Trăng lạnh - Phần I - Chương 15

CHƯƠNG
15

Ngôi nhà gỗ một tầng ở Long Island, khu vực thuộc
Queens ngay phía bên kia Manhattan và đảo Roosevelt trên sông Đông.

Những thứ trang trí cho lễ Giáng sinh – nhiều vô kể
– được sắp đặt một cách hoàn hảo trong sân, vỉa hè được dọn chẳng còn tí băng
nào, chiếc Camry đỗ trên con đường dẫn vào nhà sạch bóng, mặc dù tuyết vừa rơi.
Những khung cửa sổ đang được cạo đi để quét nước sơn mới, và một đống gạch xếp
đó để lát lại lối đi hay hàng hiên.

Đây là ngôi nhà của một người đàn ông vừa có được thời
gian tự do cho riêng mình.

Amelia Sachs bấm chuông.

Cửa trước mở ra sau vài giây và một người đàn ông
dáng chắc nịch gần sáu mươi tuổi nheo mắt nhìn cô. Ông ta mặc bộ đồ tập chạy bằng
nhung len màu xanh lá cây.

“Thám tử Snyder phải không ạ?” Sachs thận trọng sử dụng
chức danh trước đây của ông ta. Phép lịch sự bao giờ cũng đưa con đi xa hơn là
một khẩu súng, cha cô từng bảo vậy.

“Phải, xin mời vào. Cô là Amelia, hả?”

Trong khi cô dùng họ thì ông ta dùng tên. Người ta
luôn luôn lựa chọn trận chiến mà người ta muốn. Cô mỉm cười, bắt tay ông ta và
theo ông ta vào nhà. Ánh đèn đường nhợt nhạt chảy tràn vào và phòng khách hơi lạnh
lẽo, thiếu thân thiện. Sachs ngửi thấy mùi khói ẩm ướt từ lò sưởi, cũng như mùi
mèo. Cô cởi áo khoác và ngồi xuống chiếc sofa kêu cót két. Rõ ràng là chiếc
Barcalounger[48], bên cạnh có ba chiếc điều khiển từ xa, lộng lẫy tựa vòng vương miện
trên trán đức vua vậy.

[48] Một nhãn hiệu của loại ghế bành mà người ta có thể điều chỉnh cho
lưng ghế hạ xuống và phía trước ghế nâng lên để ngồi duỗi dài thoải mái.

“Bà nhà tôi đi vắng”, ông ta nói. Lại một cái nheo mắt.
“Cô là cô bé của Herman Sachs?”


bé…

“Đúng
ạ. Bác đã làm việc với cha cháu?”

“Một
số lần, phải. Con người tốt bụng. Nghe nói bữa tiệc tiễn ông ấy về hưu vui lắm.
Diễn ra suốt đêm. Cô muốn uống soda hay nước lọc hay thứ gì? Xin lỗi, không có
rượu.” Ông ta nói điều ấy bằng giọng dứt khoát – cùng đám mạch máu nổi trên mũi
– cho cô biết rằng, giống như nhiều cảnh sát ở một độ tuổi nhất định, ông ta mắc
chứng nghiện. Và giờ đang cai. Như thế thì tốt đối với ông.

“Cảm
ơn bác, cháu không uống gì… chỉ muốn hỏi vài câu thôi. Bác là thám tử chịu
trách nhiệm một vụ cướp của/giết người ngay trước khi bác nghỉ. Tên là Frank
Sarkowski.”

Ánh mắt
quét trên tấm thảm. “Phải, tôi nhớ anh ta. Một nhà doanh nghiệp gì đó. Bị bắn
trong vụ cướp, đại loại vậy.”

“Cháu
muốn xem hồ sơ. Nhưng nó bị thất lạc. Chứng cứ cũng thế.”

“Không
hồ sơ à?” Snyder nhún vai, hơi ngạc nhiên. Tuy nhiên chẳng ngạc nhiên lắm. “Phòng
lưu giữ hồ sơ ở đồn đó… luôn luôn là một đống lộn xộn.”

“Cháu
cần tìm hiểu việc gì đã xảy ra.”

“Chà,
tôi không nhớ mấy đâu.” Snyder gãi mu bàn tay rắn chắc, đóng vẩy vì bệnh chàm.”Cô
biết đấy, một trong những vụ kiểu ấy. Không có tí manh mối nào… tôi muốn
nói không có sự hang hái. Sau một tuần, người ta đại loại sẽ lãng quên chúng. Người
ta vốn vẫn phải giải quyết một số vụ kiểu ấy mà.”

Vấn đề
được đặt ra gần như một lời chế nhạo, một câu bình luận về cái thực tế là Sachs
rõ ràng mới làm công việc của một thám tử và có lẽ chưa xử lí nhiều vụ kiểu ấy.
Và nói chung, chưa xử lí nhiều vụ.


không phản ứng lại. “Hãy cho cháu biết những gì bác nhớ được.”

“Phát
hiện ra anh ta ở cái khu vực bỏ hoang ấy, nằm bên cạnh xe. Không tiền, không ví.
Khẩu súng vứt gần đó.”

“Là
loại gì ạ?”

“Một
khẩu súng lậu làm nhái kiểu Smittie. Được chùi sạch, không dấu vân tay.”

Thú vị
đấy. Lậu nghĩa là không số sê-ri. Những kẻ lưu manh mua loại này ngoài phố khi
chúng muốn một thứ vũ khí mà người ta không thể truy nguyên. Không bao giờ có
thể xóa hoàn toàn số của một khẩu súng được dập dấu – quy định đối với tất cả
những nhà máy sản xuất ở Mỹ – nhưng một số công ti chế tạo vũ khí nước ngoài
không in số sê-ri lên sản phẩm của họ. Đây là thứ vũ khí các sát thủ chuyên
nghiệp sử dụng và thong thường bỏ lại tại hiện trường.

“Đám
đưa tin trong giới tội phạm có nghe được gì sau đó không?”

Nhiều
vụ án mạng được giải quyết vì kẻ giết người mắc sai lầm là khoe khoang tài năng
của mình và cường điệu về những món hắn cướp được. Chuyện đến tai đám đưa tin,
đám này sẽ tố kẻ đó để giành sự ưu ái từ phía cảnh sát.

“Không
nghe được gì.”

“Khu
vực bỏ hoang ấy ở đâu?”

“Gần
con kênh. Cô biết những cái bể chứa to tướng đó chứ?”

“Những
cái bể chứa khí tự nhiên?”

“Phải.”

“Anh
ta làm gì ở đó?”

Snyder
nhún vai. “Chẳng biết nữa. Anh ta có công ti chuyên làm công việc bảo trì. Tôi
nghĩ một trong số các khách hang của anh ta ở đó, và anh ta đang đến kiểm tra
hoặc đại loại vậy.”

“Bên
Khám nghiệm hiện trường có tìm thấy tang vật gì không? Có dấu vết gì không? Dấu
vân tay? Dấu chân?”

“Chúng
tôi chẳng tìm thấy gì cả.” Ánh mắt Snyder vẫn dò xét Sachs. Ông ta dường như
hơi bối rối. Có thể ông ta đang nghĩ: “Vậy, đây là thế hệ mới của Sở Cảnh sát
New York. Đáng mừng vì ta đã rút lui khi tới lúc.”

“Bác
có tin tưởng rằng mọi cái đều dung như vẻ bề ngoài không? Một vụ cướp của dẫn đến
giết người?”

Snyder
ngập ngừng. “Cũng khá tin tưởng.”

“Nhưng
không hoàn toàn?”

“Tôi
cho có thể là một vụ thanh toán lẫn nhau.”

“Chuyên
nghiệp ạ?”

Snyder
nhún vai. “Ý tôi là, khu vực ấy hoang vắng. Cô phải đi bộ nửa dặm mới tới được
con phố có nhà dân. Toàn nhà máy, xí nghiệp. Bọn choai choai dứt khoát chẳng lởn
vởn ở đó. Chẳng có lí do gì. Tôi đã nghĩ kẻ bắn những phát đạn ấy lấy đi ví và
tiền để làm ra vẻ một vụ cướp. Và bỏ lại khẩu súng, điều ấy khiến tôi nghi ngờ
về việc giết người thuê.”

“Nhưng
không liên quan tới băng nhóm ạ?”

“Tôi
không phát hiện ra được. Tuy nhiên, một trong số các nhân viên của ông ta nói với
tôi rằng ông ta vừa có chuyện làm ăn đổ bể. Mất nhiều tiền. Tôi điều tra theo
hướng này mà chẳng đi đến đâu.”

Thế
là Sarkowski – cũng có thể cả Creeley nữa – hẳn đã giao thiệp với các đối tượng
tội phạm có tổ chức buôn bán ma túy hoặc rửa tiền. Tình hình xấu đi và chúng giết
ông ta. Điều ấy giải thích cái đuôi Mercedes – một số kẻ cầm đầu hoặc quân
mafia được cử theo dõi việc điều tra của cô – và cảnh sát đồn 118 đang tiến
hành những hoạt động can thiệp cho đám tội phạm.

“Cái
tên Benjamin Creeley có xuất hiện trong quá trình điều tra của bác không?”

Snyder
lắc đầu.

“Bác
có biết rằng nạn nhân, ông Sarkowski, từng lui tới quán Thánh James không?”

“Quán
Thánh James… Hẵng hượm, quán bar ở khu phố vần ABC ấy à? Ở quanh góc phố từ chỗ…”
Giọng Snyder nhỏ dần.

“Đúng
rồi. Từ chỗ 118.”

Snyder
lo lắng.

“Tôi
không biết. Không biết.”

“Chà,
ông ta đã lui tới đó. Kì lạ là một người đàn ông sống ở West Side và làm việc ở
Midtown lại lui tới một quán rượu mạt hạng ở tận đấy. Bác có biết gì về việc ấy
không?”

“Không.
Không mảy may.” Snyder rầu rĩ nhìn xung quanh căn phòng. “Nhưng nếu cô đang hỏi
phải chăng có ai ở 118 đến gặp tôi để đề nghị dập vụ Sarkowski đi thì không có
ai cả. Chúng tôi xử lí vụ này theo dung quy định và chuyển sang vụ khác.”

Sachs
nhìn thẳng vào Snyder. “Bác biết gì về 118?”

Ông
ta cầm một chiếc điều khiển từ xa lên, nghịch nó rồi lại đặt xuống.

“Cháu
đã nói gì phải không ạ?”, Sachs hỏi.

“Sao
cơ?”, Snyder ủ rũ nói. Sachs để ý ánh mắt ông ta lướt qua lướt lại một ngăn tủ
trống rỗng. Cô có thể nhìn thấy những vòng tròn in trên mặt gỗ, dấu vết những
cái chai từng được đặt ở đó.

“Trí
nhớ của cháu rất lởm khởm”, Sachs bảo với Snyder.

“Trí
nhớ ấy à?”

“Cháu
hầu như không nhớ tên mình.”

Snyder
bối rối. “Một người trẻ như cô?”

“Ồ,
bác có thể chắc chắn về điều đó.” Sachs vừa nói vừa cười. “Ngay phút cháu bước
ra khỏi nhà bác, cháu sẽ quên rằng cháu thậm chí đã ở đây. Quên tên bác, quên
gương mặt bác. Quên hoàn toàn. Kì lạ thế chứ.”

Snyder
nhận ra thông điệp của Sachs. Tuy nhiên, ông ta vẫn lắc đầu. “Tại sao cô làm việc
này?”, ông ta hỏi nhỏ. “Cô còn trẻ. Cô sẽ học được rằng tốt hơn hết là đừng đụng
vào tổ kiến lửa.”

“Nhưng
nếu không đụng vào mà kiến vẫn bò ra thì sao?”, Sachs hỏi, ngả người về phía
trước. “Cháu có hai góa phụ và cháu có những đứa trẻ mất cha.”

“Hai
à?”

“Creeley,
người đàn ông cháu đã nhắc tới. Cũng từng qua lại cái quán bar mà Sarkowski đã
qua lại. Có vẻ như họ biết những cảnh sát ở 118. Và cả hai đều chết rồi.”

Snyder
nhìn chằm chằm vào màn hình phẳng của ti vi. Có vẻ xúc động.

Sachs
hỏi: “Vậy bác nghe được gì?”

Snyder
đang xem xét cái sàn, dường như chú ý tới một vài vết bẩn. Có thể ông ta sẽ bổ
sung việc thay thảm vào danh sách các dự án cải tạo nhà cửa. Cuối cùng: “Những
lời đồn đại. Nhưng chỉ thế thôi. Tôi đang thẳng thắn với cô đấy. Tôi không biết
cái tên nào cả. Tôi không biết điều gì cụ thể cả.”

Sachs
gật đầu trấn an. “Những lời đồn đại cũng được.”

“Có một
khoản đang bị thả nổi. Tất cả chỉ là vậy thôi.”

“Tiền
ạ? Bao nhiêu?”

“Có
thể là một khoản lớn. Tôi muốn nói, nghiêm trọng. Hoặc có thể là một khoản chẳng
đáng kể.”

“Tiếp
tục đi ạ.”

“Tôi
không biết chi tiết nào cả. Giống như khi cô ở ngoài phố làm công việc của mình
và ai đó nói một điều gì đó với cái gã cô đang đứng bên cạnh, nó không hẳn, cô
biết đấy, không hẳn được để ý lắm, nhưng rồi cô hiểu ra vấn đề.”

“Bác
nhớ những cái tên chứ?”

“Không,
không. Việc này cũng lâu rồi. Chỉ là, chắc hẳn đã có một khoản tiền. Tôi không
biết cách thức nó được chi trả. Hay bao nhiêu. Hay cho ai. Tất cả những điều
tôi nghe được là cái người gom tiền, họ làm việc gì đó ở Maryland. Đấy là nơi
toàn bộ khoản tiền sẽ đến.”

“Có địa
điểm cụ thể không? Baltimore? East Side?”

“Không.”

Sachs
suy nghĩ về thông tin này, phân vân không biết bối cảnh đã như thế nào. Có phải
Creeley hay Sarkowski đã có một ngôi nhà ở Maryland, có thể là ven biển – Ocean
City hoặc Rehobeth? Hay một cảnh sát thuộc 118? Hay đó là băng nhóm Baltimore?
Giả thiết này có lí, nó giải thích tại sao họ không thể tìm thấy manh mối nào dẫn
đến một băng nhóm ở Manhattan, Brooklyn hay Jersey.

Sachs
hỏi: “Cháu muốn xem hồ sơ vụ Sarkowski. Bác có thể chỉ cho cháu hướng nào
không?”

Snyder
ngập ngừng. “Tôi sẽ thử gọi điện.”

“Cám
ơn bác.”

Sachs
đứng dậy.

“Hẵng
khoan”, Snyder nói. “Còn một điều. Tôi đã gọi cô là cô bé. Được, đáng lẽ tôi chẳng
nên gọi như thế. Cô có những trái bóng trên tay, cô không ném chúng xuống, cô
thông minh. Bất kì ai cũng có thể thấy điều ấy. Nhưng cô chưa làm việc trong
lĩnh vực này lâu. Cô sẽ hiểu những gì cô đang nghĩ về 118. Họ sẽ không ngăn cản
bất kì ai. Và thậm chí nếu họ có bị sao đó, nó cũng không rõ ràng. Cô sẽ tự hỏi
mình: Có khác biệt quái gì? Vài đô la ở đây hay ở kia? Đôi lúc một cảnh sát xấu
xa cứu được một đứa trẻ. Đó là cuộc sống ngoài kia.” Ông ta cau mày với Sachs vẻ
bối rối. “Ý tôi là, lạy Chúa, trong số tất cả mọi người, cô cần phải biết điều ấy.”

“Cháu
à?”

“Chà,
chắc chắn thế.” Snyder nhìn Sachs từ đầu tới chân. “Câu lạc bộ Đại lộ Mười sáu.”

“Cháu
không biết đó là gì.”

“Tôi
cuộc rằng cô biết.”


Snyder kể cho Sachs nghe mọi điều.

* * *

Dennis
Baker nói với Rhyme: “Tôi thấy bảo cô ấy là tay thiện xạ.”

Phòng
thí nghiệm lúc ấy chỉ còn toàn nam giới. Kathryn Dance đã trở về khách sạn để
đăng kí lại phòng và Amelia đang đi vắng vì Vụ Kia. Sellitto, Pulaski và Cooper ở đây, cùng chú chó
Jackson.

Rhyme nói về câu lạc bộ súng ngắn của Sachs và cuộc
thi đấu mà cô tham gia. Một cách tự hào, anh bảo với Baker rằng cô đã rất gần vị
trí hàng đầu trong liên đoàn súng ngắn thành phố. Cô sắp sửa thi đấu và hi vọng
đoạt giải nhất.

Baker gật đầu. “Có vẻ cô ấy đang có phong độ tốt như
hầu hết các tân binh vừa rời khỏi học viện.” Anh ta vỗ vỗ bụng. “Bản thân tôi
nên rèn luyện nhiều hơn.”

Mỉa mai thay, chính cái gã Rhyme bị cột chặt vào chiếc
xe lăn nay lại tập thể dục nhiều hơn trước khi gặp tai nạn. Hàng ngày, anh sử dụng
một chiếc xe đạp điện và một máy chạy được lập trình. Anh cũng thực hiện trị liệu
dưới nước mỗi tuần vài lần. Chế độ tập này có hai mục đích. Nó nhằm giữ cho các
bắp cơ của anh vẫn rắn chắc tới một ngày mà, như anh hằng tin tưởng, anh sẽ lại
đi được. Các biện pháp trị liệu cũng đưa anh đến gần hơn mục đích ấy nhờ việc cải
thiện chức năng thần kinh ở những phần cơ thể bị thương tổn. Mấy năm qua, anh hồi
phục được một số chức năng mà bác sĩ đã bảo anh không bao giờ có thể hồi phục.

Nhưng Rhyme cảm thấy Baker chẳng đặc biệt quan tâm tới
việc Sachs thường xuyên sử dụng máy Bowfles[49] – một kết luận được khẳng định khi anh ta đặt câu hỏi tiếp theo. “Tôi thấy
bảo anh và cô ấy… đang hẹn hò.”

[49] Một nhãn hiệu máy tập thể dục.

Amelia Sachs là chiếc đèn lồng thu hút rất nhiều những
chú bướm đêm và Rhyme không ngạc nhiên vì viên thám tử kiểm tra xem ngọn lửa đã
có người giữ chưa. Anh bật cười trước cách diễn đạt cũ kĩ thú vị của viên thám
tử. Đang hẹn hò. Anh nói: “Thì anh có thể nói vậy.”

“Hẳn phải khó khăn lắm.” Rồi Baker chớp mắt. “Khoan
nào, tôi không có ý như anh nghĩ đâu.”

Tuy nhiên, Rhyme cảm nhận khá rõ ý của viên thám tử.
Anh ta không ám chỉ mối quan hệ giữa một người què quặt và một người đi lại được
– Baker có vẻ hầu như không chú ý tới tình trạng của Rhyme. Không, anh ta ám chỉ
một cuộc xung đột tiềm tàng mang tính chất rất khác. “Giữa hai cảnh sát, anh muốn
nói thế chứ gì.”

Vụ Kia đối lập với Vụ Của Anh.

Baker gật đầu. “Tôi từng hẹn hò với một nhân viên
FBI. Cô ta và tôi gặp phải những vấn đề về pháp quyền.”

Rhyme bật cười. “Đó là một cách lập luận hay. Tất
nhiên, vợ cũ của tôi chẳng phải là cảnh sát và chúng tôi cũng vẫn trải qua khoảng
thời gian khó khăn. Blaine có cú ném bóng tuyệt vời. Tôi mất mấy chiếc đèn đẹp
lắm. Và một kính hiển vi nhãn hiệu Bausch & Lomb. Có lẽ tôi đừng nên đem nó
về nhà. Chà, mang nó về nhà cũng được, nhưng đừng nên đặt nó trên chiếc bàn bên
cạnh giường trong phòng ngủ.”

“Tôi sẽ không bỡn cợt về những chiếc kính hiển vi
trong phòng ngủ đâu”, Sellitto nói to từ bên kia căn phòng.

“Nghe như anh vừa bỡn cợt rồi đấy”, Rhyme đáp lại.

Lảng tránh câu chuyện phiếm của Baker, Rhyme lăn xe
đến chỗ Pulaski và Cooper. Người kĩ thuật viên đang cố gắng lấy dấu vân tay ở
cuộn dây kẽm mang về từ xưởng hoa, vì Rhyme hi vọng rằng Thợ Đồng Hồ không tháo
cuộn dây kẽm màu xanh lá cây ấy bằng tay đi gang và phải dùng tay trần. Nhưng họ
cũng chẳng tìm thấy gì hết.

Rhyme nghe có tiếng mở cửa và lát sau Sachs bước vào
phòng thí nghiệm, cởi chiếc áo khoác da ngắn và quăng mạnh nó lên một chiếc ghế
dựa. Chẳng mỉm cười, cô gật đầu chào cả nhóm, rồi hỏi Rhyme: “Có thông tin gì mới
chưa?”

“Chưa, chưa có gì. Đã thử mấy lần với Lệnh phát hiện
phương tiện giao thong khẩn cấp nhưng không được. Cũng chưa có thông tin gì về
hình ảnh các khu vực tỏa nhiệt.”

Sachs đăm đăm nhìn tấm bảng thể hiện vụ án. Nhưng
Rhyme thấy dường như cô không đọc được chữ nào. Quay sang chàng cảnh sát trẻ,
cô nói: “Ron này, ông thám tử chịu trách nhiệm vụ Sarkowski bảo tôi là ông ta
nghe đồn đại về việc tiền đến tay những người bạn 118 của chúng ta tại quán
Thánh James. Ông ta cho rằng có mối liên hệ với Maryland. Chúng ta sẽ tìm hiểu
mối liên hệ này, chúng ta sẽ tìm hiểu về khoản tiền và có thể cả tên một số kẻ
dính dáng tới. Tôi đang nghĩ đó là một băng nhóm tội phạm có tổ chức ở
Baltimore.”

“Tội phạm có tổ chức à?”

“Hãy gọi điện đi. Tìm hiểu xem có kẻ nào thuộc một
băng nhóm ở Baltimore đang hoạt động ở New York không. Và tìm hiểu xem liệu
Creeley, Sarkowski hay bất kì ai ở 118 có nhà hay có thường xuyên làm ăn ở
Maryland không.”

“Tôi sẽ đến đó và…”

“Không, hãy gọi điện thôi. Đừng xưng danh.”

“Trực tiếp đến chẳng hay hơn ư? Tôi có thể…”

“Việc hay hơn…”, Sachs nói gay gắt, “… là làm
như tôi bảo.”

“Được.” Pulaski giơ tay đầu hàng.

Sellitto nói: “Này, Linc, phần nào tinh thần hài hước
ở anh đang truyền sang cho quân của anh đấy.”

Môi Sachs mím lại. Rồi cô dịu đi. “Như thế sẽ an
toàn hơn, Ron ạ.”

Đó tức là một lời xin lỗi của Lincoln Rhyme, hoàn
toàn chẳng nhiều nhặn gì, nhưng Pulaski chấp nhận nó.

“Rõ.”

Sachs rời mắt khỏi những tấm bảng. “Em cần nói chuyện
với anh, Rhyme. Mình anh.” Liếc nhìn sang Baker. “Anh không cảm thấy phiền chứ?”

Anh ta lắc đầu. “Không tí nào. Tôi cũng có vài vụ
khác phải xem xét.” Anh ta mặc áo khoác. “Tôi sẽ quay vào thành phố nếu anh cần
đến tôi.”

“Thế sao?”, Rhyme hỏi Sachs bằng giọng dịu dàng.

“Lên trên gác. Mình anh.”

Rhyme gật đầu. “Được.” Chuyện gì đang diễn ra ở đây
vậy?

Sachs và Rhyme theo chiếc thang máy bé tí lên tầng
hai và anh lăn xe vào phòng ngủ. Sachs đi đằng sau anh.

Lên gác, cô ngồi xuống bên cạnh một chiếc máy vi
tính có liên lạc với bộ xử lí trung tâm, bắt đầu gõ phím điên cuồng.

“Chuyện gì vậy?”, Rhyme hỏi.

“Cho em một phút.” Sachs đang cuộn các văn bản.

Rhyme nhận ra hai điều ở cô: Bàn tay cô cứ chọc vào
da đầu mạnh tới nỗi máu chảy ra dây đầy ngón cái. Một điều nữa là anh chắc chắn
rằng cô đã khóc. Việc này mới chỉ xảy ra hai hay ba lần trong suốt thời gian họ
biết nhau.

Sachs gõ phím mạnh hơn, các trang văn bản cuộn
nhanh, gần như nhanh đến mức không đọc được.

Rhyme sốt ruột. Cuối cùng, anh phải nói dứt khoát:
“Sachs, hãy cho anh biết đi.”

Cô đang nhìn chằm chằm vào màn hình, lắc đầu. Rồi cô
quay sang Rhyme. “Cha em… ông ấy không ngay thẳng.” Giọng cô nghẹn lại.

Rhyme lăn xe đến gần hơn, trong lúc ánh mắt Sachs trở
về với các trang văn bản trên màn hình. Anh có thể thấy đó là các trang báo.

Chân cô giật giật vì căng thẳng. “Ông ấy đã nhận tiền
hối lộ”, cô thì thào.

“Không thể nào.” Rhyme không biết Herman Sachs, ông
đã chết bởi căn bệnh ung thư trước khi anh và Sachs gặp nhau. Ông là một cảnh
sát tuần tra, một cảnh sát khu vực, suốt cuộc đời mình (một thực tế khiến Sachs
có cái biệt hiệu khi đang làm việc tại Đơn vị Tuần tra – “Con gái Viên Tuần
tra”). Herman mang trong mình dòng máu cảnh sát – cha ông, Heinrich Sachs, từ Đức
sang năm 1937, nhập cư cùng với cha vợ chưa cưới, một thám tử cảnh sát Berlin. Sau
khi trở thành công dân Mỹ, Heinrich gia nhập Sở Cảnh sát New York.

Ý nghĩ rằng ai đó thuộc gia đình Sachs có thể ăn đút
lót là ý nghĩ không bao giờ xuất hiện trong Rhyme được.

“Em vừa nói chuyện với một thám tử về vụ quán Thánh
James. Ông ta từng làm việc cùng cha. Đã xảy ra bê bối hồi cuối những năm bảy
mươi. Tống tiền, hối lộ, thậm chí có vài vụ tấn công. Khoảng chục cảnh sát và
thám tử bị tóm cổ. Bọn họ được gọi là Câu lạc bộ Đại lộ Mười sáu.”

“Ừ. Anh đã đọc về sự việc này.”

“Lúc ấy em còn bé.” Giọng Sachs run rẩy. “Em không
bao giờ nghe nói tới việc này, thậm chí sau khi em vào lực lượng. Cha và mẹ
không bao giờ nhắc đến nó. Nhưng cha đã tham gia cùng bọn họ.”

“Sachs, anh chẳng thể tin được. Em hỏi mẹ chưa?”

Nữ thám tử gật đầu. “Mẹ nói chuyện không có gì hết. Chỉ
là một vài cảnh sát bị tóm cổ đã bắt đầu khai ra những cái tên để được bên khởi
tố giảm nhẹ tội.”

“Việc ấy vốn vẫn xảy ra trong Sở Nội vụ. Luôn luôn. Người
này tố người khác, thậm chí những người vô tội. Rồi người ta được phân loại.”

“Không, Rhyme. Sự việc không chỉ như thế. Em đã đến
phòng hồ sơ của Sở Nội vụ và tìm kiếm. Cha có tội. Hai cảnh sát tham gia ăn hối
lộ trên bản khai làm chứng tại tòa là chứng kiến ông ấy ăn tiền của các chủ cửa
hiệu, bảo vệ kẻ tham nhũng, thậm chí đánh mất hồ sơ và chứng cứ trong mấy vụ
quan trọng về băng nhóm ở Brooklyn.”

“Lời
người ta nói thôi.”

Chứng
cứ
”, Sachs gắt lên. “Bọn họ có chứng cứ. Dấu vân tay của ông ấy trên những
đồng tiền hối lộ. Và trên mấy khẩu súng không đăng kí ông ấy giấu ngoài ga ra.”
Cô thì thầm: “Nghiên cứu đường đạn, người ta lần ra được một âm mưu giết người
một năm trước đấy. Cha em lúc bấy giờ đang cất giấu một thứ vũ khí bị cảnh sát
lùng sục, Rhyme. Tất cả đều nằm trong hồ sơ. Em đã trông thấy báo cáo của nhân
viên khám nghiệm dấu vân tay. Em đã trông thấy dấu vân tay.

Rhyme
rơi vào im lặng. Cuối cùng, anh hỏi: “Rồi làm sao ông ấy thoát được?”

Sachs
cười cay đắng. “Đây là trò đùa, Rhyme. Bên Khám nghiệm hiện trường làm hỏng cuộc
điều tra. Các thẻ quản lí tang vật không được điền đúng cách thức, và luật sư của
ông ấy tại tòa đã bác bỏ chứng cứ.”

“Chuyện
gì vậy?”

Các
thẻ quản lí tang vật tồn tại là để người ta không thể làm giả hay vô tình thay
đổi chứng cứ, khiến một đối tượng tình nghi dễ dàng bị kết án hơn. Đời nào lại
có chuyện can thiệp vào những chứng cứ trong trường hợp Herman Sachs, gần như
không thể lấy dấu vân tay trên tang vật trừ phi chính đối tượng động đến nó. Tuy
nhiên, mọi quy định đều phải áp dụng giống nhau cho tất cả, và nếu các thẻ quản
lí tang vật không được điền hoặc không được điền dung cách thức, chứng cứ hầu
như luôn luôn bị bác bỏ.

“Rồi
thì… còn những bức ảnh chụp ông ấy cùng Tony Gallante.”

Một
thủ lĩnh bang nhóm tội phạm có tổ chức ở khu Bay Ridge.

“Cha
em và Gallante?”

“Họ
đang ăn tối với nhau, Rhyme ạ. Em gọi cho một cảnh sát mà cha từng làm việc
cùng, Joe Knox, ông ta cũng nằm trong Câu lạc bộ Đại lộ Mười sáu. Bị bắt. Em hỏi
ông ta về cha, hỏi thẳng thừng. Đầu tiên ông ta không muốn nói gì. Ông ta khá bị
chấn động vì cú điện thoại của em, nhưng cuối cùng cũng thừa nhận rằng đó là sự
thật. Cha, Knox và mấy người khác từng ăn tiền của các chủ cửa hiệu và các chủ
thầu trong vòng một năm. Bọn họ xóa chứng cứ, thậm chí đe dọa đánh những ai kêu
ca.

Người
ta đã nghĩ cha đắm hẳn rồi nhưng, nhờ sai lầm của bên Khám nghiệm hiện trường,
ông ấy lại thoát được. Người ta gọi ông ấy là con cá thoát khỏi lưới.

Lau
nước mắt, Sachs tiếp tục chạy dọc những trang hồ sơ trên máy vi tính. Cô cũng
đang xem xét các văn bản chính thức – tài liệu lưu trữ của Sở Cảnh sát New York
mà Rhyme được truy cập vì công việc anh thực hiện cho Sở. Anh lăn xe đến gần, gần
tới mức anh có thể ngửi thấy mùi xà phòng thơm cô dung. “Mười hai sĩ quan Câu lạc
bộ Đại lộ Mười sáu bị truy tố. Sở Nội vụ biết còn ba người khác nữa nhưng chẳng
thể làm gì vì những vấn đề về chứng cứ. Ông ấy thuộc số ba người đó”, Sachs nói.
“Lạy Chúa. Con cá thoát khỏi lưới…”

Sachs
ngồi sụp xuống chiếc ghế dựa, các ngón tay vùi kín trong tóc. Cô nhận ra hành động
ấy của mình và buông bàn tay xuống đùi. Có máu tươi ở móng.

“Khi
chuyện đó xảy ra với Nick”, Sachs bắt đầu. Một hơi thở sâu nữa. “Khi chuyện đó
xảy ra, tất cả những gì em có thể nghĩ là, chẳng có gì tồi tệ hơn một cảnh sát
biến chất. Chẳng có gì… Và giờ đây em phát hiện ra rằng cha em một cảnh
sát như thế.”

“Sachs…”
Rhyme cảm thấy nỗi tuyệt vọng đau đớn vì không thể nâng cánh tay mình và đặt
bàn tay của anh lên bàn tay của cô, để cố gắng lấy bớt đi sự day dứt kinh khủng
đang xâm chiếm cô. Anh cảm thấy bùng dậy nỗi giận dữ vì bất lực.

“Bọn
họ nhận hối lộ để hủy chứng cứ, Rhyme. Anh biết điều ấy nghĩa là thế nào. Bao
nhiêu đối tượng rút cục được tự do vì những gì bọn họ làm?” Sachs quay lại với
máy vi tính. “Bao nhiêu kẻ sát nhân thoát tội? Bao nhiêu người vô tội chết vì
cha em? Bao nhiêu?”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3