elizabeth một cuộn băng video My life as a dog có phụ đề mà cô ấy
thích.

Đến lượt cho Patrick và Sam.
Tôi đã tự gói quà theo cách đặc biệt. Tôi dùng giấy có chuyện cười của tờ
Sunday, bởi vì giấy đó nhiều màu. Patrick xé toạc lớp giấy. Sam thì không xé
một tí giấy nào. Cô ấy chỉ gỡ băng keo ra thôi. Rồi họ nhìn thứ bên trong mỗi
hộp.

Tôi tặng Patrick các quyển
Trên đường, Bữa trưa trần trụi, Bên này thiên đường, Peter Pan, và Hòa bình
chia cắt.

Tôi tặng Sam các quyển Giết
con chim nhại, Bắt trẻ đồng xanh, Gastby vĩ đại, Hamlet, Walden và Suối nguồn.

Bên dưới những quyển sách là
tấm thiệp mà tôi gõ bằng cái máy đánh chữ Sam mua tặng tôi. Hai tấm thiệp nói
rằng đây là tất cả những quyển sách tôi ưa thích nhất, và tôi muốn Sam và
Patrick sở hữu chúng bởi vì họ là hai người mà tôi thích nhất trên đời.

Lúc hai người đọc thiệp xong,
họ yên lặng. Không ai cười hay khóc hay làm gì cả. Bọn tôi chỉ đơn giản là mở
lòng nhìn nhau. Hai người biết lời tôi trong tấm thiệp là thật lòng. Và tôi
biết điều ấy có ý nghĩa với họ nhiều lắm.

“Mấy tấm thiệp ghi gì vậy?”
Mary Elizabeth hỏi.

“Cậu có phiền không hở
Charlie?” Patrick hỏi.

Tôi lắc đầu bảo không, thế là
hai người đọc lời đề tặng trong thiệp trong khi tôi đi rót đầy vang đỏ vào li cà
phê của tôi.

Lúc tôi trở lại, bọn họ đều
nhìn tôi, và tôi nói: “Tôi sẽ nhớ mọi người rất nhiều. Tôi hi vọng mọi người
vào đại học thật là vui.” Thế rồi tôi bắt đầu khóc bởi vì chợt nhận ra rằng tất
cả mọi người đều sắp đi cả. Tôi nghĩ Peter cho rằng tôi hơi kì lạ. Thế là Sam
đứng dậy rồi đưa tôi vào bếp, vừa đi vừa bảo tôi rằng “không sao đâu.” Lúc bọn
tôi vào bếp rồi, tôi bình tĩnh lại được chút.

Sam hỏi, “Cậu biết một tuần
nữa là tôi đi không, Charlie?”

“Ừa, tôi biết.”

“Đừng khóc như vầy nữa nhé.”

“Ừa được.”

“Tôi muốn cậu nghe này.”

“Ừa.”

“Tôi rất sợ bị đơn độc trong
đại học.”

“Thật sao?” Tôi hỏi. Tôi chưa
bao giờ nghĩ tới chuyện đó.

“Cũng giống như cậu sợ đơn
độc ở đây vậy.”

“Ừa.” Tôi gật đầu.

“Vậy nên ta thỏa thuận với
nhau một điều. Khi tôi hết chịu nổi mọi chuyện ở đại học, tôi sẽ gọi cậu, và
khi cậu hết chịu nổi ở đây, cậu gọi tôi nhé.”

“Tụi mình viết thư qua lại
được không?”

“Hẳn nhiên là được,” cô ấy
đáp.

Rồi tôi lại bắt đầu khóc. Đôi
lúc cảm xúc của tôi lẫn lộn lung tung hết cả. Nhưng Sam thì nhẫn nại.

“Charlie à, hết mùa hè là tôi
lại về, nhưng trước khi nghĩ nhiều tới chuyện đó, bọn mình hãy vui cùng nhau
tuần lễ cuối này. Tất cả bọn mình ấy. Được không nào?”

Tôi gật đầu và bình tĩnh lại.

Rồi đêm đó bọn tôi uống, nghe
nhạc như thường lệ, nhưng lần này là ở nhà Peter, và thực ra mà nói lại tốt hơn
chỗ của Craig, bởi Peter có bộ sưu tập nhạc hay hơn. Khoảng chừng một giờ sáng
thì tôi chợt nhận ra một chuyện.

“Thôi chết rồi!”

“Sao vậy, Charlie?”

“Sáng mai tôi phải đi học!”

Thế là bọn họ lăn ra cười rũ
rượi.

Peter dẫn tôi vào bếp pha cà
phê để tôi tỉnh táo lại mà lái xe về nhà. Tôi nốc liền những tám cốc và sẵn
sàng lái chừng hai mươi phút. Rắc rối là lúc tôi về đến nhà rồi, vì cà phê làm
tôi tỉnh như sáo, không cách chi ngủ được. Gần tới lúc đi học, tôi thấy như sắp
toi đời. May một nỗi là không còn bài kiểm tra cuối kì nào cả, và học trò bọn
tôi chỉ có xem phim ngắn này nọ cả ngày. Thế là tôi ngủ ngon lành hết biết. Tôi
cũng vui nữa, bởi vì đến trường mà không gặp được bạn bè thì thật là cô đơn.

Hôm nay thì khác bởi tôi
không ngủ, và tối qua tôi cũng không gặp được Sam hay Patrick bởi vì hai người
bận đi ăn tối cùng ba mẹ. Và anh tôi thì lại kẹt hẹn hò với một chị gái “xinh
tươi” hôm lễ tốt nghiệp. Chị tôi bận chơi với bạn trai. Và ba mẹ tôi vẫn còn
mệt nhừ sau bữa tiệc mừng tốt nghiệp.

Hôm nay, các thầy cô để học
trò ngồi nói chuyện với nhau sau khi bọn tôi nộp lại sách giáo khoa. Tôi thật
chẳng quen đứa nào cả, có lẽ ngoại trừ Susan, nhưng sau lần gặp nọ ở hành lang,
cô ấy tránh tôi còn hơn tránh tà. Nên tôi chẳng nói năng gì. Duy nhất giờ của
thầy Bill là vui, bởi vì tôi được nói chuyện với thầy. Giờ học hết, tôi thật
buồn lúc chào tạm biệt thầy, nhưng thầy nói đó không phải là tạm biệt. Tôi có
thể gọi thầy bất kì lúc nào suốt mùa hè nếu tôi muốn nói chuyện hay là mượn
sách, và chuyện đó làm tôi thấy khá hơn chút.

Có một đứa răng lộ xỉ tên là
Leonard gọi tôi là “cục cưng của thầy” khi tôi ra hành lang sau giờ thầy Bill,
nhưng tôi chẳng để tâm bởi tôi nghĩ nó chẳng hiểu cái gì cả.

Tôi ăn trưa ngoài trời, trên
một băng ghế chỗ bọn tôi từng hay hút thuốc. Ăn xong cái bánh sô-cô-la, tôi
châm một điếu, và tôi hơi mong ai đó lại xin tôi một điếu, nhưng chẳng có ai
cả.

Khi hết giờ học cuối, bọn học
trò hoan hô và bàn tính với nhau kế hoạch kì nghỉ hè. Và mọi người dọn sạch tủ
cá nhân của họ bằng cách vứt bừa giấy tờ, sách vở xuống sàn lối đi. Khi bước
lại tủ của mình, tôi thấy một đứa gầy nhom dùng tủ đồ kế bên cả năm nay. Trước
giờ, tôi chưa từng chuyện trò gì với nó.

Tôi hắng giọng rồi nói,
“Chào. Tôi tên Charlie.”

Nó chỉ đáp gọn lỏn, “Tao
biết.”

Rồi nó đóng cửa tủ rồi đi
mất.

Thế là tôi mở tủ của tôi, bỏ
hết giấy tờ cũ và các thứ vào ba-lô, rồi bước trên mớ sách vở và giấy tờ trên
lối đi tới bãi đậu xe bên ngoài. Rồi tôi lên xe buýt. Và tôi viết bức thư này
cho bạn.

Thực ra tôi rất vui là năm
học đã hết. Tôi muốn dành thời gian nhiều bên cạnh bè bạn trước khi họ đi xa.
Nhất là Sam.

Sẵn tôi kể luôn là rốt cuộc
tôi đạt điểm A tròn cho cả năm học. Mẹ tôi rất tự hào và đính phiếu điểm trên
tủ lạnh.

Thương mến,

Charlie

Ngày 22 tháng Sáu, 1992

Bạn thân mến,

Cái đêm trước khi Sam đi
khiến cả tuần cuối trở nên mờ nhạt. Sam cuống cuồng bởi cô ấy vừa dành thời
gian chơi với bọn tôi, vừa phải chuẩn bị lên đường. Mua sắm này nọ. Xếp đồ xếp
đạc. Đại loại vậy.

Mỗi đêm, bọn tôi lại tụ hội
sau khi Sam chào tạm biệt một người chú bác nào đó, hoặc đi ăn trưa với mẹ cô
ấy, hoặc đi mua đồ dùng học tập. Cô ấy sợ hãi, và chỉ khi nào cô ấy làm một hớp
bất kì thức gì mà bọn tôi đang uống, hoặc rít một hơi bất kì thứ gì mà bọn tôi
đang hút, cô ấy mới hòa dịu và trở lại là Sam.

Trong tuần này, có một chuyện
mà Sam mong đợi là bữa ăn trưa cùng Craig. Cô ấy bảo cô ấy muốn hắn nói lời “từ
biệt”, kể cũng may, vì hóa ra Craig còn đủ tử tế mà nói rằng cô ấy đã đúng khi
chia tay với hắn. Rằng cô ấy là một người đặc biệt. Và rằng hắn lấy làm tiếc
cũng như cầu chúc cho cô ấy được mạnh khỏe. Kể ra thì thời điểm con người ta
chọn để tỏ ra rộng lượng cũng lạ lùng.

Hay nhất là Sam nói cô ấy
không hỏi hắn về những cô gái có lẽ hắn đang hẹn hò, dù cô rất muốn biết. Cô ấy
không muốn tỏ ra cay chua chuyện cũ. Dẫu vậy, cô ấy buồn. Nhưng trong nỗi buồn
có niềm hi vọng. Đó là kiểu buồn cần thời gian để nguôi ngoai.

Đêm trước khi cô ấy lên
đường, bọn tôi đều tụ ở nhà của Sam và Patrick. Bob, Alice, Mary Elizabeth
(không đi cùng Peter), và tôi. Bọn tôi ngồi trên tấm thảm trong phòng “bi-a” ôn
lại những kỉ niệm.

Nhớ cái sô diễn mà Patrick
làm điều này... Nhớ lúc Bob làm điều nọ... Nhớ lúc Charlie, hay Mary Elizabeth,
hay Alice, hay Sam...

Những mẩu tiếu lâm ruột không
còn là thứ gây cười đơn thuần. Chúng đã trở thành những câu chuyện. Không ai
nhắc những kẻ khiến ta không vui, hoặc những lúc ta buồn rầu. Và không có ai
sầu não miễn là bọn tôi còn có thể trì hoãn ngày mai bằng những hoài niệm khác
nữa.

Sau một lúc, Mary Elizabeth
cùng Bob và Alice ra về, nói rằng sáng họ sẽ quay lại để tiễn Sam. Thế nên chỉ
còn tôi, Patrick, và Sam. Cứ ngồi đó, không nói gì mấy. Đến lúc bọn tôi bắt đầu
chuỗi hoài niệm của mình.

Nhớ cái lúc Charlie tới gặp
anh em mình lần đầu trong trận bóng bầu dục... Rồi nhớ cái lúc Charlie xì bánh
xe của tên Dave ở buổi khiêu vũ mừng cựu học sinh... Rồi nhớ cái bài thơ... Rồi
cuộn băng nhạc... Rồi tờ báo Punk Rocky in màu... Rồi nhớ cái lúc bọn mình đều
thấy vô tận...

Sau khi tôi nói xong, bọn tôi
đều trầm ngâm và buồn buồn. Trong thinh lặng, tôi nhớ đến cái lần nọ mà tôi
chưa kể với ai hết. Đó là lúc ba đứa đang thả bộ. Chỉ có ba đứa thôi. Và tôi đi
giữa. Tôi không nhớ bọn tôi đang đi đến đâu, hay bọn tôi đi từ đâu. Tôi còn
chẳng nhớ lúc ấy mùa gì. Tôi chỉ nhớ là đã bước đi giữa hai người và lần đầu
tiên cảm thấy tôi thuộc về đâu đó.

Sau cùng thì Patrick đứng
dậy.

“Tôi mệt rồi, mấy bồ tèo. Ngủ
ngon nhé.”

Cậu ấy vò bù tóc hai đứa rồi
đi lên phòng. Sam quay sang tôi.

“Charlie này, tôi phải xếp
vài thứ đồ. Cậu ở lại với tôi lát nữa nhé?”

Tôi gật đầu, rồi chúng tôi đi
lên lầu.

Lúc đi vào phòng cô ấy, tôi
để ý thấy mọi thứ khác đi so với cái đêm Sam hôn tôi. Những bức ảnh được tháo
xuống, tủ com-mốt rỗng không, và tất cả là một đống to trên giường. Tôi tự nhủ
là không khóc dù có gì đi nữa, bởi vì tôi không muốn Sam bị rối thêm.

Thế là tôi nhìn cô ấy xếp đồ,
cố ghi nhớ càng nhiều chi tiết càng tốt. Mái tóc dài, cổ tay mỏng manh cùng đôi
mắt màu lục. Tôi muốn nhớ tất cả. Nhất là giọng nói của cô ấy.

Sam nói đến nhiều chuyện, cố
tránh xúc động mạnh. Cô ấy nói về chuyến lái xe dài ngày mai, ba mẹ cô ấy đã
thuê hẳn một chiếc xe tải. Cô ấy không biết các giờ học sẽ như thế nào, và rốt
cuộc “chuyên ngành” của cô ấy sẽ là gì. Cô ấy bảo cô ấy không muốn gia nhập hội
nữ sinh, nhưng mong được xem bóng bầu dục. Cô ấy chỉ càng lúc càng buồn hơn.
Cuối cùng, cô ấy quay lại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3