Nhất Linh, cha tôi - Phần I - Chương 01
Phần 1
Vài dòng tâm
sự (thay lời tựa)
Cầm bản thảo Nhất
Linh, cha tôi trong tay, tôi biết viết gì đây, ngoài lòng ngậm ngùi vô
hạn...
Gần như cả một
thế kỉ trước ẩn hiện trước mắt, với bao nhiêu hình tượng xa xưa, từ lúc nhỏ còn
ở nóc nhà tranh trên con đường đất sau nhà ga Cẩm Giàng im vắng trên đường xe lửa
Hà Nội - Hải Dương; cho đến lớn lên đi học rồi bước vào cuộc sống muôn vàn của
xã hội.
Cuộc đời thật là
khó lường. Lúc chào đời có ai rõ vận mệnh của mình sẽ ra sao? Trong mắt tôi,
anh Tam là một người dong dỏng cao, đôi mắt sáng, hiền hậu, học giỏi, có đời sống
gia đình bình thường. Việc vào trường Mỹ thuật Hà Nội cũng không có gì làm thay
đổi nếp sống của anh. Có lẽ quan trọng nhất là việc anh sang Pháp học, không phải
vì anh đã đỗ bằng cử nhân khoa học (lúc đó hiếm có) mà vì anh hấp thụ được làn
không khí tự do và những quan niệm mới về dân chủ; đồng thời cũng nhận thức
thêm về văn học Pháp.
Anh là một trong
những thanh niên nhạy cảm nhất đối với trào lưu tiến bộ của nhân loại; không những
thế, anh lại là người mang những ý nguyện vào thực hành, trong cả hai lãnh vực
văn hóa và chính trị. Ít thấy ai đạt tới những thành tựu xuất chúng về toàn diện
như vậy trong lịch sử cận đại.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác
nhỏ cho người yêu sách.]
Ai cũng biết anh
là một cây bút có biệt tài nhưng ngoài ra anh là người chính trong việc gây ra
một trào lưu văn học mới ảnh hưởng sâu rộng tới xã hội Việt Nam thời ấy. Anh
còn lôi cuốn được nhiều văn nghệ sĩ có tài như Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo,
Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân... để lập ra Tự
Lực Văn Đoàn. Đó là một thời kì phồn thịnh nhất của nền văn nghệ Việt Nam và có
lẽ thời kì phẩm chất rất cao với những tác phẩm còn lưu truyền đến tận bây giờ.
Về sau, vì hoàn cảnh, vì chiến tranh, vì chia rẽ nên khó có điều kiện để nẩy
sinh ra một thời kì giống như vậy nữa.
Ngày nay lại
càng khó khăn hơn nữa, với thời thế đặc biệt. Cả ở trong lẫn ngoài, đều chưa thấy
mở đầu một trào lưu văn nghệ nào xuất sắc lắm, tuy rằng nhiều văn nghệ sĩ đã rất
cố gắng. Nhìn vào thực tế, trong các nước cộng sản độc tài, vì tư tưởng, ngôn
luận bị bóp nghẹt, nên ít thấy những tác phẩm văn nghệ hay đáng kể, trừ một số
ít tác phẩm có khuynh hướng đi ngược lại với trào lưu bị áp đặt. Con người Việt
Nam hiện đương bị nhiều vấn đề làm cho đầu óc rối ren, khó lòng bình tĩnh lại để
suy nghĩ và để viết cho trọn vẹn, trừ phi có đủ khả năng để một mặt quan sát và
phân tích sự việc đa diện, một mặt để điều giải bằng những câu viết chọn lọc có
trình độ cao.
Tuy vậy, nghĩ
khác một chút, ta lại thấy rằng chính trong thời kì rối ren như thế này, mới có
thể xẩy ra những sự kiện và nhân vật đặc biệt - và trong đó có cả những tác giả
có tâm hồn và tài năng đặc biệt, có thể tạo nên những tác phẩm không bình thường.
Nhất Linh đúng
là một nhân vật, một tác giả đặc biệt trong một thời kì rối ren và đặc biệt của
lịch sử nước nhà. Nhưng cũng đúng như câu thơ của Nguyễn Du nói:
Ngàn năm bạc mệnh,
một đời tài hoa...
Ôi! Cũng là vận
mệnh cả. Nhưng không lẽ đời ai cũng đều là số phận định đoạt? Có những sự kiện
khó mà giải thích. Trong gia đình chúng tôi hồi đó, toàn là không may mắn cả.
Anh Hai, Nguyễn
Tường Cẩm, đã mất dưới viên đạn tàn bạo của chế độ, chỉ vì là anh em với chúng
tôi.
Anh Tư, Hoàng Đạo
Nguyễn Tường Long, đột nhiên mất vì bạo bệnh trên một chuyến xe lửa từ Hồng
Kông tới Quảng Châu, trong cuộc sống lưu vong, chỉ mới bốn mươi hai tuổi.
Anh Sáu, Thạch
Lam Nguyễn Tường Lân, mất vì bệnh phổi chỉ thọ ba mươi hai tuổi.
Chúng tôi đã chịu
đựng nhiều gian truân, tang tóc, lưu vong. Riêng cá nhân tôi, kì lạ là vẫn còn
sống tới nay và lưu vong tại đất Hoa Kỳ xa lạ này, xa rời tổ quốc và quê hương
đã năm mươi chín năm.
Ngày nay, đọc Nhất
Linh, cha tôi, lại hồi tưởng đến những ngày tháng xa xưa, những ngày tháng
đã trôi qua một cách vô tình. Tuy vậy, những kí ức về người anh thân mến và tài
hoa của tôi, lúc nào cũng còn sống mãi trong tâm khảm của tôi, người em út.
Nếu các bạn có đọc
cuốn Nhất Linh, cha tôi này của Nguyễn Tường Thiết và để một
chút lòng tưởng nhớ đến tác giả cuốn Đoạn tuyệt thì chúng tôi
sẽ xin rất cảm ơn, mãi mãi không quên.
Với tất cả
thương tiếc và ngậm ngùi vô hạn.
Tháng sáu, năm
2005, Nguyễn Tường Bách.
***
Mãi đến năm mười
tuổi tôi mới được thấy rõ khuôn mặt bố tôi. Đó là khoảng cuối năm 1950 khi ông
từ Hương Cảng trở về Hà Nội. Trong thập niên 1940 cha tôi rất bận rộn với những
hoạt động chính trị, ông sống bôn ba nhiều năm bên Trung Hoa. Thời gian này ông
chỉ ghé về thăm mẹ con tôi trong những dịp đặc biệt ngắn ngủi, không đủ cho tôi
kịp nhận diện khuôn mặt người bố. Bởi thế ngày mẹ con tôi đón tiếp ông trở về với
gia đình, tôi đã đứng ngây người nhìn ông như nhìn một người khách lạ.
Người khách ấy -
Nhất Linh - mặc bộ ka-ki bốn túi, dáng dong dỏng quắc thước, khuôn mặt phong
sương, có cặp mắt sâu, đôi mày rậm, vầng trán cao, nụ cười cởi mở dưới hàng râu
mép và cái nhìn đặc biệt, nhìn thẳng và sâu vào đôi mắt người đối diện nhưng
lúc nào cũng nhiễm một vẻ mơ màng, xa vời.
Đêm hôm đầu tiên
đoàn tụ, chúng tôi không ngủ, tất cả thức gần suốt sáng để trò chuyện với ông.
Trong căn nhà số 15 Hàng Bè Hà Nội nơi mẹ tôi mở tiệm bán cau khô, vào một đêm
mùa đông, bố mẹ con chúng tôi chen chúc nằm trên một chiếc giường tây lớn. Tôi
còn nhớ rõ bố tôi nói với chúng tôi ngày hôm sau báo chí sẽ đến gặp ông và ông
sẽ tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đời làm chính trị để trở về với đời viết văn.
Riêng tôi, nằm
sát cạnh người bố xa lạ, tôi vẫn không nói với ông một lời từ lúc ông trở về
nhà. Rõ ràng là tôi đã giận dỗi và phản đối cái cách tiếp đón mà mọi người đã
dành cho ông, bằng cách giả vờ ngủ say và không tham dự. Nhất Linh thì tinh lắm,
ông đoán biết ngay có cái gì không ổn trong thái độ của thằng con út. Trong lúc
vẫn nói chuyện với mẹ và các anh chị tôi, chốc chốc ông lại thò tay dưới chăn
véo mạnh vào đùi tôi để thăm dò thằng con còn thức hay đã ngủ, nhưng tôi chịu
đau, lờ đi. Mãi về sau, đau quá, chịu không thấu, tôi phải la lên, tiếng kêu có
vẻ tỉnh táo lắm, khiến ông tung chăn ngồi dậy, nói to: “À thằng này giỏi chịu
đau từ lúc nãy đến giờ, nó chỉ vờ ngủ!” Cả nhà ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy
ra giữa hai bố con. Thế là sau mười năm xa cách, ông đã tìm cách “đàm thoại” với
tôi trong chăn và qua cách ấy hai bố con tôi đã nghĩ về nhau một cách lặng lẽ.
Mẹ tôi thường
nói bố tôi tuổi con ngựa nên suốt đời hay đi, không mấy khi ở gần với gia đình.
Bà cũng thường nói khi lấy cha tôi, ông đã cam kết ngay từ đầu rằng mỗi người
có một bổn phận, ông có bổn phận đối với xã hội, còn bà có bổn phận đối với gia
đình. Tôi ít thấy một cặp vợ chồng nào mà sự cam kết ban đầu lại được cả đôi
bên tôn trọng lâu dài hơn thế. Thực ra, chẳng phải vì ông hoạt động cách mạng
nên hoàn cảnh bó buộc ông phải sống xa gia đình. Ngay sau này khi sống một cuộc
đời bình thường, ông cũng không mấy khi ở gần mẹ con chúng tôi. Bản chất và lối
sống của bố mẹ tôi hoàn toàn khác biệt, khó có thể dung hợp. Tính ông tuyệt đối
ưa chuộng sự giản dị, chân thật, sự mơ mộng, yên tĩnh và sạch sẽ. Còn mẹ tôi,
suốt đời buôn bán nghề cau để lấy tiền nuôi lũ chúng tôi, nên phải sống trong
điều kiện ngược hẳn lại: bà buộc phải thực tế, màu mè, khách sáo, sống nơi chợ
búa ồn ào, bừa bãi, luộm thuộm. Lũ chúng tôi phần lớn sống gần với mẹ, nhưng
đôi khi cũng được gửi đi sống bên cạnh bố. Sự dàn xếp trong lối sống của bố mẹ
tôi thực là tuyệt diệu vì chính nó đã giữ được hòa khí trong gia đình. Không
bao giờ chúng tôi nghe thấy bố mẹ tôi to tiếng với nhau. Trái lại chính vì thời
gian sống chung bên nhau hiếm hoi nên cả hai đã tạo cho nhau những ngày sống
chung trở thành một chuỗi “những ngày diễm ảo.” Mẹ tôi kể lại là trong thời
gian trước khi tôi sinh ra cứ mỗi lần Nhất Linh viết xong và xuất bản được một
cuốn truyện mới thì dù mẹ tôi có bận rộn buôn bán đến mấy đi nữa ông cũng buộc
mẹ tôi bỏ hết để cùng sống với ông riêng biệt một thời gian bên bãi biển Sầm
Sơn. Ông còn tập cho mẹ tôi hút thuốc lá, uống rượu, thưởng thức thú pha và uống
trà tàu buổi sáng, để rồi sau bà cũng nghiện không thua gì ông. Sau này trong
những ngày ở Đà Lạt lạnh lẽo, những buổi sớm mai khi chúng tôi còn nằm vùi
trong chăn, thì bố mẹ tôi đã rù rì tâm sự với nhau bên tách trà nóng, rất là
tương đắc. Sở dĩ bố mẹ tôi có thể sống xa nhau thường xuyên mà không phiền hà
vì cả hai đều có một điểm giống nhau, đó là sự say mê làm việc. Nếu Nhất Linh đam
mê viết sách, làm báo và những hoạt động xã hội, thì mẹ tôi cũng mê say trong
việc làm ăn buôn bán không kém, có khi lại còn hơn cả ông. Lũ chúng tôi không hề
cảm thấy buồn phiền vì thiếu sự chăm sóc thường xuyên của cả bố lẫn mẹ, trái lại
còn thấy sung sướng vì cảm thấy mình được tự do.
Sau khi ở Trung
Hoa về nước và sống với mẹ con tôi ít ngày, Nhất Linh thu xếp mấy thứ hành
trang giản dị dọn qua ở nhà bác Nguyễn Tường Thụy tôi, số 2 đường Lý Thường Kiệt,
trong một khu phố tây yên tĩnh, đối diện với Viện đại học Hà Nội. Ông ở đó ít
tháng để hoàn thành bức vẽ truyền thần chân dung bà nội tôi. Đó là một bức họa
lớn bằng bút chì, nét vẽ đơn sơ sắc sảo. Nhất Linh đã ghi lại hình ảnh sống động
bà mẹ của ông trong bộ áo nâu tu hành đang ngồi chắp tay tụng niệm.
Đầu tháng 4 năm
1951, Nhất Linh và toàn gia đình bác Thụy tôi dọn vào Nam. Cha tôi chọn người
chị cả tôi và người con út là tôi đi theo ông vào Sài Gòn, trong khi mẹ tôi vẫn
tiếp tục buôn bán ở Hà Nội với các anh chị tôi cho đến ngày di cư. Ba bố con
tôi ở chung với gia đình bác Thụy trong một căn nhà do chính phủ cấp cho công
chức Sở Bưu điện, số 12P đường Hồng Thập Tự. Căn nhà tuy rộng, có nhiều phòng,
nhưng vì gia đình bác tôi đông con nên cũng thành chật. Cha tôi chỉ xin một
phòng nhỏ và xấu xí nhất trong một xó bếp để ở, vì chỗ đó yên tĩnh và biệt lập.
Thế rồi chỉ trong vòng tuần lễ, với khiếu thẩm mĩ và sự bầy biện ngăn nắp, ông
đã trang trí căn phòng tồi tàn thành một chỗ ở xinh xắn và ấm cúng nhất.
Trong mấy năm ở
nhà bác tôi, Nhất Linh chú tâm vào việc xuất bản và tìm tòi những cây viết mới.
Ông mở nhà xuất bản Phượng Giang - ghép tên Phượng Vũ và Cẩm Giàng là quê quán
và sinh quán của mẹ và cha tôi - ngoài việc in lại những sách truyện của Tự Lực
Văn Đoàn, ông còn xuất bản truyện của những cây viết trẻ. Chúng tôi, các con
bác cả và tôi, lăng xăng khuân từng chồng sách mỏng, loại Sách Hồng dành cho
thiếu nhi và thay phiên nhau đóng dấu bông hoa hồng lên trên bìa sách. Người
con trai cả bác Thụy tôi, nhà văn Tường Hùng, lúc đó đang học về kiến trúc, đã
vẽ dấu hiệu con Phượng Hoàng tiêu biểu cho nhà xuất bản Phượng Giang. Thời gian
này họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng thường lui tới. Ông đã giúp cha tôi trình bầy mẫu
bìa các cuốn tiểu thuyết qua nghệ thuật cắt và dán giấy màu của ông. Bức họa
chân dung Nhất Linh bằng sơn dầu được nhiều người biết tới, nhất là sau khi Nhất
Linh qua đời và bức tranh được trưng trong những dịp tưởng niệm ông, là do họa
sĩ vẽ trong thời gian này. Bức vẽ thực ra còn dang dở vì trước khi vẽ xong, ông
Trí đã bị bắt đi an trí ở Thủ Dầu Một một thời gian. Khi ông trở về, định vẽ tiếp
thì cha tôi không cho. Thành thử bức chân dung chỉ có khuôn mặt là đầy đủ, còn
bàn tay cầm gói thuốc lá thì mới chỉ là mấy nét phác. Sau này cha tôi nói đùa là
ông thích để nguyên như vậy vì chính cuộc đời ông cũng là một tác phẩm chưa
hoàn tất. Trong những lúc giúp Nhất Linh những công việc lặt vặt của nhà xuất bản,
chúng tôi có dịp đọc tiểu thuyết và lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của
nhóm Tự Lực Văn Đoàn và của các nhà văn mới khác. Tôi còn nhớ đã đọc ngay từ
khi sách đang in còn thơm mùi mực mới cuốn truyện đầu tayNhững đêm mưa của
Linh Bảo và cuốn Gió mát của Tường Hùng. Có một cuốn tiểu thuyết
mà Nhất Linh cấm không cho chúng tôi đọc là quyển Bướm trắng, ông
nói là chúng tôi chưa đủ lớn để hiểu được cuốn truyện này.
Thời gian ở nhà
bác Thụy chúng tôi cũng được biết cha tôi mắc bệnh bao tử. Ông không thể nào ăn
cơm ta một thời gian lâu mà không cảm thấy óc ách khó chịu. Ông bèn đổi cách ăn
bằng cách đặt mua cơm tháng ở hiệu cơm tây La Cigale đường Đinh Tiên Hoàng và
chị người làm cứ ngày hai lần xách cà mên đi lấy đồ ăn về. Bữa ăn chỉ có hai bố
con. Nhất Linh và tôi. Ông ăn nhanh và không nói năng. Lúc đầu tôi còn khoái ăn
cơm tây vì lạ miệng, nhưng ăn mãi cũng đâm chán. Hơn nữa ăn một mình với ông
thì buồn vì không được đùa nghịch. Tôi bèn thương lượng với các anh họ tôi đánh
đổi để được ăn cơm ta chung với gia đình bác tôi. Các anh họ tôi thì đông lắm,
mà ai cũng thích ăn cơm tây, nên cứ trước mỗi bữa ăn là xảy ra cuộc tranh giành
rút thăm inh ỏi để chọn người đại diện vào ăn chung với “chú Tam.”
Chú Tam thường
thì rất cởi mở vui tính với lũ trẻ nên ai cũng thích ông. Khi vui ông thường trực
tiếp tham dự vào những trò chơi của chúng tôi, hoặc giả ông đặt những giải thưởng
hậu hĩnh cho ai thắng những cuộc tranh đua. Nhưng cũng có nhiều lúc ông xa lánh
tất cả rút vào căn phòng sào huyệt của ông để tìm sự yên tĩnh. Hình ảnh quen
thuộc mà chúng tôi thường thấy khi vào phòng ông là thấy ông đang ngồi viết lách
trên một chiếc ghế vải, với cặp kính trễ trên sống mũi, bên cạnh ông, trên một
chiếc bàn thấp là một li bia ông uống nhấm nháp, một gói thuốc Bastos xanh, một
cái tẩu thuốc, một cuốn sổ tay chi chít những ghi chú và con số.
Nhất Linh thường
viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy,
qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lòm còm bò dậy
vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần
không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau. Một người anh họ lớn tuổi
hơn, ra dáng hiểu biết, giải thích: “Chú Tam khóc vì chú nhớ chú Long đấy!” Sau
này tôi biết ông đã khóc âm thầm nhiều đêm vào những dịp khác. Không ai có thể
đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự
khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là
một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kì lạ và kinh hãi cũng được
tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm.
Có buổi sáng thức dậy ông đã hỏi người chị họ tôi có dạo chơi piano bản nhạc
nào đó không, vì ông hoang mang không biết chính ông đã nghe chị tôi thực sự dạo
bản nhạc đó hay tất cả chỉ do ông tưởng tượng ra trong giấc mơ của ông.

