Trăng lạnh - Phần I - Chương 19

CHƯƠNG
19

Chiếc xe mới của bọn gã là một chiếc Buick LeSabre.

“Anh kiếm nó ở đâu?”, Vincent hỏi Duncan trong khi
trèo vào ghế bên cạnh người lái. Chiếc xe đỗ mà vẫn nổ máy bên lề đường phía
trước ngôi nhà thờ bọn gã trú ngụ.

“Ở khu Lower East Side.” Duncan liếc nhìn Vincent.

“Không ai trông thấy anh chứ?”

“Có chủ xe. Thoáng trông thấy. Nhưng hắn sẽ chẳng
nói được gì đâu.” Duncan vỗ vỗ túi áo khoác, nơi bỏ khẩu súng lúc. Duncan hất đầu
về phía góc phố mà trước đó gã đã đâm chết anh sinh viên. “Có cảnh sát xung
quanh đây không?”

“Không. Tôi muốn nói tôi không trông thấy đứa nào cả.”

“Tốt. Bọn vệ sinh môi trường chắc đã nhấc cái thùng
Dumpster ấy đi và cái xác đã nửa đường ra biển trên một chiếc xà lan rồi.”

Hãy rạch mắt chúng…

“Đã có chuyện gì ở ga ra?”, Vincent hỏi.

Duncan hơi nhăn mặt. “Tao không thể đến gần chiếc
Explorer được. Không có nhiều cảnh sát lắm đâu, nhưng có một thằng cha vô gia
cư. Nó cứ gây ra tiếng động và rồi tao nghe thấy tiếng hét, cảnh sát bắt đầu chạy
vào. Tao phải chuồn.”

Bọn gã rời khỏi lễ đường. Vincent không biết bọn gã
đi đâu. Chiếc Buick này đã cũ và đầy mùi khói thuốc. Gã không biết gọi nó như
thế nào. Nó màu lam thẫm, tuy nhiên “Màu-Lam-di-động” thì chẳng buồn cười gì. Vincent
Láu lúc này đang không có tâm trạng cho sự dí dỏm lắm. Sau vài phút im lặng, gã
hỏi: “Món ăn ưa thích của anh là gì?”

“Của tao…?”

“Món ăn. Anh thích ăn gì?”

Duncan hơi nheo mắt. Gã rất hay nheo mắt, nghiêm túc
cân nhắc câu hỏi và rồi nêu câu trả lời đã trù tính. Nhưng câu hỏi này làm gã
lung túng. Gã bật cười yếu ớt. “Mày biết đấy, tao không ăn mấy mà.”

“Nhưng anh hẳn phải thích món gì đó chứ.”

“Tao chưa bao giờ nghĩ về điều ấy. Tại sao mày hỏi vậy?”

“Ồ, chỉ là, tôi đang nghĩ tôi có thể nấu bữa tối cho
anh và tôi một lúc nào đấy. Tôi có thể nấu nhiều món khác nhau. Mì, anh biết đấy,
mì sợi ấy mà. Anh có thích mì sợi không? Tôi nấu nó với thịt viên. Tôi có thể
làm nước xốt kem. Người ta gọi là Alfredo. Hoặc với cà chua.”

Gã kia nói: “Ờ, tao nghĩ là cà chua. Tao sẽ gọi thứ
đó nếu ở nhà hàng.”

“Thế thì tôi sẽ nấu cho anh ăn. Có lẽ khi em gái tôi
đến thành phố, tôi sẽ tổ chức một bữa tiệc tối. Chà, không phải một bữa tiệc. Chỉ
ba chúng ta thôi.”

“Việc ấy…” Duncan lắc đầu. Gã có vẻ cảm động. “Chưa
ai nấu bữa tối cho tao kể từ… Ờ, lâu rồi chưa ai nấu bữa tối cho tao.”

“Tháng sau, có lẽ thế.”

“Tháng sau được đấy. Em gái mày thích gì?”

“Nó kém tôi mấy tuổi. Làm việc tại một ngân hàng. Cũng
gầy nhẳng. Tôi không muốn nói rằng anh gầy nhẳng đâu. Chỉ là, anh biết đấy,
thân hình cân đối ấy mà.”

“Cô ta đã lấy chồng, có con?”

“Ồ, chưa. Nó thực sự bận rộn với công việc. Nó làm
việc tốt lắm.”

Duncan gật đầu. “Tháng sau. Chắc chắn, tao sẽ quay lại
thành phố. Chúng ta có thể ăn tối. Tao chẳng giúp đỡ được mày. Vì tao chẳng bao
giờ nấu nướng.”

“Ồ, tôi sẽ nấu. Tôi thích nấu mà. Tôi hay xem kênh Ẩm
thực.”

“Nhưng tao có thể mang ít đồ tráng miệng đến. Đồ gì
đó chế biến sẵn. Tao biết mày thích ăn ngọt.”

“Thế thì tuyệt vời”, Vincent phấn chấn nói. Gã nhìn
xung quanh những con phố tối, lạnh lẽo. “Chúng ta đi đâu đây?”

Duncan im lặng một lát. Gã thận trọng cho xe chầm chậm
tiến đến một chốt đèn đỏ, hai bánh trước chạm dung vạch dừng sơn màu trắng, bẩn
thỉu. Gã nói: “Hãy nghe tao kể một câu chuyện.”

Vincent chăm chú nhìn bạn gã.

“Năm 1714, Quốc hội Anh tuyên bố sẽ thưởng hai vạn bảng
cho người nào chế tạo được một chiếc đồng hồ xách tay chạy chính xác đủ để sử dụng
khi đi trên biển.”

“Thời ấy như thế là rất nhiều tiền, phải không?”

“Một khoản khổng lồ. Họ cần đồng hồ cho những con
tàu của họ vì mỗi năm hàng nghìn thủy thủ bị thiệt mạng do các sai sót hàng hải.
Mày thấy đấy, để đánh dấu một tuyến đường người ta phải có cả kinh tuyến lẫn vĩ
tuyến. Người ta có thể xác định vĩ tuyến dựa vào thiên văn học. Nhưng để xác định
kinh tuyến thì phải có thời gian chính xác. Một thợ đồng hồ người Anh tên là
John Harrison quyết định giành giải thưởng. Ông ta bắt đầu thực hiện dự án ấy
năm 1735 và cuối cùng chế tạo được một chiếc đồng hồ nhỏ mà người ta có thể sử
dụng trên một con tàu và suốt hành trình vượt Đại Tây Dương chỉ thiếu mất vài
giây. Ông ta hoàn thành công việc khi nào? Năm 1761.”

“Ông ta mất nhiều thời gian thế cơ à?”

“Ông ta đã phải đương đầu với các quan điểm chính trị,
những sự cạnh tranh, những nhà kinh doanh và những nghị sĩ Quốc hội chẳng thèm
quan hoài gì, và tất nhiên, những khó khăn về cơ khí, hầu như là bất khả kháng,
trong quá trình chế tạo ra chiếc đồng hồ. Nhưng ông ta chưa bao giờ dừng lại. Hai
mươi sáu năm.”

Đèn chuyển sang xanh và Duncan từ từ tang tốc. “Để
trả lời câu hỏi của mày, chúng ta sẽ đi xem xét đứa con gái tiếp theo trong
danh sách. Chúng ta đã gặp một trở lực. Nhưng chẳng gì khiến chúng ta dừng lại
được. Nó chẳng nhằm nhò gì…”

“Trong toàn bộ tiến trình đã định.”

Một nụ cười ngắn ngủi thoảng hiện trên gương mặt kẻ
sát nhân.

“Trước hết, người ta có lắp camera an ninh trong ga
ra không?”, Rhyme hỏi.

Tiếng cười của Sellitto muốn nói “anh đang nằm mơ”.

Ông ta, Pulaski và Baker quay lại ngôi nhà của
Rhyme, đang xem xét những thứ chàng cảnh sát trẻ đã thu thập được trong ga ra. Gã
vô gia cư tấn công Pulaski là người Bellevue. Gã không có liên quan gì tới vụ
án và được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng, thiếu thuốc
điều trị.

“Chẳng dung lúc, chẳng đúng chỗ”, Pulaski lúc nãy lẩm
bẩm.

“Cậu hay hắn?”, Rhyme đáp. Và bây giờ thì anh đang hỏi:
“Thế có camera an ninh ở khu vực giam giữ xe nơi hắn cuỗm chiếc SUV
không?”

Lại một tiếng cười.

Một hơi thở dài. “Hãy xem Ron tìm thấy những gì nào.
Đầu tiên, là chỗ đạn hả?”

Cooper mang chiếc hộp đến cho Rhyme và mở nó ra.

Đạn ACP[54] cỡ ba mươi hai thuộc loại ít phổ biến. Loại đạn súng lục bán tự động này
có tầm bắn lớn hơn cỡ hai mươi hai nhưng sức sát thương không lớn lắm, giống
như cỡ ba mươi lăm (chín li). Súng sử dụng đạn cỡ ba mươi hai vốn vẫn được gọi
là súng dành cho nữ. Thị trường tiêu thụ có phần hạn chế, nhưng cũng khá lớn. Việc
tìm thấy một khẩu súng sử dụng đạn cỡ ba mươi hai tương hợp ở một đối tượng có
thể là chứng cứ gián tiếp kết luận rằng hắn là Thợ Đồng Hồ, tuy nhiên Cooper
không thể cứ gọi tới các cửa hiệu bán súng trong khu vực là lấy nổi một danh
sách ngắn những ai mới mua loại đạn này.

Bởi chiếc hộp thiếu mất bảy viên đạn và loại súng lục
Autauga Mk II có ổ đạn chứa được bảy viên, nó là phỏng đoán sát nhất của Rhyme
về thứ vũ khí Thợ Đồng Hồ sử dụng, nhưng những khẩu Beretta, Tomcat, Người Bảo
vệ Bắc Mỹ và LWS-32 cũng lắp được loại đạn ấy. Sát thủ có thể đang mang bất cứ
một khẩu nào trong số các khẩu này. (Nếu hắn mang vũ khí. Đạn, theo Rhyme, chỉ đưa
ra giả thuyết
chứ không đảm bảo rằng đối tượng mang theo hay sở hữu một khẩu
súng.)

Rhyme lưu ý là viên đạn có trọng lượng bảy mốt grain[55], đủ lớn để gây thương tích nghiêm trọng nếu được bắn ở tầm gần.

[54] ACP (viết tắt của Automatic Colt Pistol): Súng Colt tự động.

[55] 1 grain = 0,065 g.

“Bảng nào, cậu tân binh”, Rhyme ra lệnh. Pulaski viết
theo lời đọc của Rhyme.

Cuốn sách anh tìm thấy trong chiếc Explorer có tựa đề
Những kĩ thuật thẩm vấn cao nhất do một công ti nhỏ ở Utah xuất bản. Loại
giấy, chất lượng in và kiểu in – chưa kể văn phong – thuộc loại rẻ tiền.

Được viết bởi một tác giả giấu tên khẳng định rằng
mình từng là lính trong lực lượng Đặc biệt, cuốn sách mô tả những kĩ thuật thẩm
vấn mà cuối cùng sẽ khiến đối tượng phải chết nếu không chịu thú nhận – dìm nước,
bóp nghẹt, làm ngạt, để cho cóng lại dưới nước lạnh, và các cách khác. Có một
kĩ thuật liên quan đến việc treo vật nặng lơ lửng bên trên họng đối tượng. Một
kĩ thuật nữa là cứa đứt cổ tay đối tượng, mặc máu chảy cho tới lúc đối tượng
thú nhận.

“Lạy Chúa”, Dennis Baker nhăn mặt nói. “Đó là kế hoạch
hành động của hắn… Hắn sẽ giếtmườinạn nhân như thế? Bệnh hoạn.”

“Dấu vết?”, Rhyme hỏi, quan tâm đến yếu tố giám định
của chính cuốn sách hơn khía cạnh tâm lí của người đã mua nó.

Cầm cuốn sách bên trên một tờ giấy sạch, rộng, loại
dung để in báo, Cooper mở và phủi bụi từng trang, nhưng không có dấu vết nào
rơi xuống cả.

Cũng không có dấu vân tay, tất nhiên là thế.

Cooper tìm hiểu được rằng cuốn sách không được bán
thông qua các website lớn hay hệ thống các cửa hiệu sách bán lẻ – những nơi này
từ chối một cuốn sách như thế. Nhưng nó luôn luôn sẵn sàng được tiêu thụ thông
qua các công ti đấu giá trên mạng, hàng loạt tổ chức cánh hữu và bán quân sự,
những nơi bán mọi thứ người ta cần để tự bảo vệ mình khỏi tai họa đến từ các cộng
đồng thiểu số, ngoại kiều và chính phủ Mỹ. (Những năm gần đây, Rhyme đã tham khảo
hàng loạt các vụ điều tra về khủng bố. Nhiều vụ liên quan tới al-Qaeda và các
nhóm Hồi giáo cực đoan khác. Nhưng cũng chẳng nhiều hơn số vụ liên quan tới khủng
bố trong nước – một mối đe dọa mà bản than anh cảm thấy đang hầu như bị giới chức
trách ở quốc gia này lờ đi.)

Cú gọi điện đến nhà xuất bản không nhận được sự hợp
tác, chuyện không khiến Rhyme ngạc nhiên. Họ bảo rằng họ không bán cuốn sách ấy
trực tiếp cho độc giả và nếu Rhyme muốn biết các cửa hiệu bán lẻ nào đã mua cuốn
sách với số lượng lớn thì phải có lệnh của tòa án. Mất hàng tuần mới có lệnh của
tòa án được.

Dennis Baker quát vào máy điện thoại. “Ông có hiểu rằng
một kẻ nào đó đang sử dụng cuốn sách này như thứ cẩm nang về tra tấn và giết
người hay không?”

“Chà, ông biết đấy, nó là để phục vụ mục đích ấy mà.”
Giám đốc công ti gác máy.

“Chết tiệt.”

Tiếp tục xem xét các tang chứng, họ thấy rằng chỗ mạt
đá, lá cây và than cháy dở mà Pulaski lấy ra từ lưới tản nhiệt, các rãnh khía
trên lốp xe và gương bên thành xe không có gì đặc biệt. Dấu vết ở bang ghế sau
của chiếc SUV chính là thứ cát phù hợp với thứ cát đối tượng đã sử dụng để xóa
dấu vết tại con hẻm trên phố Cedar.

Những mẩu vụn thức ăn bao gồm ngô chiên, khoai tây
chiên, bích quy xoắn và kẹo sôcôla. Ngoài ra còn có những mảnh bích quy bơ lạc,
cũng như các vệt soda – loại có đường, không phải loại dành cho người ăn kiêng.
Tất nhiên, đám mẩu vụn này chẳng dẫn họ tới trước một đối tượng được, nhưng nó
có thể là tấm ván nữa của cây cầu nối chiếc Explorer với một đối tượng, trong
trường hợp họ tìm thấy đối tượng này.

Những sợi vải bông ngắn – màu da người – theo gợi ý
của Pulaski thì tương tự những sợi vải bông sổ ra từ loại gang tay lao động
thông thường được bán ở hàng nghìn cửa hiệu tạp hóa, cửa hiệu dược phẩm và dụng
cụ làm vườn. Rõ rang bọn chúng đã cẩn thận lau chùi sạch sẽ chiếc Explorer sau
khi đánh cắp nó và đeo gang tay mỗi khi vào xe.

Đây là một sự nhắc nhở về trí thông minh chết người
của Thợ Đồng Hồ.

Món tóc lấy được từ cái tựa đầu dài gần hai mươi ba
centimét, màu đen hơi ngả sang xám. Tóc là chứng cứ tốt vì nó luôn luôn rụng hoặc
bị giựt ra trong lúc vật lộn. Tuy nhiên thông thường nó chỉ cung cấp các đặc điểm
phân loại, tức là một sợi tóc tìm thấy tại hiện trường sẽ cung cấp mối quan hệ
gián tiếp với một đối tượng mang mẫu tóc tương tự, dựa trên màu tóc, chất tóc,
độ dài, có thuốc nhuộm hay các hóa chất khác không. Chứ thông thường tóc không
thể được sử dụng để xác định chính xác một cá nhân, tức là nó không thể cung cấp
mối quan hệ trực tiếp với một đối tượng trừ phi có kèm chân tóc, cho phép xét
nghiệm AND. Sợi tóc Pulaski tìm thấy lại không kèm chân tóc.

Rhyme biết rằng món tóc này dài quá, không phù hợp với
Thợ Đồng Hồ – bức ảnh chắp ghép, dựng theo mô tả của Hallerstein, thể hiện hắn
với mái tóc cắt ngắn bình thường. Nó có thể rơi ra từ một bộ tóc giả – Thợ Đồng
Hồ lúc đó có thể đang cải trang – nhưng Cooper không phát hiện được chất keo
dính nào ở đầu tóc. Tên trợ thủ đội mũ lưỡi trai và món tóc có thể của hắn. Mặc
dù vậy, Rhyme đi tới kết luận rằng món tóc hắn của một người khác – một người
ngồi trong chiếc SUV trước khi bị Thợ Đồng Hồ đánh cắp. Một món tóc dài gần hai
mươi ba centimét, tất nhiên, có thể của đàn ông mà cũng có thể của phụ nữ,
nhưng Rhyme cảm thấy đây là tóc của một phụ nữ. Màu xám gợi giả thuyết về độ tuổi
trung niên và hai mươi ba centimét là độ dài ít gặp đối với tóc một người đàn
ông ở độ tuổi đó – dài chấm vai hoặc ngắn hơn nữa thì hay gặp hơn. “Thợ Đồng Hồ
hay trợ thủ của hắn có thể có bạn gái hay một kẻ đồng lõa khác, dù sao điều này
cũng không nhiều khả năng… Chà, cứ cho nó lên bảng đi đã.”, Rhyme yêu cầu.

“Bởi vì…”, Pulaski nói, như thể đang đọc lại một ý
anh đã từng nghe, “… đơn giản là biết đâu đấy, phải không ạ?”

Rhyme nhướn một bên long mày. Rồi anh hỏi: “Giày?”

Dấu chân duy nhất Pulaski tìm thấy thể hiện loại
giày đế phẳng, cỡ mười ba. Người đi nó vừa giẫm qua một vũng nước, người này để
lại năm, sáu vết giày hướng về phía cửa thoát, sau đó thì các vết giày mờ dần
đi. Pulaski khá chắc chắn nó là của Thợ Đồng Hồ hoặc kẻ đồng lõa, vì nó được đi
theo hướng hợp lí nhất từ chỗ chiếc Explorer về phía cửa thoát gần nhất. Anh
cũng lưu ý rằng các vết giày cách nhau tương đối xa và chỉ có mấy vết in cả gót.
“Tức là hắn đang chạy”, Pulaski nói. “Điều ấy không có trong cuốn sách sếp viết.
Nhưng có thể suy luận được.”

Khó mà không thích được cậu bé này, Rhyme tự nhủ.

Nhưng những dấu vết đó chỉ có chút ít hữu ích. Chẳng
làm sao xác định nổi nhãn hiệu giày vì da giày không có các rãnh khía đặc biệt.
Kiểu mòn đế giày cũng không có gì bất bình thường, để thể hiện dị tật chân tay
hay đặc điểm chỉnh hình nào.

“Ít nhất chúng ta đã biết được là hắn có bàn chân
to”, Pulaski nói.

Rhyme làu bàu: “Tôi không nhớ có cái luật cấm người
chân cỡ tám đi giày cỡ mười ba đấy.”

Chàng cảnh sát trẻ gật đầu. “Ối cha.”

Có sống mới biết, Rhyme nghĩ trong bụng. Anh nhìn lại
một lượt các tang chứng. “Thế thôi à?”

Pulaski gật đầu. “Tôi đã làm hết sức có thể.”

Rhyme lầm bầm: “Cậu đã làm tốt đấy.”

Lời nhận xét có lẽ là không được nhiệt tình lắm. Rhyme
tự hỏi liệu kết quả sẽ khác chăng nếu Sachs khám nghiệm hiện trường. Anh không
thể nào không nghĩ rằng kết quả sẽ khác.

Nhà hình sự học quay sang Sellitto. “Hồ sơ Luponte
thì sao?”

“Chưa có gì. Nếu anh biết thêm thong tin thì sẽ dễ
dàng tìm kiếm hơn.”

“Nếu tôi biết thêm thông tin, tôi đã có thể tự tìm.”

Chàng cảnh sát trẻ đang đăm đăm nhìn những tấm bảng
ghi chứng cứ. “Tất cả những cái này… và chung quy là chúng ta hầu như chẳng biết
gì về hắn cả.”

Không hoàn toàn dung, Rhyme nghĩ thầm. Chúng ta biết
rằng hắn là một đối tượng khôn khéo khiếp đi được.

THỢ
ĐỒNG HỒ

HIỆN
TRƯỜNG MỘT

Địa điểm:

- Cầu tàu công ti sửa chữa tàu kéo trên sông Hudson,
phố Hai mươi hai.

Nạn nhân:

- Chưa xác định được danh tính.

- Nam giới.

- Trung niên hoặc già hơn, có thể đang có vấn đề về
mạch vành (có dấu hiệu của chất chống đông trong máu).

- Không sử dụng các thứ thuốc khác, không bị nhiễm
trùng hay bệnh trong máu.

- Lực lượng Tuần tra Bờ biển phối hợp với thợ lặn
đang tìm kiếm xác và chứng cứ tại cảng New York.

- Đang kiểm tra các báo cáo về người mất tích.

Đối tượng:

- Xem phần sau.

Phương thức hành động:

- Đối tượng buộc nạn nhân bám vào cầu tàu, treo người
lơ lửng bên trên mặt nước. Cứa ngón tay và cổ tay nạn nhân cho tới lúc nạn nhân
rơi.

- Thời gian tấn công: trong khoảng từ 6:00 tối thứ
Hai đến 6:00 sáng thứ Ba.

Chứng cứ:

- Nhóm máu AB dương tính.

- Một móng tay bị tước ra, không sơn, to bè.

- Một mảnh hàng rào mắt cáo bị cắt bằng dụng cụ cắt
dây kẽm thông thường, không thể truy nguyên.

- Đồng hồ. Xem phần sau

- Bài thơ. Xem phần sau.

- Vết móng tay trên cầu tàu.

- Không có dấu vết nào rõ ràng, không có dấu vân
tay, không dấu chân, không vết ta lông bánh xe.

HIỆN
TRƯỜNG HAI

Địa điểm:

- Con hẻm ở phố Cedar, gần Broadway, phía sau ba tòa
nhà thương mại (các cửa hậu đóng trong khoảng từ 8:30 đến 10:00 tối) và một tòa
nhà của chính quyền bang (cửa hậu đóng lúc 6:00 tối).

- Là con hẻm cụt. Rộng bốn phẩy sáu mét, dài ba mươi
hai phẩy bẩy mét, rải sỏi, cái xác cách mặt phố Cedar bốn phẩy sáu mét.

Nạn nhân:

- Theodore Adams.

- Sống ở đường Công viên Battery.

- Làm nghề viết lời quảng cáo tự do.

- Không được biết là có kẻ thù.

- Chưa từng nhận lệnh bắt giữ, cả cấp bang lẫn cấp
liên bang.

- Đang kiểm tra xem có mối liên hệ nào trong các tòa
nhà xung quanh con hẻm không. Không phát hiện được gì.

Đối tượng:

- Thợ Đồng Hồ.

- Nam giới

- Không có cơ sở dữ liệu nào về Thợ Đồng Hồ.

Phương thức hành động:

- Nạn nhân bị kéo lê từ xe ra con hẻm, nơi thanh sắt
treo lơ lửng bên trên anh ta. Cuối cùng đã bị vỡ họng.

- Đang chờ đợi báo cáo khẳng định của nhân viên khám
nghiệm y tế.

- Không có chứng cứ về hành vi tình dục.

- Thời gian chết: khoảng từ 10:15 đến 11:00 đêm thứ
Hai. Nhân
viên y tế xác nhận.

Chứng
cứ:

- Đồng
hồ.

+
Không chứa chất nổ, tác nhân sinh học hay hóa học.

+ Giống
hệt chiếc đồng hồ trên cầu tàu.

+
Không có dấu vân tay, rất ít dấu vết.

+ Sản phẩm của hãng Arnold, Framingham,
Massachusetts. Đang gọi điện tìm hiểu về nhà phân phối và cửa hiệu bán lẻ.

- Bài thơ do đối tượng để lại ở cả hai hiện trường.

+ In ra từ máy vi tính, trên loại giấy thông thường,
mực HP Laserjet.

+ Lời bài thơ:

Vầng Trăng Lạnh tròn vành vạnh trên bầu trời,

chiếu ánh sáng lên thi thể này dưới mặt đất,

cho biết thời điểm cái chết đến,

và kết thúc cuộc hành trình từ khi chào đời.

Thợ
Đồng Hồ

+ Không xuất hiện trong bất cứ cơ sở dữ liệu nào về
thơ, có lẽ do chính hắn sáng tác.

+ Trăng Lạnh là tháng âm lịch, tháng của sự chết
chóc.

- Sáu mươi đô la trong túi áo khoác, số sê-ri không
đem lại manh mối gì. Dấu vân tay không nhận diện được.

- Cát mịn được sử dụng như một “tác nhân xóa dấu vết”.
Loại cát thong thường. Vì hắn sẽ quay lại hiện trường?

- Thanh kim loại, nặng ba mươi bẩy kí-lô, có lỗ giống
như lỗ kim. Không được sử dụng tại công trường xây dựng bên kia phố. Không tìm
thấy ở chỗ nào khác.

- Băng dính nhựa, loại thông thường, nhưng được cắt
một cách chính xác, đáng chú ý. Từng đoạn dài đúng bằng nhau.

- Thallium sulfate (thuốc diệt chuột) tìm thấy trong
cát.

- Đất chứa protein cá tìm thấy trong túi áo khoác nạn
nhân.

- Quá ít dấu vết được tìm thấy.

- Sợi vải màu nâu, có thể là từ thảm trải ô tô.

Các chi tiết khác:

- Phương tiện di chuyển:

+ Có thể là xe Ford Explorer, đã chạy khoảng ba năm.
Thảm màu nâu.

+ Tìm hiểu qua số đuôi biển đăng kí các xe đỗ trong
khu vực vào sáng thứ Ba không phát hiện ra chiếc xe nào từng nhận lệnh khám xét.
Không vé phạt nào được phát ra đêm hôm thứ Hai.

- Đang đề nghị Vice kiểm tra sổ gái mại dâm, mục
đích: tìm kiếm nhân chứng.

+ Không manh mối nào.

PHỎNG
VẤN HALLERSTEIN

Đối tượng:

- Theo ảnh chắp ghép sử dụng Công nghệ nhận diện
khuôn mặt điện tử – trên dưới 50 tuổi, khuôn mặt tròn, cằm đôi, mũi dày, mắt
màu xanh lơ nhạt một cách đặc biệt. Cao khoảng 1m85, rắn chắc, tóc đen, cắt ngắn
bình thường, không mang đồ trang sức, quần áo màu sẫm. Chưa xác định được tên.

- Biết rất nhiều về đồng hồ nói chung và về những
chiếc đồng hồ được bán tại các phiên đấu giá gần đây cũng như những triển lãm
thiết bị đo thời gian đang diễn ra trong thành phố.

- Đe dọa để người bán hàng phải giữ im lặng.

- Mua mười chiếc đồng hồ. Cho mười nạn nhân?

- Trả bằng tiền mặt.

- Muốn những chiếc đồng hồ có hình trăng, kêu tích tắc
to.

Chứng cứ:

- Nguồn cung cấp đồng hồ là cửa hiệu đồng hồ
Hallerstein, quận Flatiron.

- Không dấu vân tay trên những tờ tiền trả cho cửa
hiệu, số sê–ri không bị đánh dấu. Không một dấu vết gì trên những tờ tiền này.

- Gọi điện từ máy công cộng.

HIỆN
TRƯỜNG BA

Địa điểm:

- 481 phố Spring.

Nạn nhân:

- Joanne Harper.

- Không xác định được động cơ.

- Không biết nạn nhân thứ hai, Adams.

Đối tượng:

- Thợ Đồng Hồ.

- Trợ thủ.

+ Có thể là gã đàn ông trước đó đã bị nạn nhân nhìn
thấy, tại xưởng hoa của cô ta.

+ Da trắng, dáng nặng nề, đeo kính râm, áo khoác liền
mũ trùm màu kem và mũ lưỡi trai. Lái một chiếc SUV.

Phương thức hành động:

- Tự mở khóa để vào bên trong.

- Chưa bộc lộ biện pháp tấn công dự định. Có thể sẽ
sử dụng dây kẽm cắm hoa.

Chứng cứ:

- Protein cá từ chỗ Joanne (phân bón cho phong lan).

- Thallium sulfate ở địa điểm gần đó.

- Dây kẽm cắm hoa, được cắt thành từng đoạn dài đúng
bằng nhau (Để sử dụng làm vũ khí giết người?).

- Đồng hồ.

+ Giống những chiếc kia. Không chứa nitrate.

+ Không dấu vết gì.

- Không bài thơ và lời ghi chú.

- Không để lại dấu vân tay, dấu chân, vũ khí, hay bất
cứ thứ gì khác.

- Những mảnh màu đen – hắc ín quét mái nhà.

+ Đang kiểm tra hình ảnh các khu vực tỏa nhiệt ở New
York được chụp từ vũ trụ để xác định xuất xứ những mảnh hắc ín.

Các chi tiết khác:

- Đối tượng đến kiểm tra nạn nhân trước khi tấn công.
Nhằm vào cô ta vì một mục đích nào đấy. Là mục đích gì?

- Có thiết bị dò sóng bộ đàm của cảnh sát. Sẽ phải
thay đổi tần số sử dụng.

- Phương tiện vận chuyển.

+ Màu nâu vàng.

+ Không nắm được số đăng kí.

+ Đang thông báo Lệnh phát hiện phương tiện giao
thông khẩn cấp.

+ Có bốn trăm hai mươi ba chủ sở hữu xe Explorer màu
nâu vàng trong khu vực. Tham khảo thêm các lệnh khám xét hình sự. Phát hiện ra
hai trường hợp. Một quá già, một đang trong tù vì tội danh ma túy.

+ Chủ sở hữu trước đây là người đang trong tù.

CHIẾC
EXPLORER CỦA THỢ ĐỒNG HỒ

Địa điểm

- Được tìm thấy trong ga ra, khu vực song Hudson và
phố Houston.

Chứng cứ:

- Là chiếc Explorer từng thuộc về người đàn ông đang
trong tù. Đã bị tịch thu và bị đánh cắp từ bãi giam giữ xe cho bán đấu giá.

- Đỗ lộ liễu. Không gần cửa thoát.

- Các mẩu vụn ngô chiên, khoai tây chiên, bích quy
xoắn, kẹo sôcôla. Những mẩu bích quy bơ lạc. Vết ố do soda, loại bình thường,
không phải loại dành cho người ăn kiêng.

- Hộp đạn Remington cỡ ba mươi hai của súng lục tự động,
thiếu bảy viên. Có thể là súng Autauga Mk II.

- Cuốn sách – Những kĩ thuật thẩm vấn cao nhất.
Cẩm nang cho các phương thức giết người của hắn? Không có thông tin hữu ích từ
nhà xuất bản.

- Món tóc màu muối tiêu có thể là tóc phụ nữ.

- Hoàn toàn không có dấu vân tay, cả bên trong lẫn
bên ngoài xe.

- Những sợi vải bông màu be sổ ra từ găng tay.

- Cát, phù hợp với thứ cát được sử dụng ở con hẻm.

- Dấu giày đế phẳng cỡ mười ba.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3