Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 07 - Phần 1

HỒI THỨ BẢY

Mắc mưu Chiêu Vũ, Thanh Đô vương lui quân về Bắc

Ra thăm Sãi vương, Cống quận công tiến cử rể hiền.

Lại nói năm Bính Dần, niên
hiệu Vĩnh Tộ năm thứ tám (1626), ở Nam trấn, chúa Sãi vương đã nhiều năm không
muốn đích thân xét quyết việc chính sự, mọi việc hình phạt kiện tụng đều uỷ cho
em là Tổng trấn Tường quận công xử lí. Từ đó các quan văn võ hàng ngày vào chầu
ở vương phủ một lúc sáng sớm đến khoảng giờ Thìn lại sang dinh của Tường quận
công hầu việc. Nếu có kẻ nào phạm tội bàn xét đáng tội chết thì mới bẩm trình
lên chúa để thi hành. Sãi vương chỉ khoanh tay rũ áo sửa đức làm nhân, chăm thương
dân chúng, ngày đêm một niềm mong ước có người hiền tài giúp rập để lo toan
khai sáng cơ nghiệp. Nhưng chưa tìm được người như thế, chúa vì thế buồn lo
trong lòng.

Tháng Sáu, Sãi vương sai gọi
Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật là con trai tham tướng Triều Văn hầu vào triều lại trao
cho chức văn quan như trước. Từ đó Chiêu Vũ ngày đêm dự bàn tiệc quân cơ, bàn
luận chính sự.

Chiêu Vũ là người có tài
thông tim bác cổ, học sâu đạo lí hơn người, lại nói năng lưu loát, vì thế rất
được Sãi vương yêu mến. Sãi vương từng muốn giao phó cho Chiêu Vũ việc lớn mở
mang cõi bờ, nhưng vì còn thiếu người, hãy tạm thời cất nhắc sử dung để chờ đợi
trong ngoài. Khi có người hiền tai đến giúp sẽ tuỳ đó mà cử động.

Lại nói chuyện tháng tư năm
ấy, ở Bắc triều ngôi điện mái bằng trong hoàng cung tự dung bỗng có máu từ trên
một cột trụ chảy xuống loang cả nền nhà, mùi hôi tanh nồng nặc. Thanh Đô vương
sai đạo sĩ lập đàn cầu tạ để giải trừ đến ngoài tháng bảy mới hết. Vua Lê càng
thêm lo lắng vì chưa biết triệu chứng lành dữ ra sao?

Mùa thu, tháng tám, Thanh Đô
vương Trịnh thái bảo Đăng quận công Nguyễn Khải cùng với quan đốc thị là thiếu
bảo Hình bộ thượng thư Quỳnh quận công Nguyễn Thế Danh thống lĩnh các thuộc
tướng là bọn Hội quận công, Dụ quận công, Phú quận công đem năm nghìn quân tinh
nhuệ vào huyện Kỳ Hoa[163] đóng
giữ ở xứ Cầu Doanh, chia quân đóng làm hai trại để phòng khi đánh giữ có
thể hỗ trợ cho nhau. Đó là ý định của Thanh Đô vương muốn thu phục đất
đai Nam triều.

[163] Kỳ Hoa: tên huyện đời Lê, gồm hai huyện Kỳ
Anh, Cẩm Xuyên, tỉnh Nghệ Tĩnh ngày nay.

Lại nói chuyện người học trò
lưu ngụ ở phủ Hoài Nhơn thuộc Nam triều là Lộc Khê Đào Duy Từ, từ khi thay hình
đổi dạng che giấu tung tích, gửi thân làm kẻ chăn trâu bò đi chăn dắt, đêm về
lánh riêng nằm ngủ một nơi, người nhà không ai hay biết. Một hôm chủ nhà mời
những người nho học tới sum hội. Đến khoảng chập tối mọi người đang vui vẻ ngồi
đàm luận kinh sử thì Duy Từ lùa trâu về ràn. Buộc trâu xong, Duy Từ tay cầm
chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khổ vải đi đến chỗ trước các ông
khách nho, ghếch chân lên bực thềm đứng nhìn chằm chặp. Các ông khách có người
quát, có người mắng đuổi. Duy Từ chỉ nhếch mép cười, giả làm như không biết gì
cả. Chủ nhà mắng rằng:

- Ngươi là đứa ở chăn trâu,
vốn không biết đạo Khổng Mạnh, đã đưa trâu vào ràn thì xuống bếp tìm cơm ăn rồi
đi mà nghỉ, sáng mai cho trâu ra sớm, còn đứng đấy nhìn gì cho phí sức mệt xác?
Huống chi các vị nho học đây đều là bậc quân tử, còn ngươi là hàng tiểu nhân,
thế mà dám ngang nhiên đứng trước mặt, chẳng biết khiêm tốn cung kính gì cả.
Thế là có tội đấy.

Duy Từ nghe xong ha hả cười
vang, đáp rằng:

- Nho thì cũng có hạng nho
quân tử, nho tiểu nhân. Chăn trâu cũng có kẻ chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu
tôi tớ, cao thấp không giống nhau, hiền ngu chẳng phải ruột. Còn nay tiểu nhân
tôi đứng nhìn thì chẳng liên can gì đến sự tôn quý, có tội lỗi gì mà phải xua
đuổi?

Các khách nho nghe Duy Từ
đối đáp như thế đều ngạc nhiên, hỏi:

- Ngươi bảo ai là nho quân
tử, ai là nho tiểu nhân?

Duy Từ cười nhạt đáp:

- Phàm là nho quân tử, thì
trên thông thiên văn dưới hiểu địa lí, giữa thấu việc người. Ở nhà tất phải gi
đạo cha con, anh em, bạn bè, chồng vợ. Đối với nước tất phải bíêt mưu lược yên
dân giúp đời, cứu hiểm phò nguy, bay binh dàn trận, vào chính ra kì[164], lập công danh ở đời nay,
lưu sự nghiệp cho đời sau, ngời ngời rỡ rỡ, nghìn thu không mờ. Nhà Thương có Y
Doãn, nhà Chu có Thái Công[165];
nhà Hán có Vũ hầu Gia Cát Lượng, là những người như thế. Còn như nho tiểu
nhân thì tài học chỉ ở chỗ tầm chương trích cú, cầu danh cầu lộc, lại muốn rong
ruổi trên chỗ bút mực văn chương, cậy danh là nho mà cười gió cợt trăng, coi
thường cả những kẻ hào kiệt ở đời. Thế thì làm sao mà hiểu được ý chí của thánh
hiền, đạo lớn của vua tôi? Huống chi nửa đường may mà được ra làm quan, nhất
thời được giao cho việc coi sóc dân chúng, xử lí chính trị thì trăm phương
nghìn kế mưu đồ lợi riêng, không nghĩ rằng sâu mọt hại dân là điều đáng sợ. Lại
may hơn nữa mà được dự bàn kế sách lớn, xét quyết công việc đại sự của quốc gia
thì mặc cho người khác hết lòng lo toan suy nghĩ, còn tự mình thì bàn tán rông
dài, thao thao bất tuyệt. Như bọn Kiểu Hạo, Vương Diễn ở đời Tấn thì có gì đáng
phải nói đến!

[164] Kì, chính: là thuật ngữ quân sự thời cổ;
dàn quân đối trận với quân địch là chính (chính trận), phục quân đặt hiểm, lợi
dụng chỗ sơ hở để tấn công gọi là kì (kì trận).

[165] Tức Thái Công Vọng người thời cuối Ân đầu
hục, mưu sĩ có công giúp cho Chu Vũ vương diệt Trụ lập ra
nhà Chu (nguyên họ Khương tên Thượng). Chu Văn vương đi săn gặp
Thượng ngồi câu bên bờ sông Vị, nói: “Cha tôi mong ông đã lâu rồi” (Ngô thái
công vọng tự cửu hỉ), nhân đó người ta thường gọi Thượng là Thái
Công Vọng.

Các ông khách nghe xong cả
kinh, lại hỏi rằng:

- Còn kẻ chăn trâu anh hùng,
kẻ chăn trâu tôi tớ ra sao, khá nói luôn rõ ràng cho nghe một thể!

Duy Từ hơi chút mỉm cười rồi
nói:

- Kẻ chăn trâu anh hùng thì
như Nịnh Thích phục hưng được nước Tề, Điền Đan[166] tung
lửa đốt giặc thu lại hết thành trì đã bị mất vào tay nước Yên. Hứa Do[167] cho trâu uống nước ở
khe mà có thể phân biệt được hưng vong trị loạn, Bách Lý Hề[168] chăn
dê ở miền hoang nước Tần mà biết được thời vận bĩ thái, thịnh suy. Đó là những
kẻ chăn trâu dắt dê anh hùng. Còn những kẻ chăn trâu tôi tớ, thì quẩn quanh
trong cõi, xe chở đấu lường, no thì bỏ thừa, đói thì xin ăn. Hoặc ban ngày bỏ
trâu đi trộm quả, ban đêm ngủ khướt, quên rơm cỏ cho trâu bò ăn. Bọn ấy chỉ
biết một thời mình, tắm mưa dãi gió coi quỷ thần cũng chẳng có gì đáng sợ, coi
cha mẹ không đáng cậy nhờ, lêu lổng chơi bời không bờ bến, ngu muội vô chừng, thuận
chí vui thì hò reo hô hoán, giận thì chẳng còn thân sơ, làm xấu lây cả các bậc
cha anh, để oán giận cho hàng xóm. Đấy là hàng chăn trâu tôi tớ, chẳng cần phải
hỏi để làm chi!

[166] Điền Đan: Người nước Tề thời Chiến
quốc, dùng hơn một nghìn con trâu buộc sậy khô, tẩm dầu vào đuôi trâu rồi
đốt lửa thả ra ngoài thành, quân Tề theo đàn trâu xông ra đánh thắng quân Yên.

[167] Hứa Do: Tương truyền vua Nghiêu tìm đến núi
Cơ để nhường ngôi cho Hứa Do. Hứa Do đang cho trâu uống nước đáp rằng: “Ông trị
thiên hạ thì thiên hạ đã trị rồi, tôi phải thay ông làm gì nữa?”

[168] Bách Lý Hề: Người nước Ngu thời Xuân Thu,
bỏ sang nước Tần, tự bán mình đi ở chăn trâu cho người với giá năm bộ da dê.
Tần Mục Công biết Hề là người hiền, sai đem năm bộ da dê đến chuộc về, phong
làm đại phu (ba điền trên đây đều nói đến việc chăn dùng trâu, dê hợp với cảnh
ngộ của Đào Duy Từ lúc bấy giờ).

Các ông nhà nho nghe Duy Từ
nói năng lưu loát, bác cổ thông ki, ai nấy đều kinh hãi ngồi nhìn, rồi cùng
đứng cả dậy khoanh tay thưa rằng:

- Ông quả là bậc thầy cao
minh!

Rồi mời Duy Từ cùng ngồi,
nhưng Duy Từ khiêm nhường vẫn đứng. Các ông đồ phải xuống dưới thềm dẫn Duy Từ
lên ngồi chiếu trên.

Chủ nhà thấy vậy lấy làm lạ,
bèn thúc giục các ông khách nho hỏi thêm nhiều nữa về học thuật của Bách gia
chư tử, ba giáo chín dòng[169].
Lộc Khê Đào Duy Từ đáp lời, tất cả đều nói qua một lượt, không sai sót một chữ
nào, ai nấy đều rụt đầu lè lưỡi hồi lâu vẫn chưa hết ngạc nhiên. Ông lão chủ
nhà thấy vậy vui mừng khôn xiết, vỗ vai Lộc Khê mà nói rằng:

- Tài giỏi như vậy sao lại
giấu mắt lão phu? Đến nỗi mấy tháng nay phải phong trần dính áo, ngọc đá chẳng
phân? Ấy là lỗi của lão phu không sáng suốt. Có tội lắm! Có tội lắm!

Từ đó chủ nhà may sắm quần
áo mới cho Duy Từ, mời ngồi giảng học không làm việc chăn trâu nữa.

[169] Tam giáo: Nho, Phật, Đạo; Cửu lưu: chín
dòng phái học thuật của Trung Quốc như: nho gia, đạo gia, pháp gia...

Ngày tháng trôi qua rồi chủ
nhà tiến cử Lộc Khê với quan khám lí Cống quận công Trần Đức Hoà. Cống quận
công cùng Lộc Khê ngày đêm bàn luận việc cổ kim, các lẽ hưng vong trị loạn,
không điều gì không thông suốt. Cống quận công hết sức yêu quý, gả con gái cho
dễ gắn bó tình

Lộc Khê ngày thường nghĩ
việc bọn hận họ Trịnh. Mỗi khi xem đến truyện Tam quốc diễn nghĩa thấy
Khổng Minh từ khi ra khỏi thảo lư vang danh Hoa Hạ, lừng uy anh hùng, vẫn muốn
noi theo, bèn sáng tác một thiên Ngọa long cương vãn (Khúc
ngâm núi Ngọa Long)[170] đem
trình Cống quận công. Cống quận công xem bài Vãn thấy văn từ
khoáng đạt, sự tích tinh thông, có tài quân sư của bậc đế vương, trong lòng rất
lấy làm mừng, bèn cầm bút đề mấy chữ: “Trời sinh minh chúa trị dân, tất có hiền
tài giúp rập. Lộc Khê chính là Ngọa Long tiên sinh ngày nay.” Từ đó cảm tình
của Cống quận công đối với Lộc Khê càng thêm thân quý, dự tính sẽ tiến cử với
chúa Nguyễn. Người đời sau nhân đó có thơ bình tán Lộc Khê rằng:

Huyền vi trù nghĩ đã bao
ngày,

Hiển hách cao danh thật sáng
thay.

Ngọc tỏa non cao người chẳng
biết,

Châu chìm nước biếc chúng
khôn hay.

Gió mây rồi có ngày mây gió,

Cả nước đâu hơn cả nước này.

Một sớm sấm vang theo mưa
xối,

Ao tù vùng vẫy thấy rồng
bay!

[170] Ngọa
Long cương: Tên gọi núi nhỏ ở quận Nam Dương (Trung Quốc), nơi ở ẩn
của Gia Cát Lượng (tự Khổng Minh) người đời thường gọi là Ngọa Long tiên sinh
(sau Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị dự nên cơ nghiệp nhà Thục Hán).

Lại nói chuyện Thanh Đô
vương ở Bắc triều từ năm Giáp Tý sai người vào hỏi chúa Nam về việc
tô thuế đến bây giờ đã cách ba năm mà vẫn không thấy chở ra nộp. Lại nghe nói
Thụy quốc công Nguyễn Phúc Nguyên ở xứ Nam thường ngày luyện binh
tuyển tướng, dạy tập voi ngựa, sửa sang khí giới chiến thuyền, rắp tâm ra mặt
chống cự. Thanh Đô vương Trịnh Tráng bèn sai Binh khoa cấp sư trung Mỹ Toàn bá
Nguyễn Hữu Bản đem sắc dụ vào Nam đốc thúc việc nộp lương tiền.

Nguyễn Hữu Bản vâng lệnh lên
đường, ngày đêm rong ruổi đến Thuận Hóa, vào ngay phủ dinh
của Nam chúa để chuyển đạt sắc dụ. Thụy quân công tiếp sắc thử mở ra
xem. Lời sắc nói:

“Hoàng thượng ban sắc dụ cho
thái bảo Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên biết rằng: Mệnh lệnh của triều đình,
người làm tôi cần phải tuân theo. Việc to thuế ở châu quận các phiên tướng[171] không được chuyên
đoán theo ý riêng. Ngày trước đã sai bọn Công bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám
tư nghiệp Phương Tuyền hầu Nguyễn Duy Thì, Bá khê hầu Phan Văn Trị vào xứ Thuận
Hóa nói rõ tình ý, bảo cho biết sự họa phúc để tỉnh ngộ mà tuân theo mệnh lệnh
của triều đình. Không ngờ hãy còn mê muội chưa biết lẽ hơn thiệt, chỉ mượn cớ
tâu thưa qua lại để kéo dài ngày tháng, đến nỗi thóc tiền thu phát chia cấp đều
không được rõ. Đạo người làm tôi có như thế chăng?

Nay ngươi nên sửa lỗi trước,
tuân giữ phép tắc chế độ. Phàm là tô thuế của hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam từ
năm Quý Hợi (1623) trở về trước đã nói gặp lúc mất mùa thì đều cho miễn cả.
Nhưng từ năm Giáp Tý (1624) trở lại đây thì phải theo đủ lệ ngạch mà thu nộp
cho đủ số như lệ thuế về thời quốc công trước[172],
phải mau chóng đốc thúc đem thuyền tàu chở ra nộp số thóc thuế ấy, cùng với các
khoản cống nộp về binh lính, voi ngựa. Hoặc tự mình đến kinh đô chầu mừng, hoặc
sai con làm con tin đi thay, để nhìn thấy cảnh tượng trong nước mà hiểu rõ sự
kính lễ của bực đại thần. Như thế thì triều đình sẽ cho ngươi gia thăng phẩm
tước để rạng rỡ tổ tong. Phải cẩn thận chớ chậm trễ hoặc nghi ngại mà không
chịu đến thì triều đình sẽ phải xử trí. Kính tuân sắc dụ.”

[171] Phiên tướng: Tướng trấn thủ ở vùng biên
giới.

[172] Tiền quốc công: Vị quốc công đời trước, chỉ
Nguyễn Hoàng.

Nam chúa xem xong cả
cười bảo sứ giả:

- Ta vốn biết Thanh Đô[173] là kẻ quên ơn chuốc
oán, ích mình hại người, không đoái đến tình thân thích, không nghĩ đến đại
nghĩa, tự ý làm sắc dụ đưa vào đây, nói càn là của hoàng đế để dọa ta. Lẽ nào
vua Lê đích thực có làm cái sắc dụ này hay sao? Huống chi thiên tử do trời sai
xuống, là bậc nhân từ đại độ, lượng cả bao dung, thảy đều tốt đẹp, biết suy
nghĩ việc xưa để thể nghiệm ở đời nay, có đâu nhẫn tâm quên ơn con cháu bậc
công thần! Nay ta cai quản hai xứ đây, chẳng qua là một trấn nhỏ, thuế má có
đáng là bao mà cứ sai sứ đi đòi hỏi luôn luôn, chỉ thêm phiền phí. Nếu Thanh Đô
nghĩ đến công lao của Thánh tổ Tiên vương ta thì nên dâng biểu xin hoàng thượng
cắt gộp luôn cả xứ Nghệ An giao cho ta cai quản, ngõ hầu mới xứng đáng công lao
của đời trước, cần gì phải mượn oai hổ mà hù dọa ta?

[173] Tức Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng): chỉ
gọi tên tước không kèm theo chữ “vương” là gọi ngang.

Thụy quốc công nói xong lại
cười lớn. Sứ giả nghe nói lấy làm sợ hãi không dám mở miệng hỏi lại. Tiếp đó
các đại thần văn võ ở triều đình cũng nghiêm giọng nói:

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3