Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên - Chương 5 - Phần 1
Quyển thứ năm: Sóng nước trong
mộng
Mỗi
người đều có một vùng sông nước trong mộng, vùng sông nước này chính là Giang
Nam. Có lẽ Giang Nam níu giữ bạn chỉ bằng một ngọn sóng, một mảnh hồi ức, một
gốc cây cảnh. Nhưng sự hiện diện của bạn, đều là vì mốt duyên tình không dứt từ
kiếp trước. Không quên nổi con thuyền nhỏ mui đen đó, không quên nổi ngày hôm
qua xuân sắc khắp thành vào thời Tống đó. Đây là nơi hễ bạn đã bước vào thì
không gì chia cắt nổi, khiến bạn từ một người khách qua đường biến thành một
người quay trở về. Đã nói, nhất định phải gom góp một quãng thời gian của vùng
sông, nước trong một quán trà cũ kĩ, lặng lẽ chờ đợi, không gặp không về.
Kí ức sông nước
Người ta
nói sông nước Thiệu Hưng là một dòng sông, bạn đứng ở bên bờ đá xanh, muốn qua
sông, chỉ có cách ngồi lên thuyền nhỏ mui đen mới có thể đi qua. Bất cứ phương
thức nào khác đều không thể thực sự đưa bạn vào giấc mộng sông nước. Dòng sông
mang đậm phong cách cổ xưa của Giang Nam, sẽ thanh lọc sạch sẽ cõi lòng đầy mây
khói phù hoa của bạn, gạt bỏ mọi bối rối của khách qua đường là bạn, mang đến
cho bạn hơi ấm của người trở về. Lội nước mà đi, trong sương khói mờ mịt bao
trùm sông nước, phong cảnh hai bên bờ sẽ làm ướt đẫm áo khăn của bạn, mà sau
đó, lại từ từ thẩm thấu vào tận sâu thẳm linh hồn bạn.
Mái chèo
khua qua kí ức cổ xưa của Thiệu Hưng, những sóng nước nhẹ nhàng lan tỏa sẽ
trùng phùng gợi mở những sự tình mà bạn đã quên lãng hay đóng kín. Những khoảnh
khắc từng khắc sâu tâm khảm vốn đã nhạt nhòa, mà giờ đây, từng chi tiết mơ hồ
lại trở nên sống động, sắc nét. Phong cảnh cổ kính khóa kín mọi nét hoa lệ của
thế gian, khiến bạn có thể thưởng ngoạn mây trôi gió vờn ngay từ những dấu tích
đã xanh rêu. Ở vùng sông nước không có điêu khắc, không thấy trang hoàng và đâu
đâu cũng là nên thơ tự nhiên này, rất nhiều cuộc đời tối tăm, trong một sát na,
đã trở thành linh hồn sống động.
Men theo
những cảnh trí thơ mộng, thanh tân, linh khí từ xa đến gần tựa như một cơn gió
nhẹ ùa đến, lịch sử từ cổ đến kim cũng như một cuốn cổ thư từ từ mở ra. Vô vàn nhân
vật, sự tình của vùng sông nước chưa từng được thống kê một cách tỉ mỉ, đã lọt
vào giữa năm tháng cuồn cuộn như nước trào, bởi vì chỉ có đi xuyên qua thời
gian mưa khói hàng ngàn năm, mới có thể thực sự nắm bắt được những câu chuyện
chìm sâu trong dòng nước Thiệu Hưng.
Những
thứ đã xa nay quay trở lại, lịch sử như một tấm gương đồng han gỉ, treo trước
song cửa sổ vùng sông nước, trong những ngày tháng sắc nhọn, để lộ ra chiếc
bóng tang thương của mình. Vua Đại Vũ đã từng trị thủy cứu dân đen nơi đây, Việt
Vương Câu Tiễn đã từng nếm mật nằm gai trên mảnh đất này để giành lại thiên hạ.
Ai đã có mối tình bi thương không lời ở vườn Thẩm đó, còn có chuyến du hành
hoài niệm chuyện cũ người xưa như văn hào Lỗ Tấn? Thậm chí, khi bạn hít thở,
mùi thơm của mực trong bức “Lan đình tập sự” của Vương Hy Chi còn làm bạn nghẹt
thở đến mức không dám thả trôi dòng suy tưởng, thứ mực nước nghìn năm ấy đã tẩy
nhãn tịnh tâm cho bạn, lọc tẩy hết thảy những nóng vội của con người, chỉ giữ
lại một khoảng trời trong vắt.
Là một
người có tâm trí trong sáng, bạn có thể du ngoạn trong không gian đơn sơ phóng
khoáng của lịch sử, mơ mộng trong phong cảnh tú lệ của sông nước, không cần lo
lắng bị thế sự phồn tạp ngăn cản, không cần tính toán những tình cảm chua xót
vây cuốn. Bạn nhắm mắt lại, cảm nhận vẻ đẹp đắm say của sông nước, bạn mở mắt
ra, ngọn gió xuân dịu dàng ấy đã lặn sâu trong linh hồn bạn, nói với bạn rằng,
phút giây này, cuộc sống thật mới mẻ và chân thực xiết bao.
Chiếc
thuyền mui đen nho nhỏ chảy xuôi theo dòng, ngước mắt lên rồi dựa cửa sổ để
ngắm nhìn Giang Nam tươi đẹp, gặp gỡ trong phút giây đã đủ níu kéo tuổi xuân và
mộng tưởng mà gió bụi từng che lấp. Thời gian tựa như một lưỡi dao sắc lẹm, cắt
đứt tuổi hoa xanh biêng biếc và cũng có thể cắt đứt kí ức sâu thẳm, giải phóng
những suy nghĩ bị giam cầm. Những câu chuyện cũ từng bị tuế nguyệt hong khô đã
bắt đầu ướt đẫm, dưới ánh dương rực rỡ sáng lòa, chúng lại mang hơi ấm của
tháng ngày.
Khi bạn
tán thưởng phong tư dịu dàng yểu điệu của các giai nhân Giang Nam, sao không
nhớ tới người hồng nhan cân quắc chẳng kém đấng mày râu ấy? Trong thời đại mây
đen ngập lối đó, một câu “Thu phong thu vũ sầu sát nhân” (Gió thu mưa thu buồn
đến giết người) của Thu Cẩn[73]
đã vạch thẳng sự đen tối của thời đại, đến nay vẫn còn được hậu nhân truyền
tụng không quên. Thân là nữ nhi, bà hành tẩu trên đoạn đường đầu của cách mạng,
rong ruổi giang hồ, cưỡi sóng đạp gió. Cuối cùng máu nhuộm Hiên đình, xương vùi
Tây lãnh, sự tích lẫy lừng đó đã làm xúc động tâm can con người mọi thời đại.
[73] Thu Cẩn (1875-1907), chí sĩ
cách mạng dân chủ cận đại của Trung Quốc, tên gốc là Thu Khuê Cán, tự Toàn
Khanh, hiệu Nhật Ngô, nhũ danh là Ngọc Cô, sau khi sang Nhật đổi tên là Thu
Cẩn, tự xưng là Giám Hồ nữ hiệp, bút danh Thiên Thu. Thu Cẩn quê Sơn Âm Chiết Giang
(nay là Thiệu Hưng), sinh ở huyện Mân, tỉnh Phúc Kiến (nay là Phúc Châu), coi
thường lễ giáo phong kiến, đề xướng nam nữ bình đẳng, tính tình hào sảng, văn
ôn võ luyện, từng du học tự túc ở Nhật Bản, về sau tham gia các tổ chức cách
mạng như Tam Hợp hội, Quang Phục hội, Đồng Minh hội… Năm 1907, bà cùng bọn Từ
Tích Lân tổ chức Quang Phục quân, đồng khởi nghĩa ở Chiết Giang, An Huy ngày
mùng 7 tháng 6. Sự việc bại lộ, bà bị bắt. Ngày 15/7, bà bị xử tử ở Hiên Đình
Khẩu, Chiết Giang. Thu Cẩn là hình mẫu của nữ chiến sĩ cách mạng trong tác phẩm
“Thuốc” của Lỗ Tấn.
Hồn
phách trầm tĩnh như nước thu đó liệu có nhìn thấy vầng trăng sáng đầu tiên của
đất nước Trung Quốc mới hay không? Hiệp khách chân chính, kiếm còn chưa rút,
thì sự sắc bén đã làm kinh hãi thế gian, người nữ nhi nổi danh Giang Nam này
quả thực có khí phách cưỡi gió vạn dặm, xông thẳng tầng mây. Khi bạn đang say
đắm trong sự nên thơ của khung cảnh cầu con nước chảy, thì vẫn có một mặt hồ
trong tâm hồn, sóng vỗ xô bờ, xao động mãi không thôi.
Di chuyển
trên sông nước khó tránh khỏi bị ướt, hơi lạnh thấm buốt cõi lòng. Chọn một bờ
bên để lên, đi trên con đường lát đá, những phiến đá bị thời gian mài mòn thành
trơn bóng, bạn xóa đi những bụi phấn mà người đi trước còn lưu lại, còn những
trần ai mà bạn để lại, sẽ lại có người khác xóa mờ giúp bạn. Trong lúc vô tình,
những giọt nước từ những giò lan u tĩnh treo lên ban công tí tách nhỏ xuống,
làm ướt tóc bạn, nhưng lại thoang thoảng mùi hương xao động tâm hồn.
Một giọt
sương lan thanh nhã tuyệt trần, tựa như một giọt mực vỡ nhỏ trên giấy Tuyên
Thành, thấm nhòe hồi ức sặc sỡ. Là thư thánh Vương Hy Chi đã đem thủy mặc hội
tụ thành suối lan, dùng ngòi bút như nước chảy mây trôi viết thành “Lan đình
tập sự”, để tiếng thơm truyền đến ngàn đời. Lan đình của ngày xưa từng có một
cuộc tụ họp mây trắng gió xuân, các danh sĩ Ngụy Tấn đã kí gửi tâm tình vào non
nước nơi này, uống rượu ngâm thơ, khi cảm thán chuyện không hợp thời cuộc, khó
tránh khỏi bị vạn vật đa tình nơi đây chuốc cho say túy lúy.
Sinh
mệnh vốn có rất nhiều cách kiếm tìm, nếu như khi tìm kiếm mà ta có một cõi lòng
bình thản ung dung thì ủ dột cũng có thể sáng láng, khốn đốn cũng có thể tỉnh
táo. Còn dùng tài cao để cầu danh lợi, chưa chắc đã là hành động của bậc minh
trí; dùng sự độ lượng để chứa đựng tự nhiên, lại há chẳng phải là một cuộc đời
khoáng đạt hay sao? Khi bạn nhìn lại quá khứ, không biết là ai đã tặng một chén
sương trong vắt trên cành u lan, quay người nhìn lại, nàng đã biến mất trong
ngõ đá mưa khói mất rồi.
Ánh
dương mềm dịu cháy tan theo từng lớp ngói đen, trong khoảnh khắc bạn chớp mắt,
những lá tửu kì[74] phất
phơ đón gió có thể thấy ở bất cứ nơi đâu, gấp gáp muốn chỉ cho bạn thấy bình
rượu ngon đã bị thời gian Thiệu Hưng ủ kín. Cho dù bạn có kìm nén được trước sự
mê hoặc của mùi rượu thơm hay không, bạn đều không thể tự chủ mà chọn một quán
rượu, bước qua bậu cửa gỗ cũ mèm, say tỉnh mặc sức thỏa ý.
[74] Tửu kì: Lá cờ bằng gấm, trên
thêu chữ “Tửu” (rượu) thường được treo trước quán rượu, nhà hàng thời cổ để
đánh dấu và mời mọc khách quan.
Trong
phòng tràn ngập mùi rượu thơm nồng, bạn chưa nếm rượu thì đã ngà ngà say. Bộ
bàn ghế gỗ cổ, những khách uống rượu đến từ trời nam đất bắc ngồi vây quanh,
không ai hỏi ai từ đâu đến, đi về đâu, một bình Hoa Điêu đã chuốc say mọi cuộc
đời buồn vui sướng khổ của mỗi người. Câu chuyện của mỗi người đều là một vò
rượu cũ chôn sâu, bạn mượn cây kéo thời gian nhàn tản của Thiệu Hưng để mở nó
ra, trong ánh nắng nhàn nhạt, đôi mắt ngây ngây, nhớ lại ngày hôm qua đầy biến
động của chính mình.
Chỉ như
thời gian được thưởng thức một chén rượu, chuyện cũ chớp mắt đã mười năm. Tuế
nguyệt trong chén rượu không còn sắc nhọn, nó sẽ không truy đuổi bạn, bạn có
thể uống đến say mèm, từ sáng sớm bình minh, đến khi đêm về trăng lên, cũng chỉ
có một ngọn đèn thắp sáng vì bạn. Khi bạn nhìn thấy một chiếc áo dài cũ rách,
và lầm tưởng đó là Khổng Ất Kỷ[75],
mới hay rằng, mình đã say thật rồi. Khi tỉnh lại, câu chuyện của bạn đã kết
thúc, khi say mèm, câu chuyện của người khác lại mới bắt đầu.
[75] Khổng Ất Kỷ: Một nhân vật
trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lỗ Tấn.
Giả như
bạn là một khách từ phương xa tới, không kiềm lòng được trước sự cổ kính của
sông nước, nói không chừng sẽ lạc lối trong một ngõ nhỏ man mác khói xanh nào
đó, không nhớ nổi đường đến. Hoặc là bị cơn gió thoảng lãng quên trên một cây
cầu không biết tên nào đó, không biết được đường về. Lúc ấy, bạn chỉ cần tìm
nơi có nước chảy, tại bất cứ một bến đậu nào, những phu thuyền trên những con
thuyền mui đen ấy, sẽ đưa bạn đến mọi nơi có liên quan đến Thiệu Hưng.
Mỗi một
cây cầu cổ là một điểm dừng chân của nhân sinh, mỗi một bến đò là một khởi đầu
của vận mệnh, bạn đặt người khách qua đường đi lướt qua nhau trước một song cửa
sổ sát dòng nước, rồi lại gửi gắm phong cảnh mà bạn du ngoạn vào chân trời phù
vân. Bạn cho rằng cách xa sông nước là có thể đặt chân lên đất liền, mặc cho
gió dập mưa vùi, ai có hay rằng, quanh đi quẩn lại sẽ lại quay về trên chiếc
thuyền mui đen. Ở nơi đây, sông nước là dòng chảy, bạn muốn đến bờ bên kia, thì
buộc phải di chuyển trên dòng nước. Người có trí tuệ sẽ hiểu được chân lí “tòng
thiện như nước chảy”, “nhu có thể khắc cương” và tấm lòng dù rộng lớn đến đâu,
cũng chẳng vượt nổi sự mênh mông của nước.
Chảy
xuôi theo dòng, không cần đo đếm độ dài của dòng chảy, để lịch sử đã hé mở chìm
sâu dưới đáy nước, để câu chuyện chưa từng được đọc trôi nổi trên mặt nước.
Trong kết cục đi tìm khởi đầu mới, nói cho cơn gió nhẹ hay rằng, bạn sẽ đến
vườn Thẩm, sẽ tìm kiếm một giấc mộng cũ bi thương thời Tống. Nói với mây trắng
rằng, bạn sẽ đến vùng thôn quê, yên lặng ngắm sân khấu đã già nua của tuổi
xuân.
Li biệt
ngắn ngủi là để có niềm vui lúc trùng phùng, li biệt vĩnh viễn lại là một vẻ
đẹp không thể tả bằng lời của nhân sinh. Bạn từng hồi tưởng sâu sắc về sông
nước, có một ngày, sông nước cũng sẽ lờ mờ nhớ lại bạn của ngày hôm qua.
Gặp gỡ vườn Thẩm
Hồng tô
thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu. Đông phong ác, hoan
tình bạc, nhất hoài sầu tự, kỉ niên li sách, thác, thác, thác!
Xuân như
cựu, nhân không sấu. Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu. Đào hoa lạc, nhàn trì các,
sơn mình tuy tịa, cẩm thư nan thác, mạc, mạc, mạc!
(Tống,
Lục Du, “Thoa đầu phượng”)
(Dịch
thơ Nguyễn Xuân Tảo:
Tay
trắng muốt, rượu vàng rót, cây liễu cung sân xuân cách bức. Gió đông dữ, tình
thắm lỡ, một mối tơ sầu, bao năm tan vỡ. Dở, dở, dở!
Xuân như
trước, người gầy rạc, ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt. Hoa đào rữa, lầu gác trở.
Non thề còn kia. Chớ, chớ, chớ!)
Thế tình
bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc. Hiểu phong can, lệ ngân tàn,
dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan. Nan, nan, nan!
Nhân
thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác. Giốc thanh hàn, dạ
lan san, phạ nhân tầm vấn, yên lệ trang hoan. Man, man, man!
(Tống, Đường Uyển,
“Thao đầu phượng”)
(Dịch thơ Đông A:
Tình đời bạc, tình
người ác, mưa tiễn hoàng hôn hoa tan tác. Gió mai lan, lệ hoen tàn, muốn thư
tâm sự, rặt ý lan man. Nan, nan, nan!
Người đơn bạc, nay
mai khác, bệnh lòng như thể ngàn thu tạc. Tiếng tù vang, bóng đêm tan, sợ người
tra hỏi, nuốt lệ tân trang. Gian, gian, gian!)
Chưa một ai bước
vào vườn Thẩm[76] mà cảm giác như gió mưa quay về, cho dù cảnh trí và
sự tích nơi đây đã sớm lặp lại hàng trăm ngàn lần trong giấc mơ của bạn. Nhưng
rốt cuộc bạn chỉ là một áng mây màu phiêu lãng, có lẽ bạn có thể nhận ra mối
tình quá khứ năm xưa của vườn Thẩm, nhưng lại không có một cành cây ngọn cỏ nào
nơi đây đợi chờ bạn. Nếu như nói là đến đây để hồi tưởng, thì cái bạn hồi tưởng
là kí ức của Lục Du; nếu như bạn nói là đến đây để tìm mộng, thì cái bạn tìm
kiếm là mộng cảnh của Đường Uyển. Vườn Thẩm như một hồ nước xuân sáng như
gương, có thể soi bóng chuyện cũ ngày xưa một cách rõ ràng, nhưng bạn vĩnh viễn
chỉ là một kẻ bên ngoài nhìn vào, mà không thể là người bước vào trong tấm
gương.
[76] Vườn Thẩm (Thẩm viên): là
khu vườn cảnh nổi tiếng đời Tống ở Thiệu Hưng, gắn liền với câu chuyện tình bi
thảm của nhà thơ Lục Du và người vợ Đường Uyển. Năm hai mươi tuổi, Lục Du kết
duyên cùng người em họ Đường Uyển, hai người là thanh mai trúc mã, vừa tâm đầu
ý hợp, thi thư xướng họa, nhưng Đường Uyển lại bị mẹ chồng ghét bỏ, bà buộc Lục
Du phải bỏ Đường Uyển, Lục Du đành phải chia tay Đường Uyển, nhưng vẫn lén thuê
nhà riêng để hai vợ chồng có thể gặp gỡ. Sau này mẹ Lục Du phát hiện, đến tận
nơi mắng nhiếc, khiến Lục Du và Đường Uyển phải chia tay thật sự. Lục Du cưới
vợ khác, còn Đường Uyển lấy Triệu Sĩ Trinh. Hơn mười năm sau, Lục Du dạo chơi
vườn Thẩm, tình cờ gặp Đường Uyển và chồng, Đường Uyển kể hết cho Triệu Sĩ
Trinh, Triệu Sĩ Trinh là người cao thượng, không những cảm thông mà còn cho
phép vợ làm tiệc rượu đãi Lục Du. Lục Du đã đề một bài từ trên tường để bày tỏ
nỗi lòng mình, chính là bài “Thoa đầu phượng.” Đường Uyển đọc xong cũng cảm
động, đề một bài từ đáp lại. Sau buổi hôm ấy, Đường Uyển buồn rầu nghĩ ngợi,
rồi ốm mà mất. Cái chết của nàng khiến Lục Du đau khổ, ân hận suốt đời, không
thể nguôi ngoai.
Mặc dầu chỉ là một
hạt bụi trần lơ lửng giữa thời gian của vườn Thẩm, nhưng vì khúc thiên cổ tuyệt
xướng đó, mà du khách như nước lũ đến dạo quẩn quanh trong vườn như xưa. Đương
nhiên, cánh cửa dày nặng đã từng đóng im ỉm đó của vườn Thẩm đã ung dung mở ra
chào đón tất cả mọi người. Vườn Thẩm vốn là một khu vườn của họ Thẩm ở Giang
Nam, cho dù thấm đẫm trăng sáng thời Tống, lại trôi qua mây nước Minh, Thanh,
còn nhuốm màu mưa khói thời nay, nhưng năm tháng ở nơi này trước sau vẫn dừng
lại trong một bài từ tên là “Thoa đầu phượng.”
Là “Thoa đầu
phượng” của Lục Du và Đường Uyển, cũng là vườn Thẩm của Lục Du và Đường Uyển.
Họ bị hiện thực tàn khốc chia cắt vận mệnh, trở thành tù nhân của lễ giáo phong
kiến, mà vườn Thẩm lại tạo cho họ một vận mệnh khác, khiến li biệt có thể trùng
phùng đầy thương cảm, khiến tan vỡ có thể viên mãn một cách tàn khuyết. Dù cho
suốt đời chẳng được bên nhau, nhưng họ lại trở thành một phong cảnh chẳng thể
chia lìa trong vườn Thẩm, vườn Thẩm cũng nhờ câu chuyện của họ, mà trở thành
một địa điểm khiến người ta phải nhẫn nại nghiền ngẫm nghĩ suy.
Thảng như bạn
không muốn làm một người cổ hủ, khi đến vườn Thẩm, không nhất thiết phải mang
theo sắc thái bi thương, không cần phải thở than đau đáu, cũng không cần phải
cảm thấy trống trải chua xót. Bởi vì, nơi đây đã từng có cuộc li biệt rõ ràng
sáng tỏ, cũng đã từng có những hồi ức tươi đẹp khôn xiết. Bất cứ vương vấn vô
cớ nào, đều là sự hốt hoảng không tên. Phong cảnh nơi này, câu chuyện nơi này,
sẽ không khiến ai vô tình bỏ lỡ, và cũng không vì ai cố ý dừng lại. Đi theo
những dấu tích thưa thớt còn sót lại của câu chuyện xưa, bước đi trong giấc
mộng cũ của mưa gió vườn Thẩm, bạn có thể cảm động, nhưng không nên bi thương;
bạn có thể say đắm, nhưng không nên mơ hồ.
Vườn Thẩm năm đó
kì thực đã bị chôn vùi trong gió bụi thời gian, chính những người đời sau vì đi
tìm giấc mộng, nên đã trùng tu lại di tích lịch sử còn sót lại này, để người
đời có thể nhìn thấy được tình cảnh năm xưa từ những cảnh vật hiện thời mà mình
có thể chạm tay vào được. Không người nào so đo xem vườn Thẩm trước mắt có chân
thực như xưa không, bởi vì bạn nhắm mắt lại là có thể ngửi thấy mùi hoa thơm,
nghe thấy tiếng mưa rơi, còn có cơn gió thoảng nhè nhẹ bước đi trong vườn, hết
thảy đều đang nói với bạn, là thật, chân thực như mộng cảnh và mộng cảnh cũng
là chân thực.