Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 02 - Phần 1
HỒI THỨ HAI
Diệt Hồng Ninh, Bình An vương rước vua về đô cũ
Rời Thuận Hóa, Nguyễn thái úy lại ra Bắc chầu mừng.
Lại nói năm Quý Mùi, niên
hiệu Quang Hưng thứ sáu (1583), tháng ba, vua Mạc Hồng Ninh lại đem quân tiến
đánh. Đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng sai quân đánh lại, phá tan được.
Tháng chín, tướng Mạc là Chấn quận công lại đem quân đánh xuống để báo thù lần
thua trước. Tướng Mạc chia quân đóng trại, quân thủy bộ tiếp liền nhau. Đô
tướng Trường quốc công sai quân đón đánh quân Mạc ở nơi Đường Nang[41]. Quân của Chấn quận công bên
Mạc thua lớn phải chạy lui về phía sau trận. Quận Chấn chưa chạy được mấy dặm
thì bị tướng Trịnh là quận Miễn đuổi kịp, bắt sống đem về nộp. Trường quốc công
ra lệnh chém đầu.
[41] Đường Nang: Theo Cương mục núi Đường Nang ở huyện
Quảng Xương (Thanh Hóa)
Quân Mạc chết trận đến quá
nửa, số bị bắt làm tù binh nhiều không đếm xuể. Đô tướng Trường quốc công vốn
có đức hiếu sinh, cấp cho cơm ăn áo mặc, cho về quê hương bản quán. Quân lính
nhà Mạc vái vọng tạ ơn, rồi ai về làng nấy. Dân Hoan, Ái[42] hai
xứ lại được yên ổn như xưa. Đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng lại cất quân
đi đánh lấy hai huyện Yên Khang và Yên Mô[43],
đặt quân đóng đồn ở núi Kiềm Tu. Nhà Mạc lại sai quân đến đánh. Trường quốc
công Trịnh Tùng cho quân mai phục hai bên bờ sông ở khoảng chùa Điền. Quân hai
bên đánh giữ giằng co đến hơn mười ngày, Đô tướng Trường quốc công thấy vậy hạ
lệnh thu quân về.
Tướng Mạc tưởng quân Trịnh
khiếp sợ liền thừa thế đuổi theo, đến chỗ có rừng rậm che khuất, đang lúc không
đề phòng, bỗng nghe tiếng súng nổ vang, quân của Trường quốc công mai phục hai
bên sườn núi liền nổi dậy xông vào giáp chiến. Quân Mạc thua to, tán loạn tìm
đường chạy trốn, số chết tại trận rất nhiều. Những tên sống thoát tìm đường
trốn về. Từ đó trong cõi được yên.
[42] Hoan, Ái: tức Nghệ Tĩnh (châu Hoan) và
Thanh Hóa (châu Ái)
[43] Huyện Yên Khang và Yên Mô: hai huyện của
phủ Trường Yên đời Lê ở xứ Sơn Nam (nay thuộc Ninh Bình).
Năm Bính Tuất, niên hiệu
Quang Hưng thứ chín (1586), đô tướng Bắc triều là Trường quốc công Trịnh Tùng
sai quan là hiến sát sứ Nguyễn Tạo vào hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam đo khám
ruộng đất để thu thóc thuế. Hiến sát sứ Nguyễn Tạo vâng mệnh vào Thuận Hóa, đến
công dinh yết kiến Đoan quốc công. Chúa xuống dưới thềm đón tiếp, mời vào trong
trướng, chia ngôi chủ khách cùng ngồi nói chuyện. Rồi chúa sai mở tiệc khoản
đãi, thăm hỏi chăm sóc Tạo rất ân cần, ngày đêm không rời nửa bước.
Hiến sát sứ Nguyễn Tạo thấy
chúa Nam tiếp đón mình trọng hậu, trong lòng rất cảm phục. Những khi trò
chuyện với chúa, Tạo thường tỏ ý khuyên chúa biệt lập cơ đồ. Tạo lưu lại ở
Thuận Hóa khoảng năm, sáu tháng không vội về Bắc, cũng chẳng buồn bước chân ra
đến đồng ruộng. Chỉ truyền cho các quan phủ huyện sửa sang biên chép điền bạ
(sổ ruộng) nộp lên, Tạo chỉ xem lướt qua cho biết ruộng đất tốt xấu, lại tự
mình cắt giảm đi phân nửa rồi mới đệ trình cho chúa Nam để theo đó thu thuế mà
cấp phát cho ba quân.
Nguyễn Tạo nấn ná ở lâu tại
Thuận Hóa sợ đắc tội với triều đình, bèn cáo từ để về Bắc. Chúa lưu luyến, tỏ
cách rơi lệ cầm tay Hiến sát xứ Nguyễn Tạo mà nói rằng:
- Ta nay được gặp ông ở đây
thật duyên may như rồng mây cá nước, khôn xiết vui mừng. Muốn lưu ông lại đây
để cùng đàm đạo cho thỏ tâm tình. Nhưng ông từ biệt ra về khiến cho ta lòng rối
như tơ vò, đau tựa dao cắt. Ông nỡ rời bỏ ta mà về chăng?
Hiến sát sứ Nguyễn Tạo nghe
xong sụp quỳ khóc lớn, thưa rằng:
- Thần vâng mệnh lớn của
triều đình, đi về minh bạch, không thể ở lâu. Thần xin trở vè Bắc trả lại ấn
thao[44] rồi sẽ trở vào
xin giúp rập minh công, không dám quên ơn minh công lượng cả.
[44] Ấn thao: chữ Hán là ấn thụ, là quả ấn, con
dấu, do triều đình cấp cho các viên trưởng quan.
Thao là
giải la màu đính ở cán con dấu để đeo bên lưng.
Chúa nghe đoạn bèn sai mở
tiệc khoản đãi Nguyễn Tạo, khi lên đường, chúa theo tiễn chân hai dặm mới chia
tay. Hiến sát sứ vái vọng cáo từ trở về Bắc, bấy giờ chúa mới trở về công phủ
để xử lí công việc.
Từ đó, trong cõi thường gặp
mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, dân chúng mừng vui. Ngoài đường không ai
nhặt của rơi, phần nào có dáng dấp cảnh tượng thái bình.
Lại nói năm Tân Mão, niên
hiệu Quang Hưng thứ mười bốn (1591), tháng giêng, đô tướng của Bắc triều là
Trường quốc công Trịnh Tùng cất quân đi đánh dẹp miền Sơn Tây, đến chùa Ngô Sơn
dừng lại đóng quân, chia doanh đặt trại, thủy bộ tiếp ứng cho nhau, đội ngũ
chỉnh tề. Vua Mạc Hồng Ninh nghe tin liền chia quân đi chặn địch. Hơn hai tháng
đôi bên đánh nhau mấy trận không phân thắng bại. Tháng hai, ngày hai mươi bảy,
đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng suy nghĩ mưu kế dụ địch, bèn hạ lệnh nói
phao lên rằng: “Vì hết lương ăn nên phải rút quân.” Trước hết sai người đưa xe
lương về theo đường tắt, phao tin cho bên Mạc biết để dụ chúng đưa quân đuổi
theo đánh úp. Lại mật truyền cho thái phó Dương quốc công Nguyễn Hữu Liêu đem
một nghìn quân bí mật tiến vào chân núi xem xét địa hình, tìm nơi hiểm yếu để
đặt phục binh. Đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng tự dẫn đại quân tiến đến
đóng quân ở xã Phấn Thượng[45].
[45] Xã Phấn Thượng: nay là xã Ngọc Tảo, huyện
Phúc Thọ, Hà Nội.
Ngày hai mươi tám, giờ Dần,
Mạc Hồng Ninh cả phát quân lính người ngựa tiến thẳng đến dàn trận trước doanh
trại quân Trịnh và chia quân tỏa đi vây bọc bốn phía. Đô tướng Trường quốc công
Trịnh Tùng nghe tin báo cả cười rằng:
- Bọn giặc kia chẳng hiểu
việc binh, ếch ngồi đáy giếng lại muốn khoe khoang sức mạnh? Thế là lọt vào bẫy
của ta rồi.
Nói đoạn vào trong trướng
gọi họp các tướng để sai phát. Lệnh cho hai doanh Thận Nghĩa và Khuông Nghĩa
tiến quân hai cánh tả hữu; doanh Tuấn Nghĩa làm quân tiên phong; hai doanh
Tráng Nghĩa, Sùng Nghĩa tiến sau làm hậu ứng.
Bấy giờ bên Mạc sai hai
tướng An Nghĩa và Khuông Định xuất quân đánh ập vào. Giờ Ngọ, hai tướng đem
quân ra đánh. Các tướng bên Trịnh cười nói: “Phép đánh trận phải đợi thiên
thời. Chưa đến thời thì chớ có vội”. Các tướng đều lặng yên. Đến giờ Thân, đô
tướng Trường quốc công hạ lệnh xuất quân đánh gấp. Các tướng được lệnh nhất tề
dẫn quân xốc tới. Tướng Mạc là An Nghĩa, Khuông Định trễ nải không phòng bị,
trở tay không kịp, đều bị chém đầu trước trận. Quân Mạc bị giết rất nhiều. Các
đạo quân Trịnh thừa thắng đuổi dài đến tận sông Hát[46],
vua Mạc Hồng Ninh sự hãi mất mật, quay đầu chạy bừa về phía Bắc, khi đến gần
chân núi bị phục binh của Dương quốc công xúm vào vây đánh. Mạc Hồng Ninh cả
kinh liều thân chạy thoát. Đô tướng Trường quốc công xua quân đuổi theo. Bỗng
có một tên quân chạy ngựa đến bảo rằng tướng Mạc là thường quốc công đã cho đặt
phục binh ở xã Phấn Hạ để chẹn phía sau.
[46] Sông Hát Giang: chi lưu của sông Hồng chảy
qua các huyện: Phúc Thọ, Đan Phượng (ngoại thành Hà Nội nay).
Đô tướng Trường quốc công
Trịnh Tùng hay tin bèn hạ lệnh phát quân tiến đánh. Tướng Mạc là Thường quốc
công biết mưu bị lộ, đang đêm bỏ quân trốn về Đông kinh. Trường quốc công đánh
thắng, thu quân về đóng trại ở huyện Yên Sơn[47].
Đô tướng Trịnh Tùng sai quân đi thám thính tình hình quân Mạc. Quân do thám trở
về báo Mạc Hồng Ninh chiếm đóng quân ở xã Yên Thạch[48].
Trịnh Tùng bèn sai chọn một trăm con voi đực, sai thái phó Dương quốc công lĩnh
ba nghìn quân, cùng voi và ống lửa, súng lửa, nhân ban đêm tiến đánh, bắn vào
doanh trại để phá tan quân Mạc.
[47] Yên Sơn: Thời Lê sơ gọi là huyện Ninh Sơn,
thời Lê trung hưng kiêng húy của Trang Tông (Lê Ninh) đổi gọi là Yên Sơn. Nay
là huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Sơn Bình.
[48] Yên Thạch: Tên xã thuộc huyện Yên Sơn.
Dương quốc công vâng lệnh,
đang đêm dẫn quân tiến thẳng đến doanh trại quân Mạc, xua đàn voi chiến và bắn
ống lửa, súng lửa vào đốt trại. Quân Mạc không chống cự nổi, khắp nơi tìm đường
tẩu thoát. Mạc Hồng Ninh cả sợ, một mình chạy trốn về Đông kinh.
Đến đồn Nhị Hà, Mạc Hồng
Ninh lại chiêu tập tàn binh để mưu đồ khôi phục, nhưng gặp khi năm hết tết đến
đành phải đóng binh bất động. Người đời sau có thơ vịnh rằng:
Ào ào đảng Mạc dấy đao binh.
Khắp núi đầy đồng trống thúc
nhanh.
Trường quốc vung đao xua
nghịch tặc.
Hồng Ninh vứt giáp chạy Đông
kinh.
Nhị Hà đêm trốn nghe vượn
khóc,
Yên Thạch canh khuya tiếng
nhạn vang.
Khen khéo chồn ranh khoe võ
mép,
Nghe xa cọp rống ắt hồn
kinh!
Năm Nhâm Thìn, niên hiệu
Quang Hưng thứ mười lăm (1592), mùa xuân, ngày tiết Nguyên Dương[49], đô tướng Trường quốc công
Trịnh Tùng cùng các quan văn võ và các tường hướng về phía hành tại của vua Lê
kinh vái chúc mừng. Trường quốc công Trịnh Tùng mở tiệc lớn khoản đãi các
tường, hi cuộc rượu ngà ngà say, Tùng báo các tướng rằng:
- Bọn ta vâng chiếu lệnh của
thiên tử dẹp trừ giặc dữ, quét sạch gian tà. Nay giặc Mạc chưa yên, ta muốn cất
quân đi đánh, tiễu trừ cho biết loài sói lang. Chưa hay ý các tướng thế nào?
[49] Tiết Nguyên Dương: tức ngày rằm tháng
giêng.
Các tướng đều đứng dậy chắp
tay bẩm rằng:
- Bọn thấp hèn chúng tôi
được hưởng tước lộc nhà vua, ai nấy đều nhờ ơn nặng của nước nhà. Nay ngụy Mạc
đánh giữ đều không xong, chính là lúc bọn chúng đang tan rã. Chúng ta không
nhân lúc này mà đánh phá thì còn đợi đến bao giờ? Xin minh công xuống lệnh chia
quân, bọn chúng tôi xin tùy cơ đánh dẹp, diệt trừ hết đàng nghịch, lấy lại Đông
kinh. Ý nguyện của chúng tôi là như thế!
Đô tường Trường quốc công cả
mừng. Thế là qua ngày mùng hai tết, dời quân đến đóng ở Ninh Giang[50]. Ngày mồng năm, từ sáng sớm
các đội quân thủy bộ voi ngựa và đội Hùng tượng tiến thẳng đến Nhân Mục[51]. Đến giờ Ngọ lại tiến quân
đến trận địa để xem xét tình thế quân giặc nhiều ít hư thực ra sao, Giờ Thân
lại rút quân về Ninh Giang.
[50] Ninh Giang: nay là huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Hưng.
[51] Nhân Mục: tên xã ( tức làng Mọc), thuộc
huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội).
Đô tường Trường quốc công
đứng trước trướng gọi các tướng đến họp bàn, Trường quốc công nói:
- Giặc Mạc chiếm đóng thành
Đại La, cậy nơi hiểm yếu. Nhưng nơi đây đường đi thông suốt bốn phương tám
hướng. Bọn kia không hiểu binh pháp, việc phá thành chẳng có gì khó khăn. Ta có
một kế lấy thành Đại La dễ như trở bàn tay…
Nói đoạn bèn lệnh cho thái
phó Dương quốc công dẫn ba nghìn quân làm tiên phong. Hai doanh Tráng Nghĩa và
Sùng Nghĩa làm tả xung vệ trận tiến quân theo đường Cầu Dừa. Hai doanh Trấn
Nghĩa, Khuông Nghĩa làm hữu xung vệ trận, tiến theo đường Ống Mác, Nguyệt Áng.
Trường quốc công nói:
- Ta đích thân dẫn đội chính
binh tiến theo đường Cầu Giền. Doanh Trấn Nghĩa[52] đi
sau để tiếp ứng. Hẹn đêm nay từ lúc canh ba dậy sớm dẫn quân thẳng tiến, nhất
loạt cùng vào đánh phá. Ai vào thành trước được xếp công đầu, kẻ nào trái lệnh
xử theo quân pháp!
[52] Doanh Trấn Nghĩa: So phiên hiệu của các
doanh thì thấy doanh Trấn Nghĩa nhắc đến hai lần, có thể đây là doanh Tuấn
Nghĩa.
Các tướng nghe lệnh ai nấy
đều lui về doanh trại chuẩn bị trận đánh. Đến ngày mồng sáu, tướng cầm quân các
đạo theo đúng thứ tự đã ghi trong bản đồ, lần lượt đem quân đến thành Đại La.
Chỉ thấy:
Cờ xí rợp đất, gươm giáo
buốt sương
Voi ngựa đầy non xanh,
thuyền mành che nước biếc.
Sừng trống dồn rúc[53] rung đất, chiêng khua sấm động trời
Dương
oai tựa sấm rền chớp giật, diễu võ như gió táp mây cuốn.
Người
người béo khỏe, ai nấy oai hùng.
Giặc
Mạc làm sao chống nổi!
Thế là các đạo quân nhất tề
xốc tiến đến thành Đại La, chia binh đánh vào rất gấp. Tướng Mạc là thái phó
Thường quốc công[54] đem
quân ra chống cự. Hai bên giao chiến một hồi lâu, sắp phá được thành. Quân Mạc
thua to, chết tại trận nhiều không đếm xuể, số còn lại tán loạn chạy trốn.
Thường quốc công cả kinh, vội giả làm một tên lính trà trộn trong đám loạn quân
tìm đường thoát. Đang nghĩ cách ẩn náu, bỗng gặp quân tiên phong bên Trịnh,
Thường quốc công liền bị bắt giữ. Quân Trịnh không biết mặt Thường quốc công
bèn bảo nhau cắt mũi đem nộp để tính công. Thường quốc công cắn răng chịu đau,
rồi cứ thế nhằm vào phía núi sâu mà chạy trốn. Chẳng may lại bị gặp phải thái
phó Vinh quốc công[55], Thường
quốc công bèn bị bắt sống đem về.
[53] Sừng trống dồn rúc: Tiếng tù và kêu.
[54] Thường quốc công: tên tước của Nguyễn
Quyện, tướng nhà Mạc trước là Văn Phái hầu, sau thăng Thạch quận công (1584) bị
bắt năm 1592, chết trong ngục (1593).
[55] Vinh quốc công: Tên tước của Hoàng Đình Ái.
Mạc Hồng Ninh thấy tình thế
nguy cấp vội bỏ thành chạy gấp sang huyện Phượng Nhãn[56].
Các đạo quân của Trường quốc công bèn hạ thành Đại La, phóng hỏa thiêu hủy cung
điện phố phường, phe đảng nhà Mạc bị giết hết. Quân Mạc chết trận máu nhuộm đỏ
sông Nhị Hà, thây trôi đầy bãi cát. Đô tướng Trường quốc công Trinh Tùng hạ
lệnh treo bảng chiêu an, cấm quân lính không được phá phách cướp bóc của cải,
giết hại nhân dân, trong thành lại được giữ yên như cũ.
[56] Phượng Nhãn: tên huyện đời Lê, nay thuộc
huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.
Trường quốc công thăng
trướng, tướng cầm quân các đạo đều tới dâng công. Thái úy Vinh quốc công Hoàng
Đình Ái dẫn tướng Mạc Thường quốc công vào dâng nộp. Trường quốc công Trịnh
Tùng thấy Thường quốc công bị cắt mũi rất lấy làm thương xót, bèn cời trói đưa
vào trong trướng an ủi vỗvề, chẩn cấp cho rất hậu. Quân lình bên Mạc bị bắt đều
được cấp cơm áp rồi tha cho về. Đô tướng Trường quốc công đi tiêu trừ các nơi ở
La thành đề phòng đồ đảng họ Mạc tái tụ. Người đương thời có thơ vịnh rằng:
Sâu ong tụ tập đã bao sinh,
Một trận uy phong quét sạch
sanh.
Mậu Hợp thân cô chuồn Phượng
Nhãn.
Quận Thường mất mũi chốn La
Thành.
Gươm đao vùng vẫy khói lang[57]
tắt.
Ngựa
chiến nhanh bon cõi thái bình
Khen
khá Trường công ơn trạch xuống,
Ngời
ngời đức sáng đến thương sinh.
[57] Khói lang: Nguyên văn “lang yên” (khói
lang):thời cổ khi có quân địch xâm phạm bờ cõi, đồn binh ở biên thùy đốt lửa để
báo hiệu bằng khói. Vùng sa mạc phía bắc thường dùng phân chó ói để đốt khói,
cho nên gọi là lang yên. Tắt khói lang nghĩa là được yên bình.
Khi trước tướng Mạc là Văn
Phái hầu Nguyễn Quyện nghe được bài thơ sấm bốn câu chưa hiểu ý nghĩa ra sao.
Thơ nói:
Tam ngũ chi thời,
Hắc long ngộ hổ,
Quân tiễu Long thành,
Sinh cầm đại vũ.
Nay phá được thành Đại La,
các nhà nho cùng với Nguyễn Quyện mới giải thích được ý nghĩa của bài thơ sấm
ấy: “Tam ngũ chi thời” tức là năm Quang Hưng thứ mười lăm. “Hắc long” (rồng
đen) tức là năm Nhâm Thìn[58],
“Ngộ hổ” (gặp hổ) là nói về tháng giêng[59].
“Quân tiễu Long thành” là nói quân nhà Lê phá thành Đại La tức thành Thăng
Long. “Sinh cầm đại vũ” là chỉ vào Trường quốc công vậy.
[58] Thìn: là năm Rồng
[59] Tháng Giêng: là tháng Dần, ứng với hổ.
Lại nói tháng ấy, đô tướng
Trường quốc công Trinh Tùng san phá thành Đại La, quét trừ nghịch Mạc, quân dân
mới hơi được tạm yên. Bấy giờ đô tướng lại đem quân về đóng ở Ninh Giang, sai
quân đi thám thính tin tức Mạc Hồng Ninh, Thường quốc ở lại trong quân nửa
tháng rồi ốm chết. Trường quốc công rất thương xót, cấp tiền bạc, gấm vóc điều
phúng, sai người đem về quê nhà làm lễ an táng.
Bấy giờ Trường quốc công đã
lấy được hai xứ Sơn Tây và Sơn Nam, lập được công lớn, bèn đem quân về đóng
doanh ở phủ Yên Trường, trấn Thanh Hoa[60],
sai quan đem lễ vật đến bái yết lăng điện các vua triều trước. Trường quốc công
cùng các quan văn võ vào triều bái yết kiến thiên tử ở thềm son. Vua xuống dưới
thềm vỗ về úy lạo, nói rằng:
- Khanh năm nay dẹp yên hung
đồ, quét trừ ngụy đảng, chinh chiến vất vả, công lao thật to lớn, trẫm không
biết lấy gì báo đáp. Công của khanh dẫu là kẻ anh hùng thời xưa cũng khó sánh
tà.
Trường quốc công vái tạ tâu
rằng:
- Thần đội nhờ uy đức bệ hạ,
dựa vào các tướng hùng cường, ba quân sắc mạnh, thành công ngày nay không phải
do tài năng của thần, thần đâu dám được nhận lời ban khen của thánh thượng!
Vua nghe tâu, cười bảo rằng:
- Từ xưa đã có câu “Hữu đức
bất cư, hữu công bất phạt”[61] ấy
là nói về khanh đấy.
Trường quốc công vái tạ, vua
bèn sai mở yến tiệc thưởng công, úy lạo các tướng, khao đãi ba quân. Yến tiệc
xong, các tướng ai nấy đều trờ về bản doanh.
[60] Phủ Yên Trường: Nơi đóng hành doanh của triều Lê
trung hưng (nay là huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
[61] “Hữu đức bất cư, hữu công bất phạt”: có
nghĩa là có đức không tranh, có công không khoe.
Từ đó đô tướng Trường quốc
công Trịnh Tùng truyền lệnh cho các tướng luyện tập quân sĩ, chuẩn bị chiến cụ
và binh lương đủ dùng trong khoảng hơn sáu bảy tháng. Thượng tuần tháng tám có
tướng Mạc là Bùi Văn Kháng tìm đến quân doanh của đô tướng thưa rằng:
- Cha thần là Sơn quận công
Bùi Văn Khuê người huyện Gia Viễn[62] làm
tướng nhà Mạc. Vì thấy vua Mạc Hồng Ninh bản tính say đắm tửu sắc, giết hại
trung thần lương tướng, tin dùng bọn xiểm nịnh gian tà, liệu thế nhà Mạc tất
không được lâu. Nay nghe tin thánh chúa ở Biện hương[63] là
người nhân từ độ lượng, nạp sĩ chiêu hiền, thiên hạ kéo nhau theo về. Cha thần
đã quyết chí đến hàng. Không ngờ cơ mưu không kín, bị đồ đàng họ Mạc dò biết,
sai người hãm hại vây bức ở Điềm Giang[64].
Cúi xin chúa công sai quân đến cứu cho cha thần thoát về, thần nguyện hết lòng
dương khuyển, trổ lực ngựa hèn, bết đất gan óc để đền đáp ơn đức chúa thượng,
thề giữ vẹn đạo vua tôi.
[62] Gia Viễn: Tên huyện thuộc Ninh Bình cũ, nay
là Hà Nam Ninh.
[63] Biện hương: tức xã Biện Thượng thuộc huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
[64] Điềm Giang: Có lẽ là con sông chảy qua làng
Điềm Xá, huyện Gia Viễn (Hà Nam Ninh).
Nghe Bùi Văn Kháng nói,
Trường quốc công cả mừng bèn sai thái phó Vinh quốc công đem quân đến đóng ở
bãi Lĩnh. Quân Mạc dò biết phải trốn về. Quận Sơn Bùi Văn Khuê thấy quân Mạc
chạy tan, vội dẫn quân tùy tùng xông ra, tìm đến trại quân của Vinh quốc công.
Hai người gặp gỡ chào hỏi nhau xong, bèn cùng về yết kiến Trường quốc công.
Sơn quận công Bùi Văn Khuê
đến trước trướng vái chào, trần tình đầu đuôi việc mình bị vây khốn. Trịnh Tùng
vui mừng sai mở tiệc khoản đãi, ban cấp cho Văn Khuê rất trọng hậu. Quận Sơn
đứng dậy vái tạ, thưa:
- Cúi xin minh công lại một
phen xuất phát thiên binh, thần xin dẫn đường đi bắt Mạc Hồng Ninh dâng nộp để
lập công khởi tiến.