Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 09 - Phần 1

HỒI THỨ CHÍN

Nhật Lệ quân thua, Thanh Đô rước xa giá bon nhanh

Quảng Nam dinh vỡ, Dương Nghĩa xuống suối
vàng ôm hận.

Lại nói năm Quý Dậu, niên
hiệu Đức Long thứ năm (1633), tháng ba, bấy giờ thiên hạ vô sự, Thanh Đô vương
sai trấn thủ Nghệ An là thiếu phó Tây quốc công Trịnh Tạc thống lĩnh thuỷ sư
đến đồn trấn ở cửa biển Kỳ La[227].
Sai thái phó Thắng Nghĩa phủ Quỳnh Nham kiêm Nghĩa doanh Hồng quận công thống
lĩnh các tướng cùng sáu nghìn quân bộ vào đóng đồn ở châu Bố Chính, phía Bắc
sông Giang để chuẩn bị thế tiến đánh tiếp ứng cho nhau, có ý dòm ngó việc chính
sự của Nam triều.

Lại nói chuyện Sãi vương ở
Nam triều năm ấy[228] sai
cháu là Tuấn Lương hầu[229] làm
trấn thủ doanh Quảng Bình, Tuấn Lương hầu rộng rãi thi hành nhân chính, hiệu
lệnh nghiêm minh, ngoài đường không ai nhặt của rơi, dân đều được yên vui nghề
nghiệp.

[227] Kỳ
La: tên cửa biển ở huyện Kỳ Hoa (đời Lê), tức cửa Nhượng ở huyện Cầm
Xuyên, Nghệ Tĩnh.

[228] Nguyên thư chép “thị triều” (triều ấy), có
phần chắc là chép nhầm, đúng là “thị niên” (năm ấy) do ảnh hưởng chữ “triều” ở
trên mà nhầm xuống chữ dưới.

[229] Tên tước của Nguyễn Phúc Tuấn, con của Phúc
Điền (Điền là em Sãi vương).

Bấy giờ công tử con thứ
của chúa là Dương Nghĩa hầu Nguyễn Phúc Anh giữ chức trấn thủ
ở Nam có bụng muốn đạt ngôi của anh cả. Nhưng nghĩ rằng xứ này ở xa
địa giới của Bắc triều, khó bề cử động. Dương Nghĩa hầu muốn ra làm trấn thủ
Quảng Bình để dễ mưu đồ tranh đoạt. Dương Nghĩa bèn ngầm sai người đi móc nối
với một quan chức ở doanh Quảng Bình là Lý Minh[230],
lôi kéo vài ba tướng khác cùng mấy tên xã dân gian ác ở các huyện kéo nhau về
phủ chúa vu cáo trấn thủ Tuấn Lương hầu[231],
nói hầu ở trấn không biết thương yêu dân chúng, chỉ mưu đồ buôn bán kiếm lời,
ích kỉ hại nhân, khiến dân chúng lầm than khốn khổ, xin chúa cho đổi đi nơi
khác để cho sinh dân khỏi bị điêu linh tàn hại, xin đổi cho công tử Dương Nghĩa
hầu về thay để yên vỗ dân đen.

Sãi vương nghe theo[232] bèn gọi Tuấn Lương
hầu về ở phủ chúa, sai người vào Quảng Nam triệu Dương Nghĩa về để sai đi trấn
thủ Quảng Bình, đáp lòng mong mỏi của dân. Sứ giả của chúa vâng mệnh ngày đêm
đi gấp vào Quảng Nam truyền lệnh. Gặp lúc Dương Nghĩa hầu đang đi du
chơi săn bắn ở xa, đến hơn một tuần[233] vẫn
chưa về, sai nhân thấy vậy bèn trở về vương phủ trình với chúa. Sãi vương nghe
bẩm tức giận Dương Nghĩa vì tội du đãng, không cho ra ngoài làm trấn thủ nữa,
bèn sai em là phó tướng Quảng Lâm hầu Nguyễn Kiều[234] đi
trấn thủ Quảng Bình.

[230] Nguyên văn chép chữ “Lý” bằng chữ “Lý”
(lê). Có thể Lý Minh là tên thường gọi, không phải họ Lý.

[231] Bản sao chép nhầm là Tuấn Vương hầu, đúng
là Tuấn Lương hầu như đã chép ở trên.

[232] ĐNTLTB cũng nói vắn tắt sự việc này: “Bấy
giờ Anh ở Quảng Bình để tiện được thông với họ Trịnh, bèn sai người ra bàn mưu
với văn chức Quảng Bình là Lý Minh là (không rõ họ). Lý Minh tập hợp
những bọn bất mãn ở địa phương, kiện vu cho Tuấn là hà khắc trăm họ,
xin dời Tuấn đi nơi khác (ĐNTLTB, 61).”

[233] Theo cách tính thời gian ngày trước một
tháng có ba tuần, mỗi tuần mười ngày.

[234] ĐNTLTB chép viên tướng này là Nguyễn Phúc
Kiều. Nguyên thư ở đây chép chữ “bạt”. Hai chữ “kiều” và “bạt” viết thảo có thể
đọc và chép nhầm.

Quảng Lâm hầu vái tạ lĩnh
chức phó trấn, chăm vỗ binh dân, thương yêu sĩ tốt, mọi người đều vui vẻ tuân
phục. Thế là công tử Dương Nghĩa mất hi vọng, trong lòng uất ức nhưng không
biết làm gì. Dương Nghĩa lại sai người đi gặp Lý Minh tử để hỏi kế. Lý Minh
viết mật thư báo Quảng Bình, Quảng Lâm hầu là người có ân đức, được dân chúng
yêu mến cho nên khá có uy thế, khó mà lay chuyển được. Nhưng Quảng Lâm hầu bản
tánh mềm yếu, minh công nên dùng mưu kín chiêu dụ quân Bắc để họ quấy rối ở
châu Bố Chính thì Quảng Lâm ắt phải trốn chạy trước, khi ấy chức trấn thủ Quảng
Bình không phải là minh công thì còn vào tay ai? Minh công được đến trấn thủ ở
đây thì việc lớn ắt thành, không cần phải lo nghĩ nhiều.

Dương Nghĩa khấp khởi mừng
thầm. Rồi đó ngầm đặt kế trá hàng, nói với người lái buôn tên là Điện, sai Điện
chuyển ra trình với Thanh Đô vương Trịnh Tráng mưu kế như thế, xong việc xin
báo đáp trọng hậu. Lái Điện lĩnh tờ khải[235] lên
đường đi lén ra kinh đô Thăng Long dâng vào phủ chúa.

[235] Khải: Theo
quy chế thời Lê-Trịnh, các văn thư gởi lên chúa Trịnh thì gọi là “khải” (khải
văn).

Thanh Đô vương Trịnh Tráng
tiếp tờ khải mở ra xem. Khải văn viết:

“Thần là công tử ở xứ Nam
Dương Nghĩa hầu Nguyễn phúc Anh cùng với bọn các tướng kính cẩn trăm lạy bẩm
lên chúa thượng xét cho:

Trước là vì phụ thân của
thần đã già yếu khó cậy dựa giáo hóa, sau là vì trong chỗ anh em không hòa mục,
không biết suy nghĩ đạo cương thường, sợ rằng ngày khác biến sinh ở bên tay
nách, không khỏi bị coi là tặc đồ. Sâu nghĩ về sau họa đấy, trong nhà anh em
tranh đánh lẫn nhau, khó trốn bị chép ghi là ngỗ ngược. Cúi mong thánh vương cả
phát đại quân sớm đến cửa biển Nhật Lệ bắn súng[236] làm
hiệu, bọn thần ở bên trong sẽ cùng cử sự đem binh chúng quy hàng, ngõ hầu xa
thư[237] thống nhất một
mối, Nam Bắc một nhà, bọn thần được ngước thấm ơn giáo hóa. Muôn trông thánh
thượng cứu vớt cho. Kính bẩm.”

[236] Bản sao chép nhầm chữ “súng” thành chữ
“kính”.

[237] Xa
thư: Cỗ xe và chữ viết. Thời Chiến Quốc các nước có riêng các quy
cách thể lệ về kiểu xe cộ, chữ viết. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy
Hoàng định lệ “thư đống văn xa đồng quy” (viết một thứ chữ, đóng xe cùng một
kích thước trục).

Thanh Đô vương xem tờ khải
cả mừng, bèn lệnh cho tiết chế thái úy Sủng quốc công Trịnh Kiều thống lĩnh đại
quân vào đóng ở chợ Vân Trang, châu Bố Chính để ứng phó khi lâm sự.

Mùa đông, tháng mười, Thanh
Đô vương đem đại binh thủy bộ rước xa giá vua Lê đánh Nam hà. Tháng
chạp, quân đến cửa Nhật Lệ. Thanh Đô chia quân đi đóng trại, đầu dưới tiếp ứng
với nhau, thế trận rất nghiêm chỉnh. Dân chúng châu Bố Chính hoảng sợ dắt già,
bế trẻ chạy trốn khỏi nơi có đồn lũy lớn để tìm đường sống thoát.

Chúa Nam nghe tin
bèn triệu các quan văn võ vào phủ đường bàn định. Sãi vương giận nói:

- Họ Trịnh không hiểu cơ
biết thời, vô cớ cất quân xâm nhiễu biên cảnh, giết hại dân chúng trong cõi của
ta, trời đâu có dung tha!

Nói đoạn sai đại tướng Mỹ
Thắng hầu[238] cùng với
đốc thị Chiêu Vũ tử Nguyễn Hữu Dật thống lĩnh các quân thủy bộ đi chặn địch.

Hai tướng vâng mệnh đem quân
lên đường thẳng đến cửa Nhật Lệ để ứng phó với tình thế. Bấy giờ trấn thủ Quảng
Bình Quảng Lâm hầu ruổi ngựa đến trình ở cửa Nhật Lệ để đề phòng thủy quân
bên Trịnh lọt vào[239]. Đốc
thị Chiêu Vũ lại hiến kế đắp lũy ở bãi cát Trường Sa[240] để
hoàn bị kế sách đánh giữ. Sãi vương đều nghe theo và cho thi hành.

Hai tướng được lệnh sai quân
đắp lũy cát, ngăn bờ sông để bảo vệ cho Chinh lũy[241]
đóng cọc gỗ ngăn ở cửa biển để chặn không cho quân Trịnh vượt sang.

[238] ĐNTLTB ghi viên tướng này là Nguyễn Mỹ
Thăng.

[239] Nguyên văn chép là “bầm tư (có chữ sửa bằng
tu) dị hãn chi pháp”: chưa rõ “dị hãn chi pháp” là gì. Theo nghĩa chữ
“hãn” là chống cự tạm dịch như trên.

[240] Tức lũy Trường Sa từ cửa sông Nhật Lệ đến
khoảng xã Võ Xá, huyện Lệ Thủy, đắp dựa theo những cồn cát chạy dài ở sát biển.

[241] Chính
lũy: tức lũy Nhật Lệ.

Bấy giờ Thanh Đô vương Trịnh
Tráng rước xe giá vua Lê đến phía ngoài cửa biển Nhật Lệ bắn ba phát súng làm
hiệu, không thấy Dương Nghĩa ra hàng. Thanh Đô vương lấy làm ngờ bèn cho lui
quân ra xa mặt lũy đóng trại để chờ tin tức của Dương Nghĩa hầu, đợi đến hơn
mười ngày. Các đạo quân Nam thấy quân Bắc trễ nải không có ý phòng
bị, bèn đồng loạt xông ra đánh lớn. Súng nổ vang dền như sấm, đạn bay khói tỏa
dày khít như mưa đá. Đại quân của chúa Nguyễn ào ạt tiến đến như cuốn chiếu.
Quân Trịnh thua rạp, vất bỏ xe pháo mà chạy không dám ngoái đầu, thây chất cao
thành đống. Thanh Đô vương thấy vậy hoảng sợ, rước xe giá vua Lê chạy về bắc Bố
Chính đóng quân bên bờ sông Gianh. Điểm lại binh mã thấy thương vong đến quá
nửa, Trịnh Tráng hối xót, bèn xuống lệnh thu quân về kinh giao cho con của Hoa
quận công Nguyễn Khắc Kham là Hiền Tuấn hầu Nguyễn Khắc Tôn[242]
lại giữ bắc Bố Chính. Phần châu Bố Chính ở phía nam sông Gianh thuộc về
chúa Nam cai quản. Người đời sau có thơ chê cười rằng:

Trong nhà lục đục gió Bắc
sinh,

Ầm ĩ Thanh Đô gây chiến
tranh.

Hổ chiếm đầu non xua hoẵng
thỏ,

Rồng nằm mặt nước át còn
kình.

Binh đao vừa lặng khói lang
tắt,

Thông rợp tàn che, cõi biển
xanh.

Vì biết Nam hà vương khí
mạnh,

Thong manh nào dám dắt thong
manh
!

[242] Trước tên Nguyễn Khắc Tôn, nguyên thư có
hai chữ “hiền hậu” (với chữ “hậu” sau). Đúng ra đó là chữ “tuấn” viết nhầm
thành. (Đoạn sau đã nói rõ trấn thủ Quảng Bình là Hiền Tuấn hầu Nguyễn Khắc
Tôn). Cương mục chép
tên người này là Nguyễn Khắc Loát. ĐNTLTB lại chép là Nguyễn Khắc Liệt.

Bấy giờ thấy bọn Mỹ Thắng,
Chiêu Vũ đánh thắng, khải hoàn đưa quân về triều bái yết, Sãi vương vui mừng
khôn xiết, sai mở tiệc ban thưởng trọng hậu cho Mỹ Thắng, Chiêu Vũ và úy lạo ba
quân.

Lại nói chuyện bọn Dương
Nghĩa hầu Nguyễn Phúc Anh nghe tin quân Bắc thua trận phải lui về, biết cơ mưu
không thành bèn rắp tâm làm sự phản nghịch bạc ác, ngầm bỏ tiền của ra chiêu dụ
môn khách để mưu đồ tranh đoạt, hoặc khéo léo tặng biếu các tướng, hoặc đem cho
kẻ dân phu, ai quý trọng vật gì thì cho vật ấy, rồi ghi tên vào quyển sổ gọi là
sổ “Đồng tâm hướng thuận”. Trong khoảng vài năm những kẻ hướng theo được khoảng
vài trăm người, nhưng không ai hay biết ý tứ gì của Dương Nghĩa. Dương Nghĩa
lại thường bảo kẻ tâm phúc đi lại thăm hỏi các nhà tướng tại triều, nhỏ to dụ
dỗ kết nghĩa tương thân. Từ đó về sau Dương Nghĩa ngày đêm thường cùng bọn tay
chân tụ hội để bàn tính việc cắt đặt quan chức, phải đi đóng giữ các nơi biên
ải nhằm ý tranh đoạt ngôi chúa.

Nói tiếp chuyện năm Giáp
Tuất, niên hiệu Đức Long thứ sáu (1634), mùa xuân, tháng giêng, Thanh Đô vương
rước xe giá vua Lê về đến Cầu Doanh[243] đóng
quân nghỉ lại cho tu sửa thành quách hào lũy, tuyển chọn và luyện tập lính cưỡi
ngựa để mưu đồ báo phục. Bèn cho thiếu bảo Định quận công thăng hàm thiếu phó,
chức đô đốc, bọn quận Tần, quận Vĩnh, quận Tào, quận Cẩm đều được thăng hàm
thiếu bảo chức tham đốc, cho quận Mỹ, quận Hà thăng chức quận đô đốc, cho thêm
số dân các xã được thu tô để tăng bổn lộc và ban cho bạc tiền nhiều ít khác
nhau. Lại sai quan thăm xét người trong xứ, ai có công thì thưởng, kẻ có tội
thì phạt. Vì thế các quan được yên chức, dân được yên nghiệp, Thanh Đô vương
bèn hạ lệnh đưa quân về kinh. Chẳng mấy ngày quân về đến kinh sư, Thanh Đô
vương xuống lệnh cho quân sĩ nghỉ ngơi.

Tháng tư, Thanh Đô vương sai
em là thái bảo Diên quận công[244] làm
đề điệu khoa thi hội các cống sĩ trong nước. Bọn Vũ Bạt Tụy năm người được lấy
đỗ tiến sĩ, đều được Thanh Đô vương bổ dụng.

[243] Cầu Doanh, tức Dinh Cầu, cũng gọi là Dinh
Hà Trung, ở xã Hà Trung, huyện Kỳ Hoa, nơi đặt lị sở của trấn Nghệ An thời Lê
Trịnh.

[244] Diên
quận công: Tên tước của Trịnh Nha.

Lại nói tháng mười năm ấy,
ở Nam triều, văn thần là tham tán Lộc Khê hầu Đào Duy Từ tuổi cao bệnh
nặng, việc sống chết chỉ tính trong chốc lát, bèn sai người tâm phúc vào bẩm
với chúa. Sãi vương nghe tin bèn thân đến tận nhà thăm hỏi. Lộc Khê hầu gắng
gượng quỳ dưới chân giường rập đầu thưa rằng:

- Thần là kẻ hủ nho nơi thôn
dã, may gặp được chúa thượng quá yêu, hưởng ơn tri ngộ đã nhiều. Thần không lấy
biết gì đền đáp, chỉ một niềm căng cắng đem hết tâm sức giúp rập chúa thượng
thu phục Trung nguyên, diệt trừ nghịch tặc họ Trịnh, khỏi cho vua Lê nhức nhối,
lo âu, trăm họ khỏi cảnh nước lửa khốn cực. Đó là ý nguyện của thần. Không ngờ
tính mệnh của thần hiện đã như ngọc lá sương móc, chưa đến mùa thu mà trước đã
héo tàn, thần xin cam chịu muôn tội, mong thánh thượng miễn thứ cho.

Nói xong nước mắt rơi đầm
ướt áo. Sãi vương nắm tay Lộc Khê khóc mà đáp:

- Ta từ ngày gặp khanh như
chim hồng thuận gió, chưa thỏa tâm tình. Ai ngờ giữa đường khanh đành lòng bỏ
ta. Há chẳng phải trời không muốn giúp ta bình trị thiên hạ mới khiến cho khanh
đau ốm đến thế này chăng? Khanh khá sâu nghĩ giữ gìn thân thể, chớ nên nói điều
gì khiến cho ta kinh sợ. Huống chi khanh có tấm lòng tốt như thế thì trời đâu
nỡ phụ?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3