Nhất Linh, cha tôi - Phần II - Chương 06

Phần 2

Cây bàng lá đỏ

Buông từ trên
tít cao rơi lửng ở ngang chừng, những dây rễ con đan kết vào nhau bện thành từng
chùm thả xuống như tấm rèm thưa vây che thân cây si già sần sùi, cổ kính: Hà Nội
trong mắt tôi cũng đan kết dính quyện với nhau như thế. Trong cái nhìn của tôi
không thể nào tròn vẹn là một Hà Nội những năm đầu của thiên kỉ mới mà luôn có
lẫn cái nhìn cũ kĩ của chính tôi thời thơ ấu, có vương cái hồn những người cật
ruột của tôi phơi bầy qua những dòng văn lãng mạn nổi tiếng một thời.

Đêm Hà Nội có lễ
hội. Tết Trung Thu năm nay lại rơi đúng vào tối thứ bảy. Tôi bước xuống từ lầu
nhà Thủy Tạ thấy mình rơi vào dòng người tấp nập ngược xuôi xung quanh Bờ Hồ.
Phố Lê Thái Tổ ôm sát nửa vòng hồ chứa cả một khối lượng không biết cơ man nào
xe máy, tưởng như tất cả các chiếc xe của thành phố bỗng từ trăm ngả cùng lúc
tuôn ra đi “thưởng trăng” nơi hồ Hoàn Kiếm. Trên những chiếc xe máy là cả một
đàn thê tử: chồng thì gò lưng lách lạng, vợ ngồi sau ôm cứng bầy con; có xe ôi
chao kẹp những ba đứa, những đứa bé nghếch mặt tay giơ cao chiếc que đèn lồng
hay kéo sợi dây căng có buộc chùm bong bóng đủ màu.

Đêm này, năm
mươi năm trước, đứa bé đó là tôi tay xách đèn lồng đi tung tăng trong khu phố cổ,
ngụp lặn trong thế giới của đồ chơi tháng Tám những phố Mã Mây, Hàng Bông, Hàng
Hòm, Hàng Quạt, Hàng Bồ... Thằng bé đi qua phố Hàng Thiếc ngây người đứng xem
những cái tàu thủy bằng thiếc chạy xịch xịch trong thau nước, con bướm sắt đẩy
đi trên hè kêu leng keng chiếc cánh gập lên hạ xuống, tạt vào Hàng Mã nhìn những
con giống bằng bột hình con thạch sùng, con kì lân, con phượng... màu sắc lòe
loẹt, sặc sỡ. Nó hoa mắt nhìn những cỗ đèn Trung Thu đủ màu đủ kiểu ở phố Hàng
Gai: đèn xếp, đèn quả trám, đèn con thỏ, đèn kéo quân, đèn ông sao... trong khi
đâu đó từ hướng Hàng Trống đưa lại tiếng trống ầm ầm, xùng xoèng múa sư tử.

Dưới ánh đèn xe
chớp loạn, lẫn với tiếng người kêu gọi ồn ào là tiếng xe máy gầm rú, tiếng ô-tô
bóp còi tin tin liên hồi. Qua mặt Hồ Gươm lặng chìm bóng tối mà khoảng sáng độc
nhất sững lên ở cuối hồ là cái tháp rùa được thắp sáng màu trắng phớt xanh,
hàng hàng ánh đèn xe chớp lóe làm thành những vệt sáng dài ngoằng ngắt hiện
loáng thoáng qua hàng trăm thân cây sấu quanh hồ. Tôi thả người theo dòng xô đẩy
về phía Tràng Thi. Đi cùng dòng với tôi là một đám chục người ngoại quốc chắc
cũng vừa rời nhà Thủy Tạ, những anh chị ba-lô tây đầm cao to, họ bước đi nhìn
thẳng làm ngơ trước những bàn tay chìa ra của đám con nít bán postcards bu
quanh. Trên vỉa hè rộng lát gạch đỏ dòng người đi bộ đập vướng tránh né các
hàng quà bánh bầy la liệt; thoảng trong gió đưa từ mạn hồ có mùi mực nướng thơm
nồng, tiếng rao hàng mời mọc, những khoảng sáng của gian hàng quảng cáo chụp ảnh
lấy liền với ánh điện quang giả pháo bông chớp lóe. Dưới chân ánh sáng cột đèn
là từng đám ngồi chồm hỗm châu quanh bàn cờ tướng. Mấy anh công an trẻ măng mặc
áo xanh ve đang xua đi mấy chị hàng rong. Phía sát ven hồ, dưới tàng cây liễu rủ,
kín mít phủ lên bãi cỏ san sát những manh chiếu, những mảnh vải rộng, là đùm đề
gia đình hóng mát. Tất cả vào đêm Trung Thu, cả cái khối người đông như bể kiến
ấy, tôi tưởng như không có một ai buồn ngước mặt nhìn trăng; vả lại nếu có ngước
nhìn cũng khó thấy, trên đầu những cây sấu, cây lim, cây si, cây điệp, cây liễu,
cây bàng vấn vít giao nhau cành lá. Giọng ca Hồng Nhung đâu đây từ một cassette
theo gió hồ đưa lời nhạc Trịnh Công Sơn: Hà Nội mùa Thu cây cơm nguội
vàng... Cây bàng lá đỏ... Nằm kề bên nhau... Phố xưa nhà cổ... Mái ngói thâm
nâu...
Tôi đứng dừng lại trước đầu đường Hàng Trống. Phía bên kia đường
là một dẫy nhà hàng, khách sạn; tôi giương mắt nhìn không thấy đâu dấu tích rạp
chớp bóng Lửa Hồng nơi tôi đã xem những phim Tarzan thời thơ ấu. Ngay cái góc
xéo đường Hàng Trống đâm ra bờ hồ là một tòa lầu kiến trúc cổ quét vôi vàng, trụ
sở mang tên Trung tâm Nghiệp vụ Văn hóa Thông tin. Một lần ngồi uống cà phê nơi
cái quán cóc Highland’s Coffee giữa tàng cây sấu bên bờ hồ, ông bố vợ tôi, người
mà từ hơn tám mươi năm nay không hề rời khỏi làng Hoàng Mai Hà Nội, chỉ vào cái
trụ sở ấy nói: Con biết không xưa kia nó là trụ sở hội Khai trí Tiến đức đấy!

Một lát sau,
trên khoảng đất ven hồ người đứng đông quá, hai thiếu nữ thấy khó lòng tiến lên
được. Giữa lúc ấy có tiếng reo ầm ĩ từ phía Hội quán “Khai trí Tiến đức” đưa lại.
Rồi phố Hàng Trống rẽ sang một cái ô-tô kết bông trắng thành hình cái thuyền
trên có tám cô thủy binh... Trong làn không khí mờ bụi, ồn ào đầy tiếng cười và
tiếng vỗ tay, những hoa giấy, những vòng giấy ngũ sắc ném tung lên dầu, lên người
bọn lính thủy xinh xắn và như cố lôi giựt các cô xuống đất. Những chiếc ô-tô với
hàm răng trắng lướt qua, những sợi dây hồng, dây tím rơi đầy đường: (Xe trường
nào thế? Trường taxi girls! Đáp lại câu trả lời ngộ nghĩnh, tiếng cười phá
lên vang động (
Thoát li Khái Hưng).

Tôi bỗng lặng
đi. Những kí ức đóng băng từ một thời quá vãng chợt như rã ra hòa với thực tại
và cái cảnh trí tôi hiện thấy trước mắt bỗng lướt qua êm như một ảo giác, mơ
màng như không có thực. Tôi vừa rời đi từ một thành phố miền Tây Bắc nước Mỹ
nơi tôi đã sống gần nửa đời mình, nơi cả rừng xe trên xa lộ chạy êm êm không một
tiếng bóp còi. Dường như cái ồn ào hoảng loạn mà tôi không quen làm tôi nôn
nao. Hình như hai chai bia Hà Nội làm tôi ngầy ngật. Tôi quay nhìn phía Hồ Gươm
nơi tháp rùa sáng lên lung linh qua tàng cây liễu. Rồi tôi bỗng có cảm giác như
mình đang đứng ở điểm giữa của một cái đèn kéo quân khổng lồ, những vệt đèn làm
đường viền sáng quanh hồ như chênh lên và chiếc đèn kéo quân rập rình như muốn
quay đi...

***

Chiếc xe buýt của
hãng du lịch Café Sinh cuối cùng rồi cũng rời khách sạn Prince đường Lương Ngọc
Quyến chạy kềnh càng qua những con đường rất hẹp của khu phố cổ: Mã Mây, Hàng Bạc,
Hàng Bè, Cầu Gỗ. Từ trên tầm cao của xe những căn nhà cũ như thấp hẳn xuống.
Hai bên con phố trên vỉa hè hẹp cây bàng, cây dâu da xoan đâm chìa cành lá lạt
sạt chạm vào thành xe. Đến cuối phố Cầu Gỗ chiếc buýt làm một vòng qua bồn phun
nước, nơi năm con phố cổ chụm đầu đâm vào Hồ Gươm. Phía bên kia đường Đinh Tiên
Hoàng trông sang Đền Ngọc Sơn, thoáng qua hàng cây bờ hồ, một tòa nhà nhô cái
tháp cao phô hàng chữ Múa rối nước Thăng Long. Chiếc xe đi vào lườn
của Hồ Gươm, khung cảnh khu hồ quang đãng êm dịu của một buổi sáng vào thu,
khác hẳn khung cảnh đêm Trung Thu hôm trước Bọn tôi năm người. Ba anh chị tôi
và tôi được gọi là “Việt kiều.” Còn hai người kia là dân tại chỗ, một cô em họ
và một người bạn của anh tôi. Ngay từ đầu chuyến du ngoạn mà hầu hết là ngoại
kiều đã gặp chuyện lộn xộn phải khởi hành rất muộn. Chẳng phải do lỗi chúng tôi
mà xe đi trễ. Chung quy chỉ vì chú tài xế, anh hướng dẫn và cô thâu ngân của
hãng xe ham tiền. Nhưng những người ngoại quốc trên xe lại không biết thế: khi
năm chúng tôi bước lên xe tôi đọc ở ánh mắt họ cái nhìn tức tối và ác cảm.

Thời gian ở Hà Nội
của anh em chúng tôi eo hẹp nên hôm trước chúng tôi có hỏi dò mấy hãng du lịch
xem có tour nào đi chơi xa mà lại có thể đi về nội trong ngày. Trên
tấm phích quảng cáo chuyến đi Ninh Bình Tam Cốc xem ra hấp dẫn vì thắng cảnh được
tả một cách mĩ miều là một “Vịnh Hạ Long trên cánh đồng lúa.” Giá cho mỗi người
là mười bảy đôn. Nếu thêm năm đôn nữa thì lại được đi thăm Phát Diệm. Chị tôi
và tôi quyết bắt cái tua Ninh Bình Phát Diệm chỉ vì muốn nhìn lại cái nhà thờ
Phát Diệm mà hơn năm mươi năm trước chúng tôi tản cư về sống ở ngay bên cạnh.
Khi lấy vé thì được biết cái tua ấy bị hủy. Chú bán vé giải thích: “Chúng cháu
mở cái dịch vụ này chủ yếu là nhắm vào người nước ngoài, thế mà cái tỉnh Phát
Diệm thì chỉ có độc một cái nhà thờ là đáng xem, nhà thờ thì ở bên Tây thiếu giống
gì!” Sau cùng thấy chị tôi cứ muốn đi Phát Diệm bằng được, chú ta chỉ sang phía
bên kia đường: “Cô thử sang hỏi hãng bên kia. Họ đi nhiều chuyến, có thể có tua
đi Phát Diệm.” Sau khi mua được vé, anh tôi dặn dò:

“Ngày mai đón
chúng tôi ở khách sạn Prince, nếu xe không đi Phát Diệm thì chúng tôi sẽ không
đi đâu và lấy lại tiền vé.”

“Chú cứ yên trí
đi. Chúng em làm ăn đứng đắn!”

Hôm sau lúc chiếc
buýt màu trắng đỗ trước khách sạn thì trên xe đã đầy người. Chúng tôi hẳn phải
là khách rước sau cùng. Toàn khuôn mặt tây đầm nhô lên trong khung kính. Trước
khi lên xe, chị tôi cẩn thận hỏi lại là xe có đi Phát Diệm không. Chú tài xế
nói không. Anh tôi lúc đó đã bước hẳn trên xe vội quầy quả bước xuống, ngăn
chúng tôi lên xe và đòi trả lại tiền. Anh hướng dẫn tour chạy
vội lại, nhăn nhó:

“Cô chú cảm phiền.
Tối qua họ điện cho biết đường vào Phát Diệm bị mưa ngập lụt xe không đi được.
Mời cô chú cứ lên xe đi Ninh Bình. Cháu sẽ hoàn lại tiền sai biệt cho cô chú.”

“Hôm qua tôi đã
nói là nếu xe không đi Phát Diệm thì chúng tôi không đi. Anh trả lại tiền cho
chúng tôi và không nói lôi thôi gì nữa!”

Lằng nhằng một hồi
thì sau cùng cô thu ngân cũng phải mở cặp đếm đủ 110 đôn trả cho anh tôi. Mặt
cô ta ngẩn ngơ như thể chính cô ta vừa mất số tiền to tát ấy.

Trở lại khách sạn
chúng tôi lên gác vào buồng bàn tính với nhau về chương trình thay thế chuyến
du ngoạn hụt. Khoảng gần nửa giờ sau, khi tôi đinh ninh là chiếc buýt ấy đã rời
khỏi Hà Nội từ lâu, thì (hỡi trời!) chiếc xe ấy với tất cả đám khách trên xe vẫn
chưa nhúc nhích, vẫn còn đỗ ngay trước khách sạn! Có tiếng gõ cửa phòng và cái
đầu của cô thâu ngân thò vào. Cô ta cười cười: “Mời cô chú lên xe! Chúng cháu
đã thương lượng xong với khách trên xe và xe sẽ đi thêm Phát Diệm như là cô chú
muốn. Chúng cháu phải đi lỗ vì không bắt họ trả thêm tiền.” “Nhưng chúng tôi lại
đổi ý không đi nữa rồi...” - Anh tôi nói. - “Vả lại đường đi Phát Diệm ngập lụt
thế kia...” Cô thu ngân chắc vì không nghe câu nói láo của anh “tua gai” đương
ngẩn mặt ra thì anh tôi nói tiếp: “Thôi, chúng tôi đồng ý đi. Nhưng cô đừng có
lấy tiền đi Phát Diệm nhé! Chả lẽ cô cho họ đi miễn phí mà cô lại lấy tiền của
chúng tôi...”

Xe bắt đầu chuyển
bánh. Chúng tôi được xếp ngồi băng sau cùng. Thấy không khí trên xe căng thẳng
tôi ngoắc anh hướng dẫn, lúc đó đang vịn thành cửa kính và là người duy nhất
còn đứng trên xe: “Này chú, chuyện gì xẩy ra vậy? Xem ra chuyến đi chơi này tốn
tiền mà không thấy ai vui vẻ hết, chuyện gì vậy?” “Thật cháu không hiểu được mấy
con mẹ tây này! Ai đời cho đi chơi Phát Diệm không lấy tiền mà còn xưng xỉa. Lại
còn một cặp giận dỗi không đi đòi lại tiền nữa chứ. May mà còn có cô chú đi nếu
không chuyến này lỗ chổng gọng! Lại còn cái con bé này...” - Anh ta hất hàm về
phía cô tây ba-lô ngồi trước tôi hai hàng ghế. - “Bực mình đéo chịu được! Cháu
chỉ muốn táng cho một cái! Mình có bắt nó đi đâu, xuống xe thì không chịu xuống,
trả lại tiền thì không lấy, mặt cứ chầm hầm, cứ nói bua xùa cả lên là có cái hẹn
tối nay ở Hà Nội nếu đi thêm Phát Diệm thì sợ về không kịp. Cháu đã bảo đảm về
kịp mà...” Tôi ngắt lời anh ta: “Này chú, tôi ở nước ngoài lâu năm tôi hiểu họ.
Họ bực mình là phải. Lỗi ở các chú cả. Thứ nhất bắt họ ngồi chờ trong xe nửa tiếng
đã là chuyện đáng tức. Hai nữa họ đi du lịch qua đây thời giờ rất giới hạn, làm
cái gì cũng phải tính trước chương trình giờ giấc, các chú làm trật đường rầy của
họ hết trơn, tức là phải!” Anh ta lặng yên không nói gì, ngoảnh mặt nhìn ra phố.
Tôi nhìn theo và như một thói quen, tôi rướn người hướng về căn nhà xưa của
mình khi chiếc xe lướt qua phố Hàng Bè.

Lần đầu tiên
nhìn lại dãy phố đó, căn nhà đó, sao chúng nhỏ nhắn quá ngoài trí tưởng của
tôi. Có thể là dưới tầm mắt của một cậu bé con thì thế giới cái gì chẳng là vĩ
đại. Có thể là hơn phần tư thế kỉ sống ở nước ngoài cái tầm vóc lớn đã ăn sâu
vào cảm quan tôi. Thăm lại một thành phố cũ “trở về mái nhà xưa” nơi tôi đã rời
xa khi tôi mới tròn mười tuổi và chỉ trở về khi trên đầu mình đã hai mầu tóc,
Hà Nội hiện về trong ngày đầu với một kích thước được rút bé đi rất nhiều: người,
nhà, phố, hồ và dường như cả cái bầu trời Hà Nội nom cũng be bé xinh xinh.
Nhưng chính cái huyễn hoặc về một không gian thu hẹp lại ấy cộng thêm cái háo hức
đầy tính trẻ thơ muốn “đi tìm thời gian đã mất” của mình đã giúp tôi trong buổi
sáng đầu tiên ấy thả bộ đi miệt mài cùng khắp Hà Nội mà không biết đến thế nào
là mỏi mệt. Và tôi ngạc nhiên là cái Hồ Gươm trong trí tưởng của tôi năm mươi
năm trước nó rộng mênh mang ấy tôi đã rảo bước đi trọn một vòng trong có đúng
mười bảy phút!
Rõ ràng là số 15 đây rồi nhưng cái tiệm uốn
tóc Thu Hương mang con số đó hoàn toàn không một chút gợi nhớ cái cửa hàng bán
cau khô của mẹ tôi. Chỉ khi tôi ngước nhìn lên cao những cửa sổ chấn song sắt
han rỉ ở căn gác và cái mảng tường quét vôi loang lổ hoang tàn vẫn còn nguyên
xưa tôi mới thực tin rằng tôi đã tìm được căn nhà cũ của mình. Come back to
Sorrento! Tiếng hát của anh Triệu tôi, theo điệu nhạc của bài
Home,
Sweet Home vang lên ở Sài Gòn, ở Đà Lạt: “Nhà tôi bên Hàng Bè âm u...
Chiều chiều gió lay... Và đông người qua...” Cất cao giọng, anh tôi hát điệp
khúc sau: “Rồi từ đó bước chân vô Nam... Lòng nhớ thương... Mười lăm Hàng
Bè...”

Cái vỉa hè ở trước
nhà, tôi không tin được con mắt mình, nó hẹp một cách lạ thường, rộng chỉ vừa
đúng một chiếc xe máy đặt ngang, thế nhưng đó là cả một thế giới của chúng tôi
thời thơ ấu: chơi bi, đá cầu, đánh khăng, nhẩy dây, lò cò, ô quan... Thằng bé
thơ thẩn chơi bi một mình ở đó. Lần đầu tiên thằng bé ý thức một cách mơ hồ nó
có một người cha khác thường khi ông thợ húi tóc ở vỉa hè cạnh đó ngừng tay hất
mặt về phía nó, bảo khách: “Con ông Tam đấy!”
Phía
bên kia con phố hẹp mà cây dâu da xoan trồng hai bên hè giao nhau những chùm
hoa ngà trắng, căn nhà trước đây hai tầng bây giờ thành ba mang số 16 xưa kia
là của thầy Bùi Hữu Đột, nay biến thành Sinh Café-Open Tour. Nhìn lên cái cửa sổ
ở lầu hai tôi mỉm cười nhớ lại cái tinh nghịch của mình. Mỗi lần thầy dậy học đứng
trước bảng đen ở căn lầu ấy mặt hướng ra phố thì thằng bé ở căn gác bên này
dùng gương hứng ánh nắng hè chiếu tia phản xạ đúng vào mắt thầy! Thằng bé chín
tuổi ấy cũng đủ quỷ quái để mỗi lần thầy bị lóa mắt thì vội vàng ngồi thụp xuống
ngay. Nó học cái trò
ném đá giấu tay nhanh như cắt!
(Sau này vào Nam thầy Đột có mở
cualuyện thi trung học phổ
phông môn Lí Hóa ở đường Công Lý và tôi là học trò của thầy. Một hôm sau khi thầy
giảng bài toán quang học về
sự phản chiếu ánh sáng ở gương phẳng tôi
thú tội với thầy tôi là thằng bé đã nghịch chiếu vào mắt thầy khi còn ở Hà Nội.
Tôi nhớ thầy có thốt lên
À ra đó là mày! và thầy
còn
khen tôi là có khiếu về khoa học, biết áp dụng
nguyên tắc Vật lí từ lúc còn rất bé).

Hai bên vệ đường
loáng thoáng rải rác những căn nhà bé thấp mái ngói xưa cũ, những cây bàng cành
lá tiều tụy, những chiếc lá xơ xác bám phủ bụi đường mất đi cái màu lá xanh
bóng bẩy của những cây bàng trong thành phố, những hàng quán vắng trần trụi
trên xe nhìn thống qua nhà những chiếc bàn ghế gỗ xiêu vẹo, trước quán những bảng
chữ quen thuộc tôi thấy cùng khắp miền ngoại ô Hà Nội. Thịt chó. Cơm phở.
Bia hơi.
Chiếc buýt xuôi nam theo quốc lộ một, vượt qua một cái mốc thấp
màu trắng ven đường. Phủ Lý 62 cây số. Sau những căn nhà thấp,
những hàng tre bờ ao đã thấy xuất hiện và ở xa nữa cánh đồng lúa đã bắt đầu mở
ra.

Báo cáo nội dung xấu