Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên - Chương 6 - Phần 1

Quyển thứ sáu: Tháng năm Dung Thành

Luôn ngỡ rằng, đô
thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa
xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kì thực
khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được
gọi là Dung Thành, đó không phải mĩ nhân
như hoa, xa tít tận tầng mây mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi
tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong
những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên
những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà
nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng chén trà. Tôi là cô gái giản
dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm
nồng.

Đời người ngõ phố

Cắt một khoảng
thời gian nhàn nhã, một mình, áo trắng phong trần, bước trong ngõ rộng, ngõ hẹp
và ngõ giếng[81] của Thành Đô, tựa như bước đi trong một hành lang dài
thông thẳng tới quá khứ. Trong ngõ không có sự nồng nhiệt như áo màu cưỡi ngựa,
mà có sự vui vẻ như hoa nở trên đường. Tháng năm đã chiếu những chiếc bóng tối
sáng khác nhau ở nơi này, đi dạo trong những con ngõ sâu dài hun hút, tôi ngửi
thấy mùi vị của thời gian, lắng nghe hơi thở của ngày tháng. Ba con ngõ lát đá
chứa đựng biết bao phong tục tập quán này đã kết nối với muôn vàn linh hồn
người Thành Đô. Trong đường đời như mây nước, sự tồn tại của nó là xiết bao
tình sâu nghĩa nặng.

[81] Ngõ rộng, ngõ hẹp, ngõ
giếng nằm trong Khu bảo tồn văn hóa lịch sử của thành phố Thành Đô.

1. Ngõ rộng hẹp

Người ta nói thứ
mà ngõ rộng hẹp chứng kiến chính là cuộc sống “nhàn tản” của Thành Đô xưa, cái
mà nó tái hiện chính là kí ức của người hiện đại
đối với một thành thị. Mà ngõ rộng hẹp kể về cuộc sống “chậm rãi” của Thành Đô
xưa, cái nó phô bày chính là văn hóa sân nhà của Thành Đô. Khi tôi giẫm chân
lên ánh nắng mềm mại đi vào ngõ nhỏ, không khí nhàn tản và nhịp điệu thong thả
nơi này khiến tôi tưởng rằng năm tháng đã quên thay đổi, câu chuyện vẫn còn
dừng lại ở ngày hôm qua. Bất cứ cái quay người hoặc ngoái nhìn nào đều khiến
tôi lạc vào một hồi ức xa xôi nào đó của Thành Đô xưa cũ. Tôi tin rằng, ngõ
rộng hẹp chắc chắn là một áng thơ dân gian mà năm tháng cố tình để lại, khiến
cho những người đã từng bỏ lỡ và những người chưa từng gặp gỡ đều có thể có
được sự thân thiết và tươi đẹp thanh thản này.

Trong ngõ không có
đàn sáo huyên náo của thế giới phù hoa, mà là một khoảng khói bếp phố chợ bình
dị. Tôi gần như có thể ngửi thấy hơi thở quen thuộc của phong tục dân tình đất
Ba Thục từ trong kẽ hở của con đường lát đá xanh này. Ngõ rộng, hẹp của Thành
Đô, tuy ở giữa chốn đô thị phồn hoa, nhưng vẫn giữa nguyên được kiến trúc thời
cuối Minh đầu Thanh. Ngói đen gạch xanh sạch sẽ, những cánh cửa, ô cửa sổ kiểu
cổ bằng gỗ, những hòn đá buộc ngựa bên mép tường cổ, những quán trà già nua bên
hè phố, cây ngô đồng rậm rì, những cảnh vật rõ ràng cổ kính ấy, cách sự ồn ào
của thành thị một bức tường âm thanh, mà đã thanh lọc hết thảy bụi bặm của trần
thế thành trong sạch thanh tịnh. Mà mộng xưa Ba Thục của nghìn năm trước, chỉ
mất một sát na, là đã gặp gỡ ở thời nay.

Đi vào khách sạn
Long Đường, đặt hành trang gọn nhẹ của mình xuống, tôi liền cảm nhận được cảm
giác vui sướng mà “thành phố hạnh phúc nhất” này đem lại. Ở Thành Đô, có rất
nhiều khách sạn đặc biệt nên thơ như thế này, níu chân biết bao giai khách gần
xa đên từ khắp trời nam đất bắc. Họ cũng giống như tôi, vội vã hối hả để đến
với niềm hạnh phúc thư thái của nơi đây. Đi trong ngõ rộng hẹp, ánh dương sáng ngời
lướt qua áo tôi, tựa như sẽ đem sức sống thanh xuân trên người tôi truyền sang
cho mỗi người. Còn tôi lại ngất ngây say đắm không khí phố chợ nồng đậm nơi
đây, từng quán trà gợi lại hết thảy hồi ức của các cụ già, từng gương mặt cười
thu hút tôi, khiến tôi muốn lập tức được chia sẻ niềm vui của họ. Tôi tận tình
“lượn lờ” qua hết mọi khung cảnh thảnh thơi của ngõ nhỏ, cao đàm khoát luận với
đủ mọi loại người, không cho phép bản thân bỏ lỡ bất cứ cảm giác hạnh phúc nào.

Chọn một quán trà
ven đường để ngồi nghỉ, uống một chén trà ướp hoa phù dung. Nơi đây hội tụ
những người Thành Đô xưa và những người qua đường nhàn tản, hai bên gặp gỡ
chẳng hỏi nhau từ đâu đến, cũng chẳng hỏi bao giờ quay về. Tôi mang theo tuổi
trẻ và sự phồn hoa của thành thị, vô cớ xông vào con ngõ cổ bình yên này, cùng
họ tận hưởng sự yên tĩnh mà tháng ngày đem lại, kể về những gió mây biến đổi
ngày hôm qua của Thành Đô. Trên người họ phảng phất một sự yên ả bẩm sinh, giữa
chốn phố thị sương khói bao trùm này, họ vẫn sống những ngày “tri túc thường
lạc[82].”
Mùi vị của trà, ngôn ngữ của nước, tôi hiểu được tâm ý của chúng. Có những
duyên phận chỉ cần một chén trà là đủ.

[82] Tri túc thường lạc: Biết
đủ thì luôn vui, chỉ thái độ sống biết hài lòng với hiện tại và những gì đang
có.

Tháng ngày trong
ngõ nhỏ có thể tùy ý lãng phí, bất cứ một cách sống nào cũng không phải là sống
hoài sống phí. Ngắm phong cảnh trong ngõ, bị lối kiến trúc cô đọng, mộc mạc mà
cổ kính dẫn vào câu chuyện của người khác. Nhàn nhã uống một chén trà là đã hết
một buổi chiều. Trong thời gian chầm chậm trôi, cảm nhận được sự gấp gáp của
đời người, nhưng vẫn yên tĩnh một cách trầm lặng, nhàn rỗi. Dọc đường đi, có
thể nhìn thấy những người già uống trà, túm tụm tán gẫu với nhau, những chú mèo
lười biếng ngồi dưới chân họ gật gù ngủ, thấy những cành lá xanh mướt mát bò
lan trên những bức tường có cánh cửa nửa đóng nửa mở, còn một đôi chim họa mi
treo trên cây ngô đồng. Khói lửa phố thị nguyên chất nguyên vị ấy khiến người
ta bước theo tiết tấu của người Thành Đô xưa, bị họ làm cho rung động một cách
sâu sắc.

Khoảng sân xanh
rêu, vài khóm tre già đang tu thân dưỡng tính, mấy bụi hoa giấy đã thò ra khỏi
đầu tường. Tư thế chậm chạp thong thả của chúng khiến bạn cảm thấy mùa xuân nơi
đây vẫn còn đang chần chừ, hỏi xem đã đến thời khắc giao mùa hay chưa. Người
đến người đi dừng chân trước khoảng sân có điêu khắc mấy bức tranh cổ dân gian
này, không chỉ vì muốn ngắm nghía khung cảnh bên trong bức tường, mà là muốn có
một chốn quay về trong cuộc đời. Đây là mái nhà của người Thành Đô, họ bảo vệ
những ngày tháng xanh rờn trong sân, không còn ước cầu gì hơn. Mặc cho những
cánh én bay xa ngàn dặm, cũng sẽ quay trở về mái hiên quen thuộc, nghỉ ngơi
trong những chiếc tổ đơn sơ của chúng, và người chủ nhân già đi, kể lại những
câu chuyện cũ ngày ngày bồi đắp xây mộng năm xưa.

Nếu có thể giữ lại
được tuổi thanh xuân, tôi sẽ đặt cược tất cả vốn liếng để bản thân đắm chìm
trong ngõ rộng, hẹp và dưới ánh mặt trời chói lọi. Không cần thề hẹn, quên đi
tháng năm, chỉ dùng sinh mệnh trẻ trung đón nhận quãng thời gian hạnh phúc này.
Không để mỗi chặng đường đi qua lưu lại dấu tích, không để bất kì kí ức nào tan tác thành tàn
tro.

2. Ngõ giếng

Nếu nói ngõ rộng,
hẹp là một cuốn sách giản đơn hoài niệm chuyện cũ người xưa, viết về cuộc sống
phố thị phồn hoa nhất của Thành Đô xưa, vậy thì ngõ giếng chính là một nét bút
thanh tân hiện đại trong trang sách. Trùng tu tô điểm lại kiến trúc cổ xưa, vừa
bảo tồn được phong cách mộc mạc năm nào, lại gia tăng thêm nét thơ mộng của
thời đại mới. Có nghĩa là, dùng tình cảm để trang hoàng lại một quãng thời gian
đã qua, thì quãng thời gian ấy sẽ không bị mất đi hương vị nguyên sơ thuở đầu,
mà lại đượm thêm phẩm chất “ôn cố tri tân.”

Đi trong ngõ giếng
cổ kính, tôi lại nảy sinh một cảm giác lần đầu gặp gỡ dưới bóng hoa đào. Bức
tường văn hóa dài 400 mét đó cô đặc diện mạo lịch sử như ban đầu của Thành Đô
xưa, giống như một người già đã kinh qua mọi dâu bể, thì thầm kể lại chuyện
kiếp trước của Thành Đô. Mà dọc con đường này đầy rẫy những quán bar, nhà hàng
mang đậm hơi thở thời đại, thu thập đủ mọi phương thức tự do sinh sống, giống
như một thiếu nữ tươi cười tựa hoa phù dung, diễn lại một kiếp hoa lệ của Thành
Đô. Có lẽ, chỉ có người Thành Đô mới có thể dung hòa lịch sử và hiện đại một
cách hoàn mĩ và nhuần nhị đến thế, thanh sắc rực rỡ đến
thế.

Trước khi đến với
ngõ giếng Thành Đô, trong ba lô của tôi nhét đầy mộng ước tuổi xuân và những
khát vọng hạnh phúc đối với thành phố này. Ngỡ rằng, có mơ ước thì sẽ có hạnh
phúc. Khi tôi nhìn thấy những con người Thành Đô yêu cuộc sống trong ngõ giếng
đó, có người đang lười biếng phơi nắng, có người đang túm tụm tán gẫu, có người
đang ôm một bình trà ngủ gà ngủ gật. Những cảnh tượng thanh bình an lạc đó
chính là hạnh phúc trong mơ của tôi. Trời cao xanh ngắt, mây trôi bồng bềnh, dưới
ánh nắng vàng như mật ngọt, tôi dường như sắp thiếp đi. Nhưng lại cảm thấy niềm
vui dấy lên trong trái tim, khiến tôi không dám bỏ lỡ bất cứ điều gì, chỉ muốn
cùng họ sống qua quãng thời gian này ở Thành Đô.

Một đám đông thanh
niên đang cùng chơi và nghe nhạc, tôi lập tức bị hút qua đó, hòa mình với họ để
ủ những giai điệu thành một bình mĩ tửu,
để tuổi thanh xuân được say khướt một trận. Cuộc gặp gỡ vô tình này không liên
quan đến tan tụ, chỉ vui vẻ trong khoảnh khắc rồi sẽ cùng quên nhau. Còn tôi,
đến đi đều vội vã, lòng không hề vướng bận, dù cho hoa nở hoa tàn, vẫn thoải
mái vô tư. Bởi vì, duyên phận nơi này vốn không có trong số mệnh, chỉ là vĩnh
viễn lưu lại nụ cười mỉm trên gương mặt của người khách lữ hành. Đây chính là
thời gian trong ngõ giếng, vĩnh viễn mang một phong thái huyền ảo yên ổn, mặc
cho tôi và bạn dùng bất cứ phương thức nào để tận hưởng đời người.

Không cần nhiều
lời thêm nữa, tôi sẽ dùng ngòi bút của tuổi trẻ viết nên sự tươi đẹp của tuổi
xuân đầy thơ và rượu. Để mỗi người đến với ngõ giếng này, trong những tháng
ngày hạnh phúc, họ đều có thể nhàn tản thưởng ngoạn sự nên thơ của Thành Đô,
nhận lấy thiên hạ đất Dung Thành.

Đều nói, đây là
thành phố mà đâu đâu cũng đầy ắp sự dịu dàng, cho nên khi rời khỏi ngõ phố,
trong lòng vẫn tràn ngập cảm giác dịu dàng ấy. Kì
thực, li biệt cũng như tương phùng, đều là những
điều hết sức bình thường. Khe khẽ quay người, tôi đã biết rằng, ở ngõ rộng, hẹp
của Thành Đô, thứ nó quan tâm là kí ức xưa
nay của một thành thị, cái nó mở ra lại là đời người rối rắm dao động của ngàn
vạn khách qua đường.

Ngõ rộng ngõ hẹp

Dưới ánh nắng nhàn nhạt

Những con ngõ rộng hẹp dài hun hút

Ánh sáng rụng rơi đầy mặt đất

Chuyện xưa lướt qua tay áo người lữ khách

Đây chính là Thành Đô

Biết bao hạnh phúc nhàn tản

Chạm tay là với tới.

Đường phố ngập tràn khói lửa

Tỏa ra mùi vị của Thành Đô xưa

Cửa gỗ ngả màu

Mở ra kí ức của ngày hôm qua

Quán trà thời xưa

Kể lại cuộc sống phố thị Dung Thành

Còn có những mảng tường xanh rêu

Năm này qua năm khác

Giữ chân những người khách bình thường

Không để thời gian thay đổi dung nhan của thành phố

Một con ngõ nhỏ tuổi đời trăm năm

Trải qua hết thảy tươi héo phàm trần

Ngắm hết vô số chúng sinh

Có người đem tuổi thanh xuân

Treo trên những khung cửa chạm trổ

Có người đem tâm tình nhàn rỗi

Rải trên con đường lát đá tinh khôi

Còn có người đem câu chuyện

Vội vã gói ghém vào hành trang của mình

Đời người thật quá chậm, quá chậm

Ngắm hết phong cảnh trong ngõ

Cuộc sống Thành Đô xưa vẫn còn nguyên dáng vẻ ban đầu

Đời người cũng thật quá nhanh, quá nhanh

Tựa như một chén nhàn trà

Từ ấm sang lạnh, từ đặc sang nhạt

Chỉ trong khoảnh khắc mà thôi

Mở toang cánh cửa khóa im lìm trong hồi ức

Ngõ rộng ngõ hẹp của Thành Đô

Mỗi ngày đều đợi chờ khách qua đường với sự nên thơ cố
hữu

Chẳng bao giờ là sớm nhất

Cũng chẳng bao giờ là quá muộn.

Thiên phủ Cẩm Lý

Nhắc đến Tứ Xuyên,
điều khiến người ta nhớ đến là phong tục tập quán của vùng Xuyên Tây, nhớ đến
những sự kiện lịch sử thời Tam quốc, nhớ đến văn hóa nồng hậu của đất Ba Thục.
Nơi đây đất đai rộng lớn, sản vật dồi dào, lịch sử lâu đời, tự cổ đến nay đã có
tiếng khen là “đất nước thiên đường”. Thành Đô chính là thủ phủ của Tứ Xuyên -
được gọi là “thành phố thiên đường”, vẻ nhàn nhã, phong thái và cả sự dịu dàng
của nó khiến những người tới đây rồi đều không muốn rời đi. Cảm Lý được tôn
xưng là “Thanh Minh thượng hà đồ bản Thành Đô[83]”, đây là
tòa kiến trúc tinh túy của thành cổ. Những người bước vào bên trong chỉ khi lật
giở bức tranh phong tục dân gian truyền thống này, mới có thể thực sự lĩnh hội
được vẻ đẹp rực rỡ của Thành Đô, thưởng thức được sự phong lưu hào hoa của đất
Thục.

[83] “Thanh Minh thượng hà đồ”
(tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh Minh): là tên tác phẩm hội họa khổ rộng
của Trung Quốc, bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là của họa sĩ Trương Trạch Đoan
đời Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh
đô Biện Kinh (tức Khai Phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật,
trang phục, ngành nghề, các chi tiết kiến trúc, đường xá cũng được mô tả k
ĩ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện tích rộng.
“Thanh minh thượng hà đồ” được vẽ trên một trường quyển có kích thước 24,8
× 528,7
cm.

Danh tiếng của
“Thanh minh thượng hà đồ” tại Trung Quốc rất lớn, chính vì vậy đôi khi nó được
gọi là “Mona Lisa của Trung Quốc.” Nó là
báu vật của nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc và hiện được trưng bày tại
bảo tàng Cố Cung, Bắc Kinh.

Cẩm Lý, tức là Cẩm
Quan Thành. Thường Trác đời Tấn viết trong “Hoa Dương quốc chí”, phần “Thục
chí” rằng: “Châu chiếm học phủ của quận để làm học phủ của châu, học phủ của
quận liền chuyển từ phía nam cầu Di Lý đến phía đông cầu, bắt đầu gây dựng nền
học, học phủ của quận có bờ tường thấp bao quanh, dẫn thẳng đến phía tây thành,
do đó gọi là Cẩm Cung. Thợ dệt dệt gấm, giặt nước sông ở đây thì gấm rực rỡ
tươi đẹp hơn hẳn, các sông khác không bằng, vì thế mà được gọi tên là Cẩm Lý
vậy.” Cẩm Lý do bảo tàng Văn Hầu tự khôi phục trùng tu, hiện là phố thương mại
đi bộ nổi tiếng nhất thành phố Thành Đô, được xây dựng phỏng theo phong cách
kiến trúc cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc. Con phố này lắng kết tinh hoa cuộc
sống Thành Đô, có khu ăn vặt điểm tâm nổi tiếng Tứ Xuyên, khu trưng bày và bán
hàng thủ công mĩ nghệ truyền thống Tứ Xuyên, khu khách sạn
phủ đệ, khu giải trí thời trang… và được gọi là “Đệ nhất phố Tây Thục”.

Bước vào bên trong
Cẩm Lý, mới biết đây là nơi khói lửa mịt mùng. Nhưng ngày tháng nơi đây sẽ
không bị rối ren loạn động, trong hỗn tạp lại đan xen một cảm giác yên tĩnh cổ
xưa. Từng cửa tiệm trên phố đều lay tỉnh hết thảy kí ức của Thành Đô, cho dù bạn là con đi xa trở về, hay
là khách qua đường, đều không thể đặt mình nằm ngoài nó. Mà những người cam tâm
tình nguyện trọn vẹn hòa vào trong dòng người, cùng họ ngắm nghía khói lửa nhân
gian, nếm trải trăm vị thế tình. Cẩm Lý như một bức tranh cổ quá nhiều ý vị,
hội tụ đầy đủ cuộc sống thuần phác của dân chúng phố chợ, lại như một bình trà
xanh, được pha bằng những câu chuyện, đợi chờ người có duyên dùng tâm thưởng
thức.

Khi đến Cẩm Lý,
lưng đeo tay nải rỗng không, bởi vì tôi biết, sẽ có quá nhiều điều kinh ngạc và
câu chuyện hiện hữu ở nơi đây lấp đầy hành lí của
tôi. Dạo bước trên ngõ phố đầy hành lí của
tôi. Dạo bước trên ngõ phố của Cẩm Lý, nếp sống của người dân Xuyên Tây từ lâu
đời ùa tới, chỉ trong tích tắc, tôi đã bị sự náo nhiệt quen thuộc của nơi này chuốc
say. Tựa như tôi có tính cách của người Thành Đô, có tâm tình nhàn rỗi của
người Thành Đô, hơn nữa có thể cùng với họ hưởng thụ niềm hạnh phúc và sự ấm áp
mà thành phố này mang lại.

Một con phố cổ dẫn
ra nguyên vị của cuộc sống phố thị, đi xuyên qua nó, không cần suy nghĩ điều
gì, chỉ cần hết lòng chìm đắm trong giấc mộng đất Thục này, để tuổi xuân một
lần nữa được buông thả vui vẻ. Tôi của lúc này có thể tìm thấy câu chuyện của
ngày hôm qua trong phong cảnh sự vật của ngày hôm nay, lại có thể diễn lại
truyền kì của ngày hôm nay trong đáy sâu của ngày
hôm qua.

Những đồ trang sức
thủ công muôn màu muôn vẻ trong các cửa tiệm không ngừng vẫy gọi tôi dừng chân,
như một thứ ngôn ngữ không lời đang kể cho tôi nghe về văn hóa phong tục của
Xuyên Tây, vì bản thân chúng vốn là văn minh của Thục Trung, là chuyện cũ của
Thành Đô. Khiến tôi tình nguyện trả trước những ngày tháng quý báu, giao phó
tuổi hoa của mình, vì chúng mà ở lại. Trút bỏ hành trang, quên mất mình là lữ
khách, bước vào một quán trà phường rượu nào đó, gọi một bình trà, ăn một bát
mì thịt bò, ngồi mãi không muốn đi. Không rời xa được tháng ngày tươi đẹp cổ
kim đổi dời, không rời được cuộc đời nhàn nhã say tỉnh đan xen này. Mỗi một món
đồ thủ công ở đây đều khiến tôi lưu luyến, mỗi một món ăn đều khiến tôi nhớ
mãi, mỗi một gương mặt người, đều khiến tôi cảm động.

Cẩm Lý là một con
phố cổ thích hợp với việc hoài cổ, cũng là một địa điểm mà người nhã kẻ tục có
thể cùng thường ngoạn. Rất nhiều người đến đây có thể tìm lại kí ức tươi đẹp, cũng có thể hưởng thụ cuộc sống chậm
rãi, an nhàn giữa phố thị sôi động xô bồ. Ánh dương luôn hiểu lòng người, nhìn
thấu hết thảy sự náo nhiệt của Cẩm Lý. Đứng trên phố nhìn những người thợ thủ
công quẩy gánh nặn tò he, mua súc vải gấm của đất Thục trong những cửa tiệm sặc
sỡ sắc màu, dưới khán đài xem một đoạn kịch có kĩ
thuật đổi nét đặc sắc. Tựa như mượn một súc vải thêu, vải gấm đất Thục là có
thể dệt nên sơn hà tráng lệ, nghe một đoạn kịch Xuyên là có thể diễn hết buồn
vui li hợp, uống một bát rượu cay là có thể gia nhập
buổi kết nghĩa vườn đào. Cẩm Lý chính là một con phố cổ đầy rẫy huyền thoại, rõ
ràng đứng giữa hồng trần phồn hoa, mà lại thản nhiên như nằm ngoài hồng trần.

Có người nói, đi
loanh quanh ở Cẩm Lý của Thành Đô cũng giống như đi dạo ở Lệ Giang của Vân Nam,
nhưng tôi lại cảm nhận được tục lệ thói quen giữa hai nơi này khác nhau hoàn
toàn. Ở Cẩm Lý, điều khiến tôi kinh ngạc nhất là kịch rối bóng. Tạo hình rối
bóng sinh động, linh hoạt, những hình vẽ tinh tế tỉ mỉ, động tác linh động,
khéo léo, âm điệu tròn trịa uyển chuyển, sức lôi cuốn của loại hình nghệ thuật
cổ điển mộc mạc mà tao nhã này tạo ra có thể khiến những mây gió đã chìm khuất
lại nổi lên, khiến quá vãng đã lùi xa được tái hiện trở lại. Nó có thể khiến
người ta ôn lại những phong tục thuần phác của Xuyên Tây, tìm lại những niềm
vui giản đơn của tuổi thơ ấu. Tôi nhìn thấy người Thành Đô sống một cuộc đời
vui vẻ sung sướng ở Cẩm Lý, đem những tâm nguyện tốt đẹp nhất hong dưới ánh
nắng ấp áp, đem những câu chuyện bình thường phản chiếu lại trong một vở kịch
rối bóng.

Kịch chưa kết
thúc, ánh đèn vẫn sáng. Đứng trong phố cổ Cẩm Lý tràn ngập hơi thở của ngành
kinh doanh, nhìn ra xa chỉ có Vũ Hầu tự (miếu Vũ Hầu) sát ngay gần đó, lúc này
đang im lìm trầm mặc. Sự trầm mặc của nó, có phải là đang chờ đợi một câu
chuyện ngàn thu ba lần đến nhà tranh khác hay không? Lưu Bị và Gia Cát Lượng
của năm đó, có phải vẫn còn đang ở thánh địa Tam Quốc, ngồi đối diện nhau, gẩy
đàn nâng chén hay không?

Cẩm Lý, bạn hãy
nhìn hành trang rỗng không này xem, nó đã bị lấp đầy bằng cuộc sống chân thực
và văn hóa lịch sử nơi đây. Mang theo những kí
ức sinh động đầy ắp này, đủ để nuôi dưỡng tâm tình một đời, và truyền cho một
người khác. Hãy để họ biết rằng, ở Cẩm Lý có một bức tranh “Thanh Minh thượng
hà đồ” phiên bản Thành Đô hết sức thú vị.

Tháng năm Dung Thành

Luôn ngỡ rằng, đô
thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa
xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kì thực
khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được
gọi là Dung Thành, đó không phải mĩ nhân
như hoa, xa tít tận tầng mây mịt mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang,
rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng
trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm
trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa,
mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng chén trà. Tôi là cô gái
giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm
nồng.

Khúc thứ nhất: Nếp cổ Cầm Đài

Ngồi trên một
chiếc xe ngựa thời Hán, lần theo một làn điệu sinh động, hoặc đi theo một làn
gió mát trong lành, là có thể đến được Cầm Đài của Thục Trung. Đứng trên đường
Cầm Đài mới phát hiện ra, tôi giống như một người lữ khách hiện đại nhớ nhà, mà
quên mất mặc bộ Hán phục phấp phới. Mà đường cũ Cầm Đài không phải là đường phố
thời Hán, chỉ là thời đại Đại Hán đã đánh rớt một phong cảnh, treo một bức cổ
họa nơi đây.

Tôi nghĩ, mưa khói
của hơn hai nghìn năm trước trôi đi, cái còn lưu lại hẳn là tinh túy nhân văn
như thế nào? Thời gian hơn hai nghìn năm mài mòn, cái bị cất giấu hẳn là báu
vật bút mực ra sao? Không có năm tháng xa xôi, chẳng có đao quang kiếm ảnh,
nhưng vẫn có thể tái hiện một cuộc vinh hoa Đại Hán, lễ nhạc yến tiệc, ca vũ
thênh thang trong những bức tranh trên gạch nung thời Hán.

Quất ngựa tung vó
bụi mù, bánh xe của lịch sử lăn qua mọi thời đại gió thét mây gào, lăn đến thời
thái bình thịnh thế ngày nay. Đường Cầm Đài - một cảnh quan tráng lệ nguy nga, lẽ
nào lại không đẹp đẽ hơn, to lớn hơn triều đại trước? Nếu luận về phong cốt,
thì hán phong cổ vận choáng ngợp trời cao này đủ khiến người ta si mê. Nếu nói
về lãng mạn thì đôi tình nhân mười ngón tay đan vào nhau cùng dạo bước trên con
đường lát đá đó nghiễm nhiên chính là Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như năm nào.

Là Cầm Đài của Đại
Hán, là Cầm Đài của Trác Văn Quân, cũng là Cầm Đài của Tư Mã Tương Như. Năm
xưa, một khúc “Phượng cầu hoàng” đã hé mở tiếng đàn lòng đầy tình cảm, từ đây
những người liên quan và cả những người không liên quan nghe thấy đều không bao
giờ quên nó. Sự nên thơ đến say đắm lòng người ấy đung đưa qua tuế nguyệt hơn
hai nghìn năm, khiến một con đường Cầm Đài dài đằng đẵng vẫn văng vẳng tiếng
đàn tao nhã tính tang.

Khi âm luật vang lên
miên man, đèn đuốc dưới hiên nhà bên hè phố nhảy hót theo nhịp âm thanh, dường
như chúng đang cảm động, cảm động vì sự kiên trinh tâm như trăng sáng, cảm động
vì một lời hẹn ước bên nhau đến bạc đầu. Thời gian rất có nghĩa tình, nó bồi
đắp những nuối tiếc, giữ lại những hoàn mĩ chân
thật, và tiếng sóng vẫn rì rào như xưa trong dòng sông lịch sử.

Nghìn năm đã qua,
tại sao tân khách vẫn nườm nượp trên lầu Văn Quân? Vì người ta không quên được
tuyệt đại hồng nhan bán rượu trong quán năm xưa, hay không quên được giai thoại
phong lưu phượng cầu hoàng thời Hán? Chuyện cũ phong tư tha thướt ấy, giữa
những người đã già nua giữa tháng ngày hôm qua. Đều nói đời người như một cái
phẩy tay, mà sát na thôi đã có thể biến thành vĩnh hằng. Phong tình Đại Hán còn
tiếp diễn đến tận ngày nay, vậy phồn hoa của ngày hôm nay há chẳng phải sẽ tiếp
diễn đến ngày sau sao?

Khi tôi đứng trên
đường xưa Cầm Đài, ngắm một vùng phong cảnh cẩm tú hoa lệ, ngắm mọi người sinh
sống dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên tôi hiểu rằng, khói mây lưu chuyển suốt hai
nghìn năm, chúng ta không hề bỏ lỡ thời gian, mà là thời gian bỏ lỡ bản thân
nó.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3