Nhất Linh, cha tôi - Phần I - Chương 04
Một chiếc taxi ở
xa vụt tới. Cô gái đứng bên cạnh tôi giơ cao ô, bước ra khỏi hiên, tay ngoắc rối
rít, nhưng chiếc xe trên có người. Tôi lắng nghe tiếng mưa rào rào. Để ý tiếng
mưa đang reo to bỗng như hụt giọng, âm thanh trầm hẳn xuống kéo dài dật dờ từng
đợt nhỏ dần về phía cuối đường. Ở đó, như vỡ ra, tiếng mưa lại ào ào ran lên từng
chập. Tôi ngẩn ngơ nghe tiếng mưa trôi dạt rồi bỗng nhiên tôi bị hút trong những
hình ảnh, những mẩu đối thoại hỗn độn, đồng thời cảm giác lo âu bàng hoàng lại
trở về, rối loạn, mãnh liệt. “Người ta sẽ giữ tôi lại.” Cha tôi bấm vào vai chú
Kiểm, ra hiệu cho tài xế quay về nhà, lúc chiếc taxi đã gần tới tiểu đội hiến
binh. Hình ảnh ban trưa cha tôi và anh Triệu rì rầm nói chuyện. Gương mặt của
ông lúc gắt với chị Thoa tối qua:
“Sắp chết rồi mà
còn thế à?”
“Từ biệt anh chị!”
“Chết! Sao hôm
nay anh nói gì lạ thế!”
“Ngày mai
tôi ra tòa. Họ xử tôi không biết bao nhiêu năm, biết còn sống đến ngày về
không?”
Thái độ bỏ về hốt
hoảng của anh Triệu đang lúc mưa rơi nặng hạt. “Không!
Không ai xử được tôi đâu!” Ánh mắt kì dị của
cha tôi nhìn tôi hồi nãy: “Đi có mười lăm phút
thôi à?”
Tôi không dám
nghĩ tiếp. Tim tôi như đứng lại. Một cái gì ghê gớm đang chờ tôi ở nhà. Tôi quay
sang bên. Người con gái có mái tóc dài đã bỏ đi từ hồi nào. Mưa vẫn chưa dứt.
Nhưng tôi vẫn băng ngang đường, mở khóa xe.
Lúc tôi nhẩy hai
bước một lên cầu thang nhìn vào phòng thì mọi chuyện đã xong xuôi cả rồi. Căn
phòng đóng kín cửa tối mờ mờ. Một bầu không khí yên lặng trang nghiêm. Mùi
hương đâu đây phảng phất. Cuối phòng, vẫn trên cái ghế xích đu buổi sáng ông ngồi
nói chuyện với tôi, cha tôi ngồi gục đầu hơi ngoẹo về phía vai phải, một cánh
tay buông lỏng thả xuống sàn nhà. Dáng điệu ấy thoạt trông thì khổ sở nhưng
nhìn lên gương mặt thì tuyệt nhiên không một nét đau đớn. Ông như người ngủ gục.
Gương mặt êm ả, bình thản. Để ý lắm mới thấy một ít nước bọt nhỉ ra ở khóe mép.
Anh Triệu từ lúc nẫy vẫn ngồi cúi đầu im lặng tưởng như không có mặt anh trong
phòng, ngẩng lên, tôi thấy mắt anh đỏ hoe, anh nói thật nhỏ, thật buồn, nhưng
câu nói không còn làm cho tôi ngạc nhiên nữa: “Cậu đã bỏ chúng ta thực rồi!” Mẹ
tôi đang thắp hương lâm râm khấn trước bàn thờ, quay lại nhìn tôi, mắt bà cũng
đỏ nhưng không khóc, cái nhìn của bà dại đi như không còn nhận ra tôi là ai nữa.
Bà phác vài cử chỉ thừa thãi rồi như người miên du bà bỏ đi xuống nhà. Đèn cầu
thang vẫn bật sáng từ trước nhưng theo một thói quen vô ý thức bà giơ tay bật
đèn thành thử cầu thang lại bị tối om.
Trong suốt thời
gian trú mưa dưới mái hiên nhà hàng Arc-en-Ciel, bàng hoàng và lo sợ đã xâm chiếm
lấy tôi. Xúc cảm của tôi như bị giãn ra tê liệt. Tới nỗi bỗng giáp mặt cảnh tượng
này tôi thấy giản dị quá. Tôi nghĩ: “Xong rồi!” và tự nhiên thấy tâm hồn trở
nên bình tĩnh. Tôi hỏi anh Triệu: “Anh gọi bác sĩ chưa?”
“Chú Kiểm đi gọi
bác Phiếm từ mười lăm phút rồi!”
Tôi hỏi tiếp:
“Chú Kiểm đến hồi nào vậy? Mà sao lại đến đúng lúc vậy nhỉ?” Không có tiếng trả
lời câu hỏi của tôi.
Cha tôi vẫn ngồi
đó, không ai đụng tới. Trên một bàn nhỏ trước mặt ông chai rượu đã vơi gần nửa.
Quyển Wuthering Heights của Bronte còn mở
trước mặt. Thời khắc trôi qua rất chậm. “Phải làm một cái gì chứ?” Tôi nghĩ.
Nhưng không biết sao tôi vẫn ngồi bất động ở trên đi-văng. Căn phòng tự nhiên tối
tăm và yên lặng quá. Tiếng quạt trần quay chậm rì rầm rì rầm. Căn nhà sát bên vọng
sang một tiếng quát mắng: “Cho mày chết!” Rồi có tiếng guốc hấp tấp xuống cầu
thang giận dữ. Im một lát. Tiếng một thằng bé òa lên khóc. Tiếng khóc kéo dài
mãi không ngớt tôi nghe mà gần muốn hụt hơi. Tôi nghĩ thầm trong trí: “Thằng bé
nào khóc dai vậy nhỉ?” Rồi tôi lắng tai chờ đợi xem người chị vừa bỏ xuống nhà
khi nãy có trở lên dỗ nó không. Khung cảnh ấy rất thường xẩy ra từ bao năm nay
không bao giờ làm tôi để ý, bỗng dưng lúc này lại vô lí ám ảnh tôi quá đáng.
Mẹ tôi bắt đầu sụt sùi. Tiếng anh Triệu gắt nhưng vẫn cố đè
giọng thật nhỏ: “Mợ khóc làm gì? Có ích gì đâu?” Anh đến sát bên nhấc cánh tay cha
tôi lên bắt mạch. Lát sau anh nói: “Mạch yếu lắm! Khiêng cậu lên giường mau!” Chúng tôi choàng một cái khăn dầy
lên người ông và phải khó khăn lắm mới mang nổi cha tôi lên giường. Thân thể
ông mềm ra. Anh Triệu rút trong túi cha tôi một tờ giấy giơ tôi xem rồi nói: “Di ngôn của cậu đấy. Giấu thật kĩ. Đừng để tụi mật vụ nó cướp lấy!”
Có tiếng nói lao
xao ở dưới nhà. Tôi thở ra khi nhận được giọng nói quen thuộc của bác Phiếm và
của chú Kiểm. Bác Phiếm tay xách cặp da y sĩ bước vội lên lầu. Tiếng nói của
bác rất lớn, tôi có cảm tưởng rõ rệt ông vừa mang sự sống cho căn phòng này:
“Rõ khổ! Mới sáng nay anh Tam còn lại nhà tôi mà! Khổ quá!” Bác bước nhanh lại
giường mở chăn áp sát tai vào ngực cha tôi nghe ngóng. Ông hấp tấp mở cặp da,
cưa ống thuốc, chích cho cha tôi một mũi thuốc vào gân máu. Mẹ tôi lo lắng hỏi:
“Thế nào?” Bác thu mũi kim về tra vào cặp lắc đầu trả lời: “Phải chở gấp anh
vào Grall. Để lâu thuốc độc ngấm vào máu không chữa được đâu.”
***
Cha tôi kể như
đã mất lúc mang đến bệnh viện. Nhưng điều này ngay lúc ấy không ai dám nghĩ tới.
Câu nói của bác sĩ Gourillon không làm chúng tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Bác sĩ
Phiếm khẩn khoản: “Faites quand même quelque chose pour lui.” Chú Kiểm
cũng tiến tới, xúc động còn in rõ trên nét mặt, giọng chú lạc hẳn, tới nỗi tôi
tưởng đâu chú đang xúc phạm viên bác sĩ Pháp: “Fais
l’impossible!” Người ta chở cha tôi lên lầu. Trong một căn phòng
nhỏ gắn máy lạnh, y tá bơm dưỡng khí vào phổi cha tôi. Ngực ông thở nhấp nhô đều
đều. Mãi sau này khi nghe bác sĩ Phiếm nói là bác sĩ Gourillon đã tính cho chở
thi thể cha tôi vào phòng xác ngay sau cuộc khám xét sơ khởi ấy, tôi mới chịu
tin rằng cha tôi đã bỏ đi từ buổi chiều ngày hôm ấy, ngày 7/7/1963, có
lẽ vào lúc mà tôi ngước nhìn lên những hàng cây của khu công viên bệnh viện đứng
rũ mình dưới bầu trời màu xám chì thảm đạm. Và tất cả những gì người ta đã làm
theo sự khẩn nài của chúng tôi kể từ sau đó cho đến nửa đêm với tất cả những
phương tiện tối tân của bệnh viện là chỉ cốt gây cho cha tôi được một sự sống giả
tạo, để kéo dài niềm hi vọng cho những người còn lại, cho những giọt nước mắt
khoan chảy trên gò má chúng tôi.
Khoảng 7 giờ
hơn. Một màn tím thẫm phủ lên khu nhà thương. Cuối con đường lát sỏi của khu vườn
hoa một cột đèn sắt gục đầu phả ánh néon lạnh lẽo. Giờ thăm bệnh đã hết từ lâu.
Người gác cổng khom lưng đẩy hai cánh cổng sắt nặng nề. Chúng tôi vì trường hợp
đặc biệt được phép suốt đêm ở lại bệnh viện. Trên một chiếc ghế dài ở hành lang
anh Triệu và tôi từ lúc nãy không ai nói một câu. Anh để hai tay lên đùi, nhìn
xuống sàn. Lát sau, vẫn không ngửng lên, anh nói: “Liệu có qua được không?” Tôi
nói: “Hi vọng lắm. Cậu mới uống chưa được một tiếng thì mình đã mang vào nhà thương
rồi.” Ở đầu kia một bác sĩ Pháp đẩy cửa phòng cha tôi bước ra, ánh đèn hắt ra
ngoài một khoảng sáng trên nền hành lang dài và tối. Hai người thì thầm nói
chuyện rất lâu. “Lúc anh bỏ về thì cậu đã uống chưa?” “Rồi!
Trong lúc tụi mình đi khỏi. Nhưng ông còn tỉnh lắm. Vừa thấy tao là ông hỏi
ngay: Đi gì nhanh thế! Tao giơ chai Walker lên bảo ông: Rượu đây, cậu uống cho
say rồi quên cái ý định tự tử tối nay đi, người ta chẳng đáng để cậu bận tâm
đâu. Ông không nói gì cả, rót rượu vào cốc, uống một hơi cạn. Uống xong ông lại
rót một li nữa, rồi cũng uống một hơi cạn. Kể thì cũng hơi lạ. Nhưng thấy ông
suốt buổi chiều nay vui quá, tao cũng không để ý...” Tôi giơ tay ngắt lời: “Sao
anh biết tối nay cậu tự tử?” “Chính ông nói mà, vào buổi trưa lúc mày còn ngủ.
Ông tin việc mình làm là phải nên không giấu. Ông bảo đêm nay 10 giờ cứ để ông
ngủ như thường. Sáng mai đánh thức dậy là xong rồi, tha hồ để cho người ta xử.
Ý ông đã quyết như thế, ông bảo nếu không xong tối nay, thì vào khám cũng chết.
Tao có kế hoạch đối phó cả rồi nếu... tối nay ông mới tự tử.” Anh Triệu dừng lại,
di một ngón tay trên đùi, lát sau anh hạ giọng: “Nhưng không ngờ ông lại làm sớm
thế...” Tôi bất thần quay hẳn sang phía anh tôi, hỏi: “Còn tờ di ngôn cậu viết
hồi nào vậy?” “Có lẽ hồi sáng, tao cũng chả biết, ông uống hết cốc thứ ba thì
thò tay vào túi rút ra cái tờ giấy ấy đưa cho tao xem. Đến lúc ấy tao mới tin
là ông tính làm thật. Tao định chốc nữa ông ngủ sẽ lục túi ông lấy thuốc độc giấu
đi. Ông dặn tao là tờ di ngôn này đưa cho ông Sung, bác sĩ Đặng Văn Sung, nhờ
ông ấy chuyển ra ngoại quốc. Còn liệu có thể đưa cho kí giả Mỹ, Pháp được thì
khỏi cần. Lúc ấy như sực nhớ ra điều gì, ông đi lại bàn viết. Tao thấy ông có vẻ
mệt, ông ngồi trên ghế, tay run run viết bản thứ hai giống hệt bản thứ nhất. Bản
này chữ xấu lắm, nét nguệch ngoạc như những dấu phẩy. Sau đó nhìn kĩ mới thấy
hai bản khác nhau một chữ. Bản thứ nhất: Tôi không chịu để ai xử cả. Bản thứ
nhì thì: Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Viết xong ông nói: Tí
nữa thì quên, phải viết hai bản thế này nhỡ nó tóm được một thì còn bản kia chứ.
Ông giơ tay che miệng ngáp một cái dài rồi nói: Gớm! Buổi trưa mải nói chuyện
không ngủ bây giờ mệt quá. Ông nhìn qua cửa sổ, nhìn bầu trời ướt sũng nước mưa
rồi nói rất nhỏ và nhẹ như hơi gió: Trời hôm nay đẹp quá... Tao quay lại thì
ông đã ngủ rồi. Đó là câu nói cuối cùng của ông. Tao cứ để ông ngủ yên, bỏ xuống
dưới nhà. Lát sau trở lên thì thấy ông nằm trên ghế có vẻ khác lạ, dáng điệu khổ
sở quá. Tao nhìn chai rượu vơi gần nửa mới sực nhớ đến cử chỉ của ông hồi nẫy.
Khi ông uống đến cốc thứ ba, ông như tọng rượu vào người chứ không có vẻ gì là
ngon lành cả. Hình như có cái gì chặn tay ông lại khiến ông phải cố gắng lắm mới
nâng nổi cốc lên miệng. Lấy làm lạ tao thử lay lay ông dậy thì thấy người ông mềm
hẳn ra. Tao tái người vội vàng chạy xuống nhà gọi mợ lên. Tao nghĩ ngay đến việc
gọi bác sĩ nhưng vừa mặc quần áo xong thì chú Kiểm cũng vừa đến nơi.” Anh Triệu
ngừng lại, nắm chặt tay đập lên đùi: “Tao không nghĩ là ông lại tự tử trước mặt
mình, tao cứ nghĩ là phải đợi ban đêm. Từ lúc đi đến lúc về có đầy mười lăm
phút đâu?”