Bản du ca cuối cùng - Phần I - Chương 05

Chương 5

Kern ngồi trên bờ tường
của một nghĩa trang Do Thái, đếm tiền. Suốt buổi sáng anh đã đi bán dạo ở
Heiligenkreuzberg. Đây là một khu phố nghèo nàn, nhưng Kern biết rằng sự nghèo
khổ dễ đưa tới cảm thông và độ lượng. Anh đã kiếm được ba mươi tám “cuaron”.

Anh cho
tiền vào túi và cố đọc thử tên của người chết trên mộ bia tróc lở. Anh nói một
mình:

- Rubbi
Israel Love, ông là một học giả uyên thâm, ông đã đi vào cõi thời gian vô tận,
thân xác của ông chì là một đống xương đang mục rữa trong lòng đất nhưng chắc
chắn ông vẫn có một linh hồn. Vậy hãy cho tôi biết tôi cần phải làm gì? Trở về
phòng ngay hay tiếp tục đi bán để có được năm chục “cuaron”.

Kern
lấy ra một đồng tiền rồi nói tiếp:

- Dầu
sao thì người chết cũng linh thiêng. Nếu đồng tiền úp sấp thì tôi đi bán nữa,
nếu ngửa thì tôi sẽ về phòng.

Kern
ném đồng tiền lên cao, toan bắt lấy nhưng chụp hụt. Đồng tiền rớt trên lưng
ngôi mộ. Kern reo lên:

- Sấp!
Thế là chính ông khuyên tôi đi bán nữa, ông Rabbi!

Và Kern
hăm hở đi về phía một tòa nhà gần đó. Anh dừng lại một lúc ở cầu thang. Chẳng
thấy ai, anh lẳng lặng lên tầng trên. Một người đàn bà đi ngang qua, nhìn thấy
chiếc cặp da đựng các món bán rong của Kern, vội vàng quay trở lại phòng, khép
cửa thật mau.

Kern gõ
cửa một căn phòng khác. Một người đàn ông mặc áo không gài nút ngực ló đầu ra.
Kern chưa nói hết câu thì ông ta gắt lên:

- Bán
dầu thơm? Mỹ phẩm? Cậu có biết đọc không? Biết hả? Vậy mà còn dám rao hàng
trước một đại diện thương mãi cho hãng Andrea. Thôi, đi chỗ khác mau.

Cánh
cửa đóng sầm lại. Kern đánh diêm quẹt lên và soi vào tấm bảng đồng gắn ở cửa.
Vậy là đúng quá rồi. Người chủ căn phòng nafy là Joseph Schimek, chuyên bán sỉ
nước hoa và xà bông thơm.

Kern
lắc đầu lẩm bẩm:

- Thế
này là sao đây, ông Rabbi? Đã có sự hiểu lầm giữa kẻ chết và người sống hay
sao?

Kern
nhấn chuông phòng thứ ba. Một người đàn bà to lớn. Có vẻ phúc hậu ra mở cửa.
Vừa thấy Kern, bà ta vồn vã ngay.

- Mời
cậu vào. Chắc cậu là người Đức? Dân tị nạn hả? Vào đi, mời cậu.

Kern
theo bà ta vào trong nhà bếp.

- Ngồi
xuống đó đi, chắc cậu mệt lắm?

- Dạ
cũng không mệt bao nhiêu.

Kern
vừa nói vừa khoan khoái ngồi lên một chiếc ghế. Đây là lần đầu tiên ở Prague,
anh được mời ngồi. Anh chợt nhớ tới người chết tên Rabbi.

- Xin
lỗi ông, tôi hãy còn quá trẻ, ông Rabbi… Xin lỗi…

Kern
bày mấy chai nước hoa và mấy bánh xà bông thơm lên mặt bàn. Người đàn bà đứng
khoanh tay, lẳng lặng nhìn. Chờ Kern chất hết các món trong cặp ra, bà ta chỉ
một cái lọ con:

- Phải
dầu thơm không?

- Dạ
phải.

Kern
trông đợi người đàn bà chú ý tới xà bông thơm hơn là nước hoa. Tuy thế, anh vẫn
không mấy ngạc nhiên, lại còn hãnh diện giới thiệu:

- Dạ,
đây là hiệu nước hoa danh tiếng hiệu Farr của xưởng chế tạo Kern. Các loại nước
hoa khác, chẳng hạn như của xưởng Andrea mà ông Schimek ở đây làm đại diện,
không thể so sánh được.

- Ủa,
thật vậy sao?

Kern mở
nút chai, đưa cho người đàn bà ngửi. Anh phết một chút nước hoa lên lưng bàn
tay sần sùi của bà ta.

- Bà cứ
thử thì biết.

Người
đàn bà đưa lên mũi, cười hềnh hệch:

- Thơm
lắm. Nhưng cậu chỉ có chai nhỏ cỡ này thôi sao?

- Còn
một chai lớn đây. Nhưng phải tới bốn chục cua-ron.

- Không
sao. Tôi thích chai lớn. Cho tôi chai đó đi.

Kern
không tin ở tai mình. Nếu bà ta chịu mua với giá đó thì anh lời trọn mười tám
cua-ron. Anh vui vẻ nói mau:

- Nếu
bà lấy chai lớn, tôi sẽ tặng bà một cục xà bông hạnh đào.

- Vậy
hả? Tốt lắm, tôi cũng thích xà bông thơm.

Người
đàn bà mang chai nước hoa và cục xà bông vào buồng bên cạnh. Kern cho đồ đạc
vào cặp. Mùi thịt bầm thơm phứt và béo ngọt từ đâu đó xông ra. Kern quyết định
đêm nay sẽ ra quán ăn một bữa thật ngon. Món súp ở trại tạm cư đã làm anh chán
ngấy.

Người
đàn bà trở lại, nói với Kern:

- Cảm
ơn cậu nhiều lắm. Xin biếu cậu một ổ bánh mì thịt nguội để ăn đi đường.

Kern
đứng lên:

- Cám
ơn bà.

- Có gì
đâu. À, cậu còn cần gì nữa?

- Bà
quên cho tiền…

Mặt
người đàn bà nhăn lại:

- Tiền,
tiền gì?

- Dạ,
tiền chai dầu thơm.

Mụ to
béo vụt quay nhìn sang buồng bên, tru tréo:

-
Anton! Ra đây coi nè! Có cậu bé này định vòi tiền đây!

Một gã
đàn ông mình trần từ buồng bên cạnh bước ra. Hắn đang nhai ngồm ngoàm và dùng
lưng bàn tay chùi miệng. Hắn nhìn lườm lườm vào mặt Kern và hỏi giọng khàn
khàn:

- Tiền
hả? Tiền cái gì?

- Tiền
mua chai nước hoa. Nếu cho là đắt thì trả lại. Tôi tặng luôn cục xà bông.

Người
đàn ông lừ lừ bước tới:

- Nè,
biết tao là ai không? Lại đây coi, bé con – mở toang ra và chỉ vào một bộ đồng
phục máng trên lưng ghế:

- Biết
cái gì đó không? Hay là đợi tao tiễn chân tới bót.

Kern
lùi lại. Anh nghĩ ngay tới mười lăm ngày tù về tội hành nghề thương mãi bất hợp
pháp. Tuy nhiên, anh cố trấn tĩnh:

- Tôi
có giấy lưu trú đàng hoàng…

Nhưng
gã bất lương cũng không vừa:

- Có
giấy lưu trú? Mặc! Có giấy hành nghề không? Đưa đây coi.

- Tôi
để ở khách sạn.

- Được.
Vậy đi với tao về khách sạn… hay là để chai dầu thơm lại đây…

Kern đã
bước lui tới cửa:

- Thôi,
cứ để đó.

Mụ to
béo cười teo toét:

- Cậu
lấy khúc bánh mì theo chớ.

Kern mở
cửa:

- Cám
ơn, bà cứ giữ mà dùng.

Kern xô
ập cánh cửa rồi phóng vọt xuống thang lầu. Một tràng cười nhạo báng đuổi theo
anh và tiếng nói như bò rống của mụ to béo:

- Nó
chạy cũng mau như thằng cha Do Thái hồi chiều.

Kern
chạy thẳng ra ngoài trong khi mụ to béo ôm bụng cười:

- Nó
tưởng anh là cảnh sát…

Gã bất
lương xỉa răng bằng móng tay:

- Bọn
nó hễ thấy đồng phục là chạy trối chết, dầu chỉ là đồng phục của người phát
thơ. Có đám tị nạn đó, mình cũng đỡ…

Hắn vừa
nói vừa chụp vào bộ ngực đồ sộ của mụ vợ.

***

Kern đi
như người mất hồn về phía nghĩa trang. Anh đứng lại, nhìn ngôi mộ lúc nãy và
lẩm bẩm:

- Rabbi
ơi, ông hại tôi rồi. Thế là mất toi bốn chục cua-ron với cục xà bông. Chúng nó
nuốt sống hai mươi bốn cua-ron vốn rồi, Rabbi ơi.

Kern
trở về lữ quán. Anh hỏi gã gác cửa:

- Có ai
hỏi tôi không?

- Chẳng
có ma nào cả.

- Chắc
không?

- Cả
ông Tổng thống cũng không tới.

Kern
không trả lời. Anh đi thẳng lên lầu hơi lấy làm lạ là chẳng được một tin tức
nào của cha mình. Có thể ông không còn ở căn nhà đó mà cũng có thể là ông đã bị
bắt rồi.

Kern
quyết định chờ thêm vài ngày nữa rồi tới bà Ekowski.

Vừa
bước vào phòng anh gặp ngay người đàn ông đã mớto đêm qua. Ông ta tên Rabe,
đang sửa soạn thay đồ ngủ. Kern hỏi:

- Chưa
chín giờ mà ông định ngủ à?

Rabbe
gật đầu:

- Ngủ
sớm để tới khuya thức dậy luôn. Đó là giờ mà tôi thường gặp ác mộng. Ở tù cứ
nửa đêm là thức rồi ngồi luôn hai ba tiếng đồng hồ. Bây giờ phải tập dậy nửa
đêm, ngồi một lúc rồi uống thuốc an thần. Có vậy mới không nằm mơ.

Ông ta
để ly nước bên cạnh giường rồi nói tiếp:

- Cậu
có biết lúc thức dậy, tôi tự trấn an bằng cách gì không? Tôi đọc nhẩm lại những
bài học thuộc lòng lúc nhỏ.

Kern
ngạc nhiên:

- Bài
học thuộc lòng?

- Đúng
vậy. Chẳng hạn như bài hát ru này:

Đêm đêm
lên giường ngủ,

Thấy
Cha tôi trên trời,

Ánh mắt
ngời thánh thiện,

Soi
sáng tâm linh tôi.

Lạy Cha
con đắc tội,

Phước
Cha tựa biển trời,

Máu
Jesus Christ đổ,

Tin
lành đến muôn nơi…

Như một
bóng ma hiền dịu, ông ta đứng bất động giữa phòng khẽ ngâm lại những câu thơ
tiểu học. Bên ngoài là bóng đêm thầm lặng đóng khung trong vuông cửa sổ. Ông ta
cười thiểu não:

- Những
bài hát ru loại đó làm tôi thấy yên tâm. Chẳng biết tại sao…

Kern
nheo mắt lại, giọng anh cũng trở nên ảm đạm:

- Có
những điều mình không bao giờ biết.

- Kể ra
cũng lạ. Cứ mỗi lần ngâm nga như thế là tôi thấy như đã tìm được một nơi trú ẩn
an toàn.

Kern
bắt đầu cảm thấy khó chịu. Anh có cảm giác đang sởn da gà:

- Tôi
thì quên mất cả. Tôi có cảm tưởng như đã bỏ trường cả thế kỉ.

- Tôi
cũng có nhớ gì đâu. Nhưng rồi thình lình những bài học thuộc lòng kiểu đó hiện
tới, không mất một câu, một chữ.

Kern
gật đầu và đứng lên. Anh muốn ra ngoài để Rabbe ngủ và để khỏi bận tâm về ông
ta.

- Bây
giờ, lúc rảnh rỗi tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Đó là thời gian nặng nề nhứt
trong ngày. Lâu lắm, tôi chẳng hề đọc sách. Còn ngồi lại để nhắc nhớ những ngày
vui sống ở quê nhà thà chết còn hơn.

Rabe
ngồi xuống giường:

- Hay
là cậu đi xi-nê. Xem xong rồi là chẳng còn nhớ gì nữa cả nhưng dầu sao vẫn còn
hơn để đầu óc trống rỗng.

- Xem
xi-nê?

Kern
vừa hỏi vừa nghĩ tới chuyện mời thiếu nữ phòng bên cạnh cùng đi.

- Ông
biết hết những người trong lữ quán này chớ?

Rube
tháo vớ ra và cử động mấy ngón chân:

- Biết
một vài người. Chi vậy?

Ông ta
nhìn những ngón chân như chưa bao giờ thấy chúng. Kern trả lời bằng một câu
hỏi:

- Ông
có biết mấy người ở phòng bên không?

Rabbe
nhíu mày suy nghĩ:

- Có
biết bà Schimanowska. Một nữ tài tử tiền chiến.

- Tôi
muốn hỏi người kia…

Người
mang kính từ nãy giờ vẫn im lậng bỗng lên tiếng:

- Cậu
muốn nói cô Ruth Holland chớ gì. Có đúng thế không, Don Fuan?

Kern đỏ
mặt. Người mang kính tên Marill, một cựu dân biểu ở Reistag, tiếp tục chọc phá:

- Kể
cũng lạ, người đời thường hay đỏ mặt khi đề cập tới những chuyện rất tự nhiên.
Trái lại, rất ít người chịu nhíu mày lúc tưởng tượng tới những điều bỉ ổi. Sao,
hôm nay làm ăn thế nào?

- Đại
họa. Mất luôn cả vốn.

- Đã lỡ
mất thì cho mất luôn một ít nữa cũng chẳng sao. Đó là phương cách tốt nhất để
khỏi bị mặc cảm.

Kern
nói mau:

- Tôi
cũng đang tính như thế. Định đi xi-nê.

- Hoan
hô. Chắc với cô Ruth Holland?

Kern
ngập ngừng:

- Chắc
là … mà không biết… tôi chưa quen…

- Làm
thế nào quen nhau được khi vẫn chưa chịu làm quen? Mạnh dạn lên! Sự can đảm là
viên ngọc quý nhứt của tuổi trẻ.

- Theo
ông, thì cô ấy có bằng lòng không?

- Phải
bằng lòng chớ. Sống dai dẳng trong sợ sệt và lo âu, người nào mà không thèm đôi
phút giải trí. Tiến tới đi.

Rabe
nói chen vào:

- Nên
xem ở rạp Rialto. Phim Maroc. Cảnh nước ngoài càng thơ mộng, mình càng dễ quên
lãng.

Marill
tán đồng:

- Xứ
Maroc. Nên lắm, nhứt là với các thiếu nữ.

Rabe
cuộn tròn vào chăn:

- Lắm
lúc, tôi ước mong được ngủ luôn một giấc mười năm.

Marill
hỏi:

- Người
bạn có ước ao gia thêm mười tuổi nữa không?

Rabe
nhìn ông ta:

-
Không. Nếu vậy thì con cái tôi đã lớn cả rồi.

Kern gõ
cửa phòng người bên cạnh. Có tiếng người bên trong trả lời. Kern xô cửa và dừng
sững lại ngay. Đối diện Kern là nữ tài tử lão thành Schimanowska, mặt như chim
cú. Những nếp nhăn được trát phấn quá dầy trông như một vùng núi non lởm chởm
đang bị tuyết phủ. Hai mắt đen, sâu hoắm chiếu thẳng vào mặt Kern như sắp vồ
mồi, Kern có cảm tưởng bà ta sắp nhảy bổ tới. Nhưng cô đào già bỗng nhăn cười
và gượng hỏi với giọng đặc sệt sân khấu:

- Người
bạn trẻ muốn tìm ai?

- Tôi
muốn nói chuyện với cô Ruth Holland.

Nụ cười
biến mất, tiếp theo là giọng hầm hừ:

- À…
à...

Kern
không buồn để ý. Anh nhìn vào trong. Ruth Holland đang ngồi đọc sách trên
giường. Kern nhận ra đó là chiếc giường mà đêm qua anh đã tới lầm. Máu như dồn
cả lên mặt anh.

- Tôi
xin phép được nói chuyện với cô.

Ruth
đứng lên, theo Kern ra hành lang. Phía sau họ là hơi thở ồ ồ của bà
Schimanowska.

Kern
bỗng thấy mình nói dối gọn lỏn:

- Tôi
có hai vé hát, định mời cô…

Nhưng
thấy Ruth nhìn sừng sững mình, Kern hơi hoảng:

- Hay
là cô đã có thú tiêu khiển khác?

Ruth
lắc đầu:

-
Không, tôi chẳng có dự định nào cả.

Kern
hớn hở:

- Vậy
thì xin mời cô cùng đi với tôi. Chẳng lẽ cô cứ ở mãi trong phòng…

- Tôi
đã quen như vậy rồi.

- Tôi
thì không thể nào chịu được. Cứ ngồi như thế chừng hai mươi phút là tôi muốn
điên lên, nhứt là cùng ở chung với bà ấy.

Cô gái
cười:

- Coi
vậy mà bà ta cũng tốt bụng.

Kern
cũng cười:

- Có
thể. Nhưng mặt bà ta khó đăm đăm, cứ thấy là ớn lạnh. Phim sẽ chiếu trong mười
lăm phút nữa, cô đi chớ?

Ruth
nhìn xa:

- Vâng
nếu anh có sẵn vé.

Tới rạp
Kern hối hả mua hai vé. Lúc nãy anh sợ Ruth nói dối nhưng bây giờ sự lo nghĩ đó
không còn làm anh bận tâm. Chỉ cần có người đẹp bên mình là đủ.

Họ vào rạp lúc phim đang chiếu cảnh Marra-rakech. Một
vùng đất huy hoàng, hùng vĩ hiện trên màn bạc. Mặt trời chói sáng, một khoảng
sa mạc rạng ngời, và tiếng sáo kì diệu, tiếng trống rập rình của đêm huyền ảo
Phi châu.

Ruth
thu gọn người trong lòng ghế. Chuỗi âm thanh huyền hoặc, ấm áp như một cơn mưa
rào mùa xuân… từ đó kỉ niệm hiện ra…

Ruth
đang đứng trước một cái hố của lâu đài Nurembourg. Trời tháng tư. Trước mặt
nàng, trong bóng tối, là sinh viên Herbert Billing.

- Ruth
có hiểu tôi muốn nói gì không?

- Hiểu
lắm, Herbert. Chẳng có gì khó hiểu.

Billing
vò vò báo trong tay:

- Họ
đăng báo bảo tôi là đồ Do Thái. Thế là hết.

- Vâng.

- Tôi
đang tìm cách thoát. Nhưng ác hại là đã có tên trên báo, mọi người đều biết,
Ruth hiểu không?

- Hiểu
lắm. Nhưng tên tôi cũng có tên trên báo.

- Nhưng
với Ruth thì khác hơn. Ruth vẫn có thể trở lại Đại học.

- Vâng.

- Như
thế là hết rồi phải không? Chúng mình mỗi đứa đi một ngả.

- Vĩnh
biệt, Herbert.

Ruth
quay đi ngay, Hebert nói mau:

- Khoan
Ruth, đợi một chút.

Ruth
dừng lại. Hebert bước tới, dứng sát bên đến nỗi Ruth nghe rõ cả hơi thở của anh
ta

- Bây
giờ Ruth định đi đâu?

- Về
nhà.

Hơi thở
của Herbert dồn dập hơn:

- Chúng
mình đã đồng ý xa nhau, phải không? Nhưng mình… vẫn có thể… đêm nay tôi ở nhà
một mình, Ruth hiểu chớ, không ai thấy mình - Herbert nắm tay Ruth – Mình không
thể chia tay suông thế này…

- Thôi,
anh đi đi!

Herbert
ôm lấy vai cô gái:

- Ruth,
nghe anh.

Khuôn
mặt mà Ruth hằng yêu mến chợt trở nên quái dị, Ruth tát mạnh vào sự quái dị đó.
Nàng vừa khóc vừa hét:

- Đi
đi! Đi ngay đi!

Billing
sửng sốt:

- Sao?
Ruth đánh tôi? Lạ thật.

Billing
muốn nhảy xổ tới. Ruth lại hét to:

- Đi ngay
đi!

Billing
hoảng sợ nhìn quanh:

- Câm
miệng! Cô định làm cho cả khu phố này đổ ra chống lại tôi, hả? Đồ khốn! Được
rồi, tôi đi đây. Tôi sẽ xa cô, xa rời cô vĩnh viễn…

Khi
tình đã chết, tiếng hát của người thiếu phụ trên màn ảnh trầm ấm quyện trong khói
thuốc của một quán rượu Maroc. Ruth Holland đưa tay sờ trán…

Tiếp
sau là cuộc tình đổ vỡ đó, Ruth chẳng thấy có gì quan trọng cả. Sự sợ hãi của
thân quyến nàng, những lơi nhắc đi nhắc lại của ông chú thúc hối nàng ra đi vì
sợ liên lụy, một bức thư nặc danh hăm dọa, nếu nàng không đi trong vòng ba hôm
thì sẽ bị cạo trọc đầu, bị đem ra giữa phố với hai tấm biểu ngữ đeo ở ngực và
lưng tố cáo là người của chủng tộc thối nát. Rồi chuyến viếng thăm ngôi mộ mẹ,
đứng cầu nguyện trong nghĩa trang quân đội trước danh tánh của người cha, đã hi
sinh vì đất nước. Bị bôi xóa chỉ vì cái tội đã là dân Do Thái. Và cuối cùng là
cuộc ra đi hối hả và đơn độc với một ít nữ trang còn sót lại, vượt biên giới
sang Prague…

Tiếng
sáo và tiếng trống Phi Châu lại nổi lên, bị lấn át bởi một khúc quân hành của
quân Lê Dương, Những tiếng kèn đồng vang rền sa mạc của những kẻ chiến đấu
không nhà, không tổ quốc.

Kern
nghiêng người sang Ruth:

- Phim
khá chớ?

- Không
tệ lắm.

Kern
cho tay vào túi lấy ra một lọ nước hoa nho nhỏ đưa cho Ruth:

- Ở đây
nóng bức, xức một ít nước hoa cho dễ chịu.

- Cám
ơn anh.

Nàng
nhỏ vài giọt nước hoa vào trong lòng bàn tay. Kern không nhìn thấy nước mắt
người con gái ngồi bên cạnh. Lại có lời “cám ơn” như một tiếng thở dài.

Stainer
tới quán Hallebarde lần thứ hai. Anh ta nhét vào tay gã hầu bàn một tờ giấy bạc
Đức kim và gọi một tách cà phê. Gã hầu bàn hỏi:

- Ông
cần điện thoại?

Steiner
gật đầu. Mấy lúc sau này, anh ta đã dở hết nghề đánh bạc lận tại nhiều quán
khác nhau và đã kiếm được tất cả khoảng năm trăm si linh.

Gã hầu
bàn mang tới một chồng báo. Steiner chọn một tờ nhưng rồi lại bỏ xuống ngay.
Những gì xảy ra trên thế giới không còn làm anh bận tâm. Mối bận tâm và vấn đề
duy nhứt của một kẻ đang lặn sâu dưới nước là làm thế nào để ngoi đầu lên. Màu
sắc và hình thù của loài thủy tộc chung quanh chẳng có gì đáng nhìn ngắm cả.

Gã hầu
bàn mang cà phê và một ly nước tới:

- Mấy
ông đó sẽ có mặt trong vòng một tiếng đồng hồ.

Gã vẫn
còn đứng đó một lúc gạ chuyện:

- Trời
hôm nay đẹp.

Steiner
gật đầu. Mắt anh chạm vào một mẫu quảng cáo dán ở tường khuyên nên uống bia để
sống lâu.

- Cho
tôi một ly Kirsh.

- Có
ngay.

- Thêm
một ly cho người anh em luôn.

Gã hầu
bàn nghiêng mình tỏ dấu hiệu cám ơn:

- Ông
điệu quá. Ít người được như ông.

Steiner
hững hờ:

- Tôi
đang buồn. Chỉ có vậy thôi.

- Nhưng
có những người cũng buồn mà không điệu. - Mang bia tới, gã hầu bàn cùng uống
bia với Steiner.

Gã gãi
trái cổ như muốn làm thông giọng:

- Tôi
biết ông tới đây để làm gì. Nếu ông cho phép, tôi xin có lời khuyên là nên chọn
một người Áo đã chết. Cũng có những người Rumani chết, rẻ tiền hơn, nhưng ít ai
nói tới chuyện đó.

Steiner
nhìn thẳng vào mắt gã hầu bàn. Gã rời tay khỏi trái cổ và bắt tay gãi gáy:

- Tốt
hơn hết là một người Anh hay người Mỹ. Nhưng có người Mỹ nào chịu chết ở đất Áo
đâu mà có giấy thông hành?

Steiner
suy nghĩ:

- Giấy
thông hành của một người Đức tốt hơn, người Áo khó kiểm soát hơn.

- Có
thể. Nhưng ông lại không được cấp giấy phép hành nghề. Chỉ được lưu trú thôi.
Với một người Áo chết, ông có thể làm việc bất cứ nơi nào trên đất Áo.

- Cho
tới khi bại lộ và bị bắt?

- Dĩ
nhiên. Nhưng dễ gì…

Gã hầu
bàn mân mê chóp mũi:

- Tôi
chỉ nói để giúp ý kiến thôi. Một người Áo bao giờ cũng tiện lợi hơn.

Khoảng
mười giờ, hai tay buôn giấy thông hành tới quán. Người nho nhỏ, mắt sáng quắc,
chuyên về phần thương lượng trong khi người to lớn chỉ ngồi lặng yên theo dõi.

Người
nhỏ thó rút một tờ thông hành Đức ra:

- Tôi
đã hỏi kĩ mấy người bạn có thẩm quyền của chúng tôi. Ông có thể lấy giấy này
với tên họ của ông. Sẽ có người phụ trách tẩy xóa dấu hiệu riêng rồi điền vào
các dấu hiệu riêng của ông. Dĩ nhiên là sinh quán vẫn để nguyên, vẫn phải là
Ausbourg vì con dấu ở đó. Trong trường hợp này phải trả thêm hai trăm Đức kim.
Công việc hoàn toàn chíng xác, ông hiểu chớ?

Steiner
dựa vào lưng ghế:

- Tôi
không có nhiều tiền. Vả lại, tôi không cho vấn đề giữ được tên họ của mình là
quan trọng.

- Vậy
thì cứ để nguyên. Chỉ cần đổi tấm hình thôi. Chúng tôi sẽ phụ trách đóng dấu
lên ảnh, không đòi thêm gì cả.

- Nhưng
vô ích. Tôi cần phải làm việc vơi thẻ thông hành Đức, người ta không cho giấy
phép hành nghề.

Người
to lớn nhún vai. Anh chàng nhỏ thó thở ra:

- Vậy
chỉ còn giấy thông hành người Áo.

- Nhưng
nếu người ta điều tra ra?

- Làm
gì có chuyện đó trừ khi chính ông không kín miệng.

Steiner
nói giá:

- Ba
trăm si linh.

Giựt
nhổm người, anh chàng nhỏ thó ra chiều khó chịu:

- Chúng
tôi không hề nói thách. Nghề nghiệp mà. Năm trăm Đức kim, không bớt một đồng
xu.

Steiner
không đáp. Anh chàng nhỏ thó nói một hơi:

- Với
thẻ thông hành Đức thì còn kì kèo được vì thỉnh thoảng chúng tôi cũng có mối.
Nhưng thông hành Áo là vật hiếm có. Ít khi có người Áo nào cần giấy thông hành.
Năm trăm si linh, chắc một lời.

- Ba
trăm năm chục.

- Ba
trăm năm chục vừa đủ khoản tiền mà chúng tôi đã trả cho gia đình người chết. Và
đó không phải là chuyện dễ làm và ít tốn kém đâu! Còn tiền sở phí… Đối với
người quá cố, mình cũng phải trọng nể, phải không ông? Muốn có được giấy tờ của
một người nằm yên trong mồ mả, chúng tôi phải trả ngay tiền mặt cho gia đình
ông ta. Chỉ có tiền mặt mới là lý do chính đáng để an ủi sự đau buồn. Tuy
nhiên, trông ông là người người đàng hoàng, dễ mến, chúng tôi có thẻ bằng lòng
với giá bốn trăm năm chục. Nhưng làm như thế tức là đi ngược lại quyền lợi của
chúng tôi.

Hai bên
còn mặc cả một lúc lâu trước khi cũng bằng lòng giá bốn trăm Đức kim. Steiner
lấy một tấm ảnh vừa mới chụp ra trao cho họ.

Cả hai
tay buôn mang tấm ảnh đi. Một giờ sau, họ trở lại với tấm thẻ thông hành có dán
ảnh của Steiner và đã được đóng dấu lên trên. Steiner trao đủ tiền cho anh
chàng phát ngôn. Anh ta ra điều thân tín:

- Chúc
ông bạn may mắn. À, tôi cần dặn thêm. Khi nào hết hạn, ông bạn cứ đến để chúng
tôi sửa lại. Dễ lắm. Chuyện khó là xin chiếu khán.

- Hay
là mình làm ngay lúc này đi.

Anh
chàng phát ngôn lắc đầu:

- Cứ để
nguyên như thế tốt hơn. Ông bạn hiện đang có một thẻ thông hành đích thực. Đổi
ảnh không bị tội nặng bằng giả mạo văn tự. Vả lại, hiệu lực còn tới cả hơn một
năm nữa. Trong thời gian đó, biết bao nhiêu chuyện sẽ xảy ra. Biết đâu…

- Hi
vọng như thế.

- Ông
bạn nhớ giữ kín cho. Chúng tôi chỉ dặn hờ thế thôi. Vì quyền lợi của đôi bên.
Chào ông bạn.

- Chào
các bạn.

Gã to
lớn mở miệng lần đầu tiên:

-
Streecz miecze.

Anh
chàng nhỏ thó cười giải thích:

- Anh
ta không biết tiếng Đức, nhưng rất phù thủy về những con dấu. Nghề nghiệp mà.

Steiner
ra nhà ga. Anh ta đã gởi chiếc túi đeo ở đó. Hôm qua, anh đã rời nhà trọ và ngủ
đêm trêm một cái ghế đá ở công viên. Buổi sáng, anh cạo râu trong phòng vệ sinh
tại nhà ga rồi mới chụp hình lấy liền.

Bây
giờ, với tấm thông hành mới mua anh trở thành một công nhân tên Fohann Gruber.

Được
một quãng đường, Steiner bỗng dừng lại. Còn một việc phải thanh toán trong khi
anh ta muốn còn tự gọi với tên Steiner. Anh ta vào một buồng điện thoại bấm
“Leopold Schafer, 27, Truteraugasse”. Anh không bao giờ quên tên kẻ đã đánh
mình hôm Kern cùng bị bắt. Anh ta quay số vừa tìm thấy. Có tiếng đàn bà trả
lời. Steiner hỏi:

-
Schafer có nhà không?

- Dạ
có, để tôi gọi.

Steiner
nói mau:

- Thôi
khỏi. Đây là trụ sở Cảnh sát Elisabeth Promenade. Đêm nay có hành quân. Bảo
Schafer trình diện mười lăm phút trước nửa đêm. Hiểu chưa?

- Dạ
hiểu, mười hai giờ thiếu mười lăm.

- Tốt.

Steiner
móc máy vào.

Trautegunasse
là một con đường nhỏ hẹp và thưa vắng, chỉ lèo tèo một ít ngôi nhà cũ kĩ, đa số
là dân trung lưu. Steiner quan sát cẩn thận căn nhà mang số 27. Căn nhà cũng
chẳng khác gì bao nhiêu nhà khác cùng một con đường nhưng Steiner lại thấy thù
ghét nó lạ lùng. Anh ta ngược lại một quãng đường và đứng đợi.

Một lúc
sau, Schafer ra khỏi nhà với điệu bộ của một nhân vật quan trọng. Steiner đi
ngược chiều vừa đúng lúc gặp nhau ở một khoảng tối và đụng mạnh vào vai
Schafer.

Schefer
lảo đảo gượng đứng lại:

- Bộ
say rượu hả? Anh không thấy một chức việc đang mặc sắc phục đây sao?

- Xin
lỗi, tôi chỉ thấy có thằng chó má. Một thằng chó má, nghe rõ chưa?

Schafer
chưng hửng một lúc mới bình tĩnh lại:

- Mày
có điên không? Được, mày sẽ biết tay tao.

Hắn vừa
nói vừa rút súng ra. Nhanh như chớp, Steiner đá mạnh vào cườm tay, đồng thời
xông tới, tát vào mặt Schafer luôn hai cái như trời giáng.

Schafer
gầm lên, xóc tới. Steiner tránh gọn sang một bên, tung một cú đấm thẳng đánh
trúng vào mũi Schafer làm đổmáu. Vừa đánh, Steiner vừa nghiến răng:

- Thằng
chó má, quân đê tiện, dồ khiếp nhược!

Một quả
đấm kế tiếp trúng vào miệng Schafer. Schafer kêu to:

- Cứu
tôi, cứu tôi!

Steiner
bước tới:

- Cho
mày kêu.

Vừa
nói, anh ta bổ tiếp một quả đấm vào cằm bằng tay mặt và dùng ức bàn tay trái
chấn thẳng vào chấn thủy khiến Schafer ngã khuỵu.

Vài
cánh cửa bên đường vụt mở ra. Có người hỏi:

- Chuyện
gì vậy?

Steiner
từ trong bóng tối đáp:

- Một
gã say rượu.

Người
vừa hỏi bực tức:

- Lại
say sưa làm náo loạn cả phố. Đem nó tới bót đi.

- Đúng
vậy. Để tôi dìu hắn đi.

Các cửa
sổ lần lượt khép lại. Steiner vọt chạy về phía góc đường. Anh ta tin chắc rằng với
khuôn mặt sạch sẽ và cạo nhẵn râu của mình, chắc chắn Schafer chẳng nhận ra,
nhứt là trong bóng đêm.

Tới một
con đường có nhiều xe cộ, anh đi chậm lại.

Trả thù
cũng là một khoái trá nhưng cũng là chuyện buồn nôn, nhứt là trả thù hắc ám.
Tuy nhiên, anh nghĩ tiếp, dầu sao nó cũng đền bù được phần nào những năm dài
chạy trốn. Anh đứng dưới ánh sáng một ngọn đèn đường, rút giấy thông hành vừa
mua được lúc tối ra. Tấm ảnh là của anh nhưng tên họ lại là Johann Hubert.
Steiner nói thầm “Ông bạn đã chết và sẽ rã rục trong lòng đất Gratz. Còn tôi,
Johaph Steiner, tôi vẫn sống nhưng chẳng có giấy thông hành nên kể như đã chết.
Chúng mình trao đổi với nhau. Ông bạn cho tôi cuộc sống bằng giấy tờ, tôi hiến
ông bạn cái chết của một kẻ không căn cước. Khi mà những người sống không còn
muốn giúp đỡ nhau thì người chết đành phải làm công việc đó”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3