Chân dung một chàng trai trẻ - Chương II - Phần 1

Chương II.

Bác
Charles hút những điếu thuốc quấn màu đen nặng đến nỗi cuối cùng thì cậu cháu
trai của bác gợi ý bác nên vui vẻ với khói thuốc của mình trong một ngôi
nhà nhỏ ở cuối vườn.

-
Rất tốt, Simon. Phải đấy, Simon, - người đàn ông già đồng ý trong yên lặng. -
Bất cứ nơi đâu cháu thích. Hút thuốc ở nhà ngoài sẽ thích thú hơn cho ta: điều
này cũng tốt cho sức khỏe những người xung quanh.

-
Dở hơi thật. - ông Dedalus thẳng thắn nói - nếu tôi biết ông hút những điếu
thuốc tồi tệ chết người này. Nó giống như thuốc súng ý, chúa ơi.

-
Nhưng nó ngon lắm, Simon - bác Charles trả lời. - Rất dễ chịu và thư giãn.


thế, sáng nào cũng vậy, bác Charles đến ngôi nhà nhỏ ngoài đó để hút thuốc
nhưng chỉ sau khi bác ấy bôi keo và chải chuốt cẩn thận cái đầu với tóc vuốt ngược
ra sau và đội chiếc mũ ống lên đầu. Khi bác ấy hút thuốc, ta chỉ nhìn thấy vành
mũ của bác và đầu tẩu thuốc nhô ra ngoài. Lùm cây hóng mát là cách bác ấy gọi
cái nhà phụ hôi hám mà bác phải chia sẻ cùng một con mèo và những vật dụng làm
vườn: đây cũng là nơi bác coi là chỗ tập hát của mình. Sáng nào cũng
vậy, bác ấy hát vang một trong những bài hát ưa thích nhất đầy mãn
nguyện: bài Ôi, hãy quấn cho tôi một lùm cây hay bài Mái tóc vàng và đôi mắt
xanh hay bài Lùm cây nhỏ bé của những lời ngọt ngào, khi cuộn khói xanh lẫn xám
tỏa chậm chạp từ tẩu thuốc của bác và biến mất trong không trung.

Trong
suốt thời gian đầu hè ở Blackrock, bác Charles là một người bạn trung thành của
Stephen. Bác Charles là một ông già tráng kiện với nước cháy nắng, khuôn mặt
khắc khổ với tóc mai dài ở hai bên. Những ngày trong tuần, bác chuyển thông tin
từ những ngôi nhà ở đường Carysfort tới những cửa hàng trên những phố chính của
thị trấn. Stephen rất vui khi được đi cùng bác và làm những công việc lặt
vặt cho bác, giúp bác một cách vô tư và nhiệt tình trong mọi việc như bày hàng
trong những chiếc hộp mở cũng như đưa những chiếc thúng ra ngoài quầy hàng. Bác
ấy sẽ lấy một vốc tay đầy nho hoặc ba hay bốn quả táo Mỹ và giúi vào tay đứa
cháu trai của mình đầy hào phóng trong khi người chủ hiệu cười gượng ép. Còn
Stephen giả đò miễn cưỡng cầm lấy chúng, bác cau mày nói:

-
Cầm lấy chúng đi, cậu ấm. Cậu ấm có nghe tôi nói không? Chúng tốt cho cái bụng
cậu đấy.

Khi
đã có danh sách yêu cầu chuyển hàng, cả hai đi về phía công viên. Ở đó họ nhìn
thấy một người bạn cũ của cha cậu, bác Mike Flinn, đang ngồi trên chiếc ghế dài
dài trong công viên chờ hai bác cháu đi tới. Lát sau, Stephan sẽ chạy vòng
quanh công viên. Bác Mike Flinn đứng tại cổng gần sân ga tàu hỏa giám sát,
trong khi Stephen chạy vòng quanh theo đường ray trong niềm thích thú của bác
Mike Flinn. Khi buổi tập sáng kết thúc, huấn luận viên sẽ đưa ra những lời
nhận xét. Một vòng những đứa trẻ và cô trông trẻ xúm lại xem cậu và nấn ná ở
lại ngay cả khi cậu và bác Charles ngồi xuống và bàn luận về điền kinh và
chính trị. Mặc dù cậu đã từng được nghe cha cậu kể rằng bác Mike Flinn đã huấn
luyện vài vận động viên chạy giỏi nhất thời hiện đại, Stephen vẫn thường nhìn
vào khuôn mặt béo tròn đầy râu của huấn luyện viên của mình khi khuôn mặt đó
cúi xuống một chút nhìn những ngón tay ngấm màu thuốc lá nâu đen lâu ngày
của mình cuộn điếu thuôc lá. Đôi mắt xanh với một chút trắc ẩn của ông bất chợt
nhìn lên và ngờ ngợ nhìn vào không gian xa xăm khi những ngón tay dài
ngừng cuộn điếu thuốc và có vài sợi thuốc lá rơi từ đầu chiếc tẩu xuống
chiếc túi đựng thuốc lá nhỏ.

Trên
đường trở về nhà, bác Charles thường ghé qua nhà nguyện và do bình đựng
nước thánh ở ngoài tầm với của Stephen, nên người bạn già của cậu phải nhúng
tay vào bình nước và vẩy nước thánh vào quần áo của Stephen cũng như xuống
sàn của chiếc cổng vòm. Trong lúc bác Charles cầu nguyện, bác quỳ lên chiếc
khăn tay màu đỏ và đọc theo hơi thở những dòng chữ từ cuốn sách cầu nguyện
nhỏ trong đó những khẩu ngữ được in ở phần dưới của mỗi trang. Stephen thành
kính quỳ bên cạnh bác Charles mặc dù cậu không có chung lòng mộ đạo với người
bạn già của mình. Cậu thường băn khoăn tự hỏi không biết bác mình cầu nguyện
một cách nghiêm túc như vậy để làm gì. Có lẽ bác ấy cầu nguyện cho những linh
hồn đã chết đang hối lỗi hay lòng khoan dung cho một cái chết bình yên; hay là
bác cầu nguyện để Chúa có thể trả lại cho bác một phần của cải lớn mà bác đã
tiêu phung phí khi còn sống ở Cork.

Vào
những ngày Chủ nhật, Stephen cùng cha mình và bác Charles thường đi bách bộ.
Người bạn già đi bộ rất nhanh bất chấp những vết chai trên chân ông ấy. Mỗi lần
đi bộ họ thường đi được mười hoặc mười hai dặm. Ngôi làng nhỏ ở Stillorgan
là một chỗ ngoặt. Hoặc là họ rẽ trái đi về phía Dublin, hoặc là dọc theo con
đường Goatstown từ đó đi đến Dundrum, và trở về nhà trên con đường Sandyford.
Mệt mỏi lê bước trên đường hay đứng cạnh các quán rượu bụi bặm bên đường, những
người lớn tuổi của cậu liên miên bàn về các chủ đề chính trị của Ireland, về
Munster và về truyền thống của gia đình mình. Với mọi chủ đề, Stephen đều chăm
chú lắng tai nghe đầy say sưa. Những ngôn từ cậu không hiểu, cậu nói đi nói lại
với chính cậu cho đến khi có thể học thuộc lòng được chúng. Qua những câu
chuyện như vậy, cậu hình thành những ý niệm mơ hồ về thế giới thực tại xung
quanh cậu. Những lúc cậu tham gia vào cuộc sống đó, thế giới dường như kéo
gần lại và trong thâm tâm, cậu bắt đầu sẵn sàng cho một chặng đường dài đang
chờ đón cậu - cái thế giới bên ngoài mà cậu hiểu được rất mù mờ.

Buổi
tối là của riêng cậu. Cậu nghiên cứu bản phỏng dịch cuốn tiểu thuyết “Bá tước
Monte Christo.” Hình ảnh của người trả thù trong bóng tối đọng lại trong tâm
trí cậu vì tất cả những việc cậu đã được nghe hay quan sát trong một tuổi thơ
lạ lùng và khủng khiếp. Ban đêm, cậu xây dựng trên bàn những ý tưởng về một hòn
đảo tuyệt vời; những bông hoa giấy và những giấy ăn màu; những tờ giấy bạc
trắng, vàng dùng để bọc sô-cô-la. Khi cậu phá vỡ khung cảnh, và mệt mỏi vì
những vẻ hào nhoáng đó, hình ảnh rạng rỡ của Mác-xây, của giàn cây mắt cáo đầy
nắng, và vẻ đẹp của nàng Mercedes đến trong tâm trí cậu.

Ngoại
ô Blackrock, trên con đường dẫn đến một dãy núi, có một ngôi nhà nhỏ quét
vôi trắng nằm trong một khu vườn trồng rất nhiều khóm hoa hồng. Trong ngôi nhà
này, cậu tự nhủ với mình rằng, có thêm một nàng Mercedes khác đang sống ở đây.
Trên cả đường đi và về, cậu đo khoảng cách bằng những cột mốc. Trong trí
tưởng tượng, cậu đang sống trong một đoàn tàu của sự phiêu lưu mạo hiểm: chúng
tuyệt vời giống như những câu chuyện trong tiểu thuyết. Cạnh đó nhất định có sự
xuất hiện của chính cậu, đang lớn lên buồn bã hơn, đứng trong một khu vườn le
lói ánh trăng với nàng Mercedes, người đã nhiều năm coi thường tình yêu của
cậu. Với hành động từ chối lịch sự nhưng buồn bã, cậu nói:

-
Thưa quý bà, tôi chưa bao giờ ăn những quả nho.

Stephen
trở thành đồng minh của một cậu bé tên là Aubrey Mills và cùng Mills thành lập
một nhóm những kẻ ưa mạo hiểm trên đại lộ. Aubrey mang theo một chiếc còi
treo lủng lẳng trên khuy áo và một chiếc đèn xe đạp gắn lên thắt lưng trong khi
những đứa khác đều mang theo gậy ngắn lủng lẳng bên mình. Stephen đã từng biết
đến phong cách ăn mặc giản dị của Napoleon, đã lựa chọn phong cách tự
nhiên và chính điều này đã làm cậu nổi bật trong lúc bàn bạc và đưa ra mệnh
lệnh đối với các tướng lĩnh của mình. Nhóm trẻ tinh nghịch phá phách những khu
vườn của những người hầu già hay chạy xuống pháo đài và tổ chức những trận
đánh trong những bụi rậm ngổn ngang đầy cỏ dại xen lẫn những phiến đá tảng. Sau
đó chúng quay trở về nhà trong sự mệt mỏi sau khi lang thang chinh chiến với
mùi thơm quen thuộc đến tẻ nhạt của đất biển và những cành rong biển trên mái
tóc và cánh tay của lũ trẻ.

Aubrey
và Stephen đều có chung một người đưa sữa nên cả hai thường đi đến vùng
Carrickmines bằng xe chở sữa, nơi có rất nhiều bò đang gặm cỏ. Khi những người
đàn ông đang vắt sữa thì hai đứa trẻ lần lượt thay nhau nhảy lên cưỡi con ngựa
cái và chạy vòng quanh cánh đồng. Mùa thu đến, những con bò sữa được dẫn từ
bãi cỏ về nhà. Ấn tượng đầu tiên về khu nuôi bò ở vùng Stradbrook là những
vũng nước bẩn thỉu màu xanh và những cục phân nhày nhụa cùng với mùi hôi thối
bốc lên của cám còn sót lại trong máng làm cho Stephen cảm thấy buồn nôn. Cái
pháo đài trông thật đẹp ở đồng quê trong những ngày nắng ấm lại làm cậu cảm
thấy ghê tởm đến nỗi cậu chẳng thèm nhìn vào chỗ sữa tươi họ vừa vắt ra được.

Tháng
chín năm nay đã đến nhưng không làm cậu bận tâm bởi lẽ cậu không còn phải quay
lại trường Clongowes. Những buổi chạy trong công viên kết thúc khi bác Mike Flinn
phải vào bệnh viện. Aubrey đến trường nên chỉ có thể chơi cùng Stephen một hoặc
hai giờ vào buổi tối. Nhóm trẻ ưa mạo hiểm tan tác và giờ đây không còn những
trận đánh trên những bãi đá. Thỉnh thoảng, Stephen đi vòng quanh thị trấn
bằng xe giao sữa cho buổi tối và sự lạnh giá của những chuyến đi như vậy
làm cậu quên đi sự ghê tởm hôi thối của trang trại nuôi bò và cậu cũng
không còn ác cảm khi nhìn vào lông những con bò cái hay những ngọn cỏ khô bám
vào quần áo người vắt sữa. Khi chiếc xe chở sữa dừng lại một ngôi nhà, cậu chờ
đón để nhận và để xem người hầu trong nhà sẽ vừa cầm bình sữa vừa đóng cửa
như thế nào. Cậu ngẫm nghĩ đó sẽ là một quanh cảnh sống dễ chịu và thoải mái: ngồi
trên xe chở sữa chạy vòng quanh những con đường để đưa sữa cho buổi tối, nếu
như cậu có đôi găng tay ấm áp và vài chiếc bánh gừng trong túi để ăn. Nhưng
cũng giống như một việc cậu đã từng biết đã từng làm cậu cảm thấy chán nản. Đôi
chân như muốn quỵ xuống khi cậu tập chạy trong công viên, cùng một trực giác
khiến cậu mất niềm tin khi nhìn vào khuôn mặt béo đầy râu của người hướng
dẫn của mình khi khuôn mặt đó cúi xuống dõi theo những ngón tay của ông
ngấm màu thuốc lá nâu đen lâu năm cuộn điếu thuốc, một cảnh tượng xua tan hết
cả tương lai tươi sáng. Trong một cách hiểu mập mờ, cậu hiểu rằng tình hình tài
chính của cha mình không ổn, và đó là lí do tại sao cậu không được quay trở lại
trường Clongowes. Thỉnh thoảng, cậu cảm nhận được một sự thay đổi ít nhiều
trong gia đình mình; những thay đổi đó cậu nhận thấy rằng không thể thay
đổi được. Chúng như là một trong rất nhiều những cú sốc nho nhỏ đối với những
khái niệm trẻ con ngây thơ của cậu về thế giới bên ngoài. Hoài bão mà cậu thỉnh
thoảng lờ mờ cảm nhận đang nằm trong bóng tối không lối thoát của tâm hồn. Một
bóng tối như vậy của thế giới bên ngoài làm cậu càng khó hiểu và nghi hoặc về
cuộc sống bên ngoài như là khi cậu nghe những tiếng vó của những con ngựa cái
huyên náo dọc theo đường xe điện trên đại lộ Rock và một chiếc bình lớn đung
đưa kêu lách cách sau lưng cậu.

Stephen
quay trở lại với Mercedes và khi cậu nghiền ngẫm hình bóng của nàng, một sự bồn
chồn kì lạ lẻn vào trong máu cậu. Thỉnh thoảng một sự xúc động trong tim làm
cậu đi lang thang không mục đích dọc theo đại lộ tĩnh mịch. Sự yên bình của
những khu vườn và ánh sáng êm dịu của những ngọn đèn xuyên qua cửa sổ tác động
đến trái tim hay xao động của cậu. Những tiếng ồn ào do bọn trẻ đang vui đùa
quấy rầy cậu và giọng nói ngớ ngẩn của chúng làm cậu cảm thấy nhói buốt tồi tệ
hơn cả sự cảm nhận khi cậu còn đang ở trường Clongowes: cậu rất khác biệt với
những người khác. Cậu không muốn chơi đùa. Cậu muốn gặp hình ảnh hão huyền
trong một thế giới thực mà tâm hồn cậu liên tiếp cảm nhận và trông thấy.
Cậu không biết tìm nó ở đâu và bằng cách nào, nhưng một linh cảm nào đó dẫn
đường và mách bảo cậu rằng hình ảnh đó đến với cậu rất rõ ràng. Chúng có thể
gặp nhau trong yên lặng như thể chúng đã từng biết nhau trước đó và như thể
chúng đã hẹn hò nhau trước rồi. Có thể ở một trong những cổng lâu đài hay một
nơi bí mật nào đấy. Chúng có thể sẽ cô đơn, bị vây xung quanh bởi bóng tối
và yên lặng. Rồi trong khoảnh khắc mềm yếu tột đỉnh đó, cậu sẽ hóa thân. Cậu có
thể biến thành một vật gì đó không thể nhìn thấy được trong mắt cậu và trong
một khoảnh khắc cậu sẽ hóathân. Yếu ớt, nhút nhát và sự thiếu từng trải của cậu
sẽ được ám vào hình ảnh đó.

*
* * *

Một
buổi sáng, hai chiếc xe tải lớn màu vàng dừng lại trước cửa nhà và những
người đàn ông bước nặng nề vào nhà và bắt đầu tháo dỡ đồ đạc của ngôi nhà.
Toàn bộ đồ nội thất trong nhà bị đẩy ra vườn trước và bị kéo bởi những sợi
dây thừng trước khi bị xếp vào những chiếc xe tải lớn đang đỗ ở cổng. Khi
mọi thứ được sắp xếp xong, những chiếc xe tải bắt đầu khởi động ầm ĩ
và chạy xuống đại lộ. Từ trong cửa sổ toa xe lửa, nơi cậu ngồi cùng
bà mẹ với đôi mắt sưng đỏ vì khóc, Stephen nhìn thấy những chiếc xe chạy ầm ầm
nặng nề dọc theo đường Merrion.

Ngọn
lửa trong phòng khách tại quán trọ không thể làm sáng lên được buổi chiều đó.
Ông Dedalus đặt que cời lửa tì lên then chắn của lò sưởi để hút lửa. Bác
Charles ngủ gà ngủ gật ở góc nhà trong căn phòng một nửa không trải thảm
và ảnh chân dung của gia đình tựa lên bức tường cạnh bác ấy. Chiếc đèn bàn
hắt ánh sáng yếu ớt trên sàn căn phòng rộng. Stephen ngồi xuống chiếc
ghế kê chân bên cạnh cha cậu, lắng nghe một đoạn độc thoại dài không rõ ràng.
Lúc đầu, cậu hiểu rất ít hoặc chẳng hiểu gì nhưng dần dần cậu nhận ra rằng cha
cậu có nhiều kẻ thù và vài trận đấu sẽ sắp xảy ra. Cậu cảm thấy chính cậu có
nghĩa vụ trong trận đấu đó, rằng một vài trọng trách đang đè nặng lên vai
mình. Sự truy đuổi từ Blackrock, chuyến đi xuyên qua một thành phố đầy sương ảm
đạm, ý nghĩ về một ngôi nhà trống không buồn tẻ mà bây giờ họ phải sống trong
đó, làm trái tim cậu trĩu nặng. Rồi một lần nữa, bằng trực giác, cậu cảm thấy
một điều gì đó của tương lai sắp tới. Stephen cũng hiểu được vì sao những người
hầu thường thì thầm với nhau trong phòng lớn, và tại sao cha cậu thường
đứng trên tấm thảm trải trước lò sưởi, quay lưng về phía lò sưởi, to tiếng
với bác Charles khi bác ấy thúc giục cha cậu ngồi xuống và ăn tối.

-
Ông Dedalus nói, có một vệt nứt trên chiếc roi da để gần chỗ bác, Setephan ạ.
Có một nguời thằng cha có vẻ lớn tuổi chọc gậy vào đống lửa âm ỉ với sự hung
bạo.

Chúng
ta chưa chết con trai ạ. Không, bởi Đức ngài Giê-su (Chúa tha tội cho con) và
cũng không phải đã chết nửa vời.

Dublin
thật mới mẻ và mang đến một cảm giác khó tả. Bác Charles ngày càng trở nên
mất trí đến nỗi bác không còn được giao làm những việc lặt vặt nữa. Rồi sự bừa
bộn trong ngôi nhà mới làm cho Stephen có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn khi ở
Blackrock. Thời gian đầu, cậu hài lòng khi bẽn lẽn đi dạo xung quanh hàng xóm.
Hoặc thỉnh thoảng đi xuống đến nửa đường khu phố bên cạnh nhưng khi cậu có được
bản đồ sơ lược của thành phố trong đầu, cậu liều lĩnh đi theo con đường chính
cho tới tận trụ sở hải quan. Cậu băng qua không mấy khó khăn những xưởng đóng
tàu nằm dọc theo những bến cảng, tò mò trước vô số các phao bần nhấp nhô trên mặt
nước, trên một lớp nước váng dày màu vàng; một đám đông công nhân bốc xếp trên
bến cảng; tiếng ầm ầm của những chiếc xe ngựa và những bộ quần áo xấu xí của
các cảnh sát có râu. Sự mênh mông và lạ lùng của cuộc sống mới gợi lên
trong cậu bởi những kiện hàng hóa đặt dọc theo những bức tường và những cột
buồn đung đưa vươn cao hơn cái ống khói của các con tàu hơi nước lại thức tỉnh
cậu một sự trăn trở cậu trải qua khi đi lang thang từ khu vườn này đến khu vườn
khác để tìm nàng Mercedes.

Đứng
giữa cuộc sống mới đầy hối hả cậu có thể tìm thấy sự hứng thú mới với một
Marseille khác nhưng cậu lại nhớ đến bầu trời trong xanh và những hàng rào mắt
cáo dưới ánh mặt trời của các tiệm rượu. Một sự bất mãn mơ hồ xuất hiện trong
tâm hồn cậu khi cậu nhìn những bến cảng trên sông trong một buổi chiều tối âm
u. Cậu tiếp tục suy tư mông lung ngày này qua ngày khác như thể cậu thực sự cố
tìm kiếm cho được ai đó lảng tránh cậu.

Stephen
cùng mẹ cậu đi thăm họ hàng một hay hai lần gì đó. Mặc dù họ băng qua những dãy
cửa hàng sôi động được trang hoàng lộng lẫy để chờ đón Giáng sinh, nhưng tâm
trạng im lặng cay đắng vẫn không buông tha cậu. Nguyên nhân gây ra nỗi giày vò
cay đắng này rất nhiều: rất gần và rất xa. Cậu bực tức với chính mình vì còn
quá trẻ và là con mồi của tính khí bốc đồng ngu ngốc không ngừng. Cậu cũng
bực tức với sự thay đổi của số phận mà chúng đã thay đổi thế giới của cậu sang
một tầm nhìn dơ dáy và giả tạo, cho dù rằng sự giận dữ của cậu không ảnh
hưởng gì đến tầm nhìn này. Cậu ghi chép lại tỉ mỉ những gì nhìn thấy, chắt lọc
riêng ra những gì dành cho cậu và tự mình nếm trải những khổ hạnh trong bí mật.

Cậu
đang ngồi trên một chiếc ghế không có tựa lưng trong nhà bếp của dì cậu. Một
ngọn đèn với tấm gương phản chiếu treo trên bức tường kiểu Nhật Bản của chiếc lò
sưởi. Dưới ánh sáng đó, dì cậu đang đọc tờ tin tức buổi chiều đặt trên đầu
gối bà. Dì cậu nhìn một hồi lâu vào một bức ảnh tươi cười trong tờ báo và nói
với vẻ mặt đăm chiêu:

- Cô Mabel Hunter thật đẹp!

Một
bé gái có mái tóc quăn đứng kiễng chân lên để nhìn cho được bức ảnh đó và khe
khẽ nói:

- Cô ta đang ở đâu vậy?

-
Trong một vở kịch câm cưng ạ!


bé tì cái đầu có mái tóc quăn vào ống tay áo của mẹ cô, ngắm nhìn bức tranh, và
thì thầm nói như thể đang thôi miên:

- Cô Mabel Hunter thật đẹp!

Như
thể thôi miên, đôi mắt cô bé chăm chú nhìn vào đôi mắt cay độc nhưng kín đáo.
Cô bé nhiệt thành thì thầm:

-
Cô ấy là một tạo vật thanh tú đấy chứ?


một cậu bé vừa đến nhà từ ngoài phố đang giậm chân lên những viên đá đã nghe
thấy những lời nói của cô ấy. Cậu buông cái bao nặng trên vai xuống sàn
một cách mau lẹ và chạy vội sang phía bên cạnh cô và xem. Cậu giằng lấy gáy tờ
báo bằng đôi tay lấm lem màu đen lẫn đỏ, dùng vai đẩy cô sang một bên và phàn
nàn rằng cậu không thể xem được.

Stephen
đang ngồi trong một phòng ăn sáng hẹp nằm tầng trên của ngôi nhà có cửa sổ cũ kĩ.
Ngọn lửa bập bùng trên tường và bên ngoài cửa sổ bóng tối đang tràn trên mặt
sông. Trước lò suởi, một bà già đang bận rộn pha trà. Bằng giọng nói nhẹ nhàng,
bà kể lại những gì bác sĩ và cha xứ đã nói. Bà ấy kể về một số thay đổi của
mình họ đã được chứng kiến về cung cách và cách nói năng kì quặc của bà. Cậu
ngồi xuống, lắng nghe những câu chuyện và theo dõi những cuộc phiêu lưu của
những viên than, đường hầm uốn khúc, và những hang động lởm chởm đá.

Bất
chợt, cậu nhận ra vài điều gì đó ở ngoài khung cửa. Một đầu lâu xuất hiện treo
lủng lẳng trong bóng tối của khung cửa. Một tạo vật gầy còm, yếu đuối như con khỉ
đang ở đó, hướng theo những giọng nói bên cạnh lò sưởi. Một giọng nói rên rỉ từ
ngoài cửa cất lên:

-
Có phải là Josephine?


già lăng xăng đáp lại đầy nhiệt tình từ phía lò sưởi:

- Không phải, Ellen. Là Stephen đấy.

-
Ồ, chào cậu, Stephen.

Cậu
đáp lại lời chào và nhìn thấy một nụ cười ngờ nghệch làm vỡ tan khuôn mặt trong
khung cửa.

-
Cần gì không, Ellen? - Bà già bên bếp lửa hỏi. Nhưng cô ta không trả lời câu
hỏi mà nói:

- Tôi cứ nghĩ đó là Josephine. Tôi nghĩ cậu là
Josephine, Stephen ạ!

Và,
nhắc lại điều đó vài lần, cô ấy bật cười yếu ớt.

Stephen
đang ngồi giữa bữa tiệc của bọn trẻ tại Harold’ s Cross. Thái độ thận
trọng, cảnh giác ngày càng tăng lên trong đầu cậu và cậu chỉ hòa mình một chút
vào những cuộc chơi. Những đứa trẻ đeo những chiến lợi phẩm đang nhảy múa và nô
đùa ầm ĩ. Mặc dù cậu đã cố gắng hòa mình vào sự vui chơi đó nhưng cậu vẫn cảm
thấy mình là một người u sầu, ủ rũ giữa bọn con trai và con gái đang vui vẻ
ngoài kia.

Nhưng
khi cậu cất lên bài hát của mình, và lẩn tránh vào góc kín gió ấm áp của
phòng và bắt đầu gặm nhấm, thưởng thức niềm vui sướng của nỗi cô đơn. Sự vui đùa
như ở đầu buổi tiệc đối với cậu thật vô nghĩa và tầm thường giống như một luồng
không khí êm dịu thoảng qua cậu một cách dễ chịu, che giấu những con mắt
khác sự xúc động bồn chồn trong huyết mạch cậu trong khi đó thổi qua vòng tròn
nhảy múa và giữa âm nhạc và những tiếng cười đùa. Ánh mắt của cô ấy tìm
đến nơi cậu ngồi, nịnh nọt, châm chọc, tìm kiếm, kích thích con tim cậu.

Trong
phòng khách, những đứa trẻ ở lại muộn nhất đang dọn dẹp đồ đạc của chúng. Bữa
tiệc đã kết thúc. Cô ấy choàng chiếc khăn qua đầu và trong lúc họ cùng
nhau đi về phía xe điện, những hạt bụi mang theo hơi thở ấm áp thơm mát
bay nhẹ nhàng trên chiếc mũ trùm đầu của cô và đôi giày của cô vô tình gõ
xuống con đường bóng như thủy tinh.

Đó
là chuyến tàu điện cuối cùng. Những con ngựa nâu gầy gò biết được điều đó và
rung những chiếc chuông đeo trên cổ trong màn đêm yên tĩnh như một lời nhắc
nhở. Nhân viên soát vé nói chuyện với người lái xe điện, cả hai thường gật đầu
đồng ý dưới ánh sáng đèn xanh lét. Trên những chiếc ghế trống của tàu
điện, có lác đác vài tấm vé tàu đầy màu sắc. Không còn tiếng bước chân nào
đi lại dưới đường. Không tiếng động nào phá vỡ sự yên bình của màn đêm khi
những con ngựa nâu gầy gò khịt mũi và rung những chiếc chuông đeo trên cổ.

Họ
có vẻ như đang lắng nghe, Stephen đang bước lên bậc cao hơn còn cô ấy đang bước
ở bậc thấp hơn. Rất nhiều lần, cô ấy bước kịp lên bậc thang cùng cậu và lại
bước xuống chỗ thấp hơn như trước trong thời gian hai người nói chuyện và một
hoặc hai lần cô đứng cạnh cậu trong những khoảnh khắc nhất định khi cô bước kịp
lên chỗ cậu mà quên không bước xuống. Trái tim cậu nhảy múa cùng với những
chuyển động của cô ấy giống như chiếc phao lên xuống cùng thủy triều. Cậu nghe
thấy đôi mắt khuất dưới chiếc mũ chùm đầu của cô nói gì với cậu và cậu cũng biết
rằng trong một số dĩ vãng xa xôi, trong cuộc sống thực hay hư ảo, cậu đã từng
được nghe những câu chuyện hư ảo trước đây. Cậu nhìn thấy từ cô ấy những
ham muốn hư ảo, bộ váy đẹp lộng lẫy, chiếc khăn, và bít tất đen dài. Rồi
cậu biết rằng cậu đã khuất phục trước chúng hàng nghìn lần. Lúc đó, một
tiếng nói cất lên lấn át tiếng động của trái tim cậu đang nhảy múa, gợi
mời cậu nhận lấy món quà mà cậu chỉ cần đưa tay ra để nhận. Rồi cậu nhớ lại cái
ngày cậu và Eileen đứng bên nhau cùng nhìn vào Hotel Grounds xem
những người hầu bàn chạy qua chạy lại trên con đường có những lá cờ bay
phất phới trên các cột cờ trước khách sạn và những con chó chạy loanh quanh
trên thảm cỏ đầy nắng. Bất ngờ, cô phá vỡ không gian bằng một tràng cười và
chạy xuống con đường dốc. Còn bây giờ, cậu bơ phờ đứng ở chỗ của mình, làm ra
vẻ một người đang quan sát lặng lẽ khung cảnh trước mặt.

-
Cô ấy cũng muốn mình ôm - cậu nghĩ thầm. - Vì thế mà cô ấy cùng đi với mình
trên tàu điện. Tôi có thể dễ dàng ôm lấy cô ấy khi cô ấy bước lên bậc thang của
mình: không ai nhìn chúng mình cả. Mình có thể ôm và hôn cô ấy nữa.

Nhưng
cậu đã chẳng làm gì cả. Rồi khi cậu ngồi một mình trong chiếc tàu điện
trống vắng, cậu xé tan chiếc vé tàu thành nhiều mảnh và u sầu nhìn những
bậc lên xuống có hình gợn sóng.

Ngày
tiếp theo, cậu ngồi hàng giờ bên chiếc bàn trong căn phòng trống rỗng trên
gác. Trước mặt cậu là một chiếc bút mới, một lọ mực mới và một cuốn vở ghi chép
màu xanh mới. Theo thói quen, cậu viết lên đầu trang giấy những chữ cái đầu
viết tắt cho khẩu hiệu của các thầy tu dòng Tên: A.M.D.G. Trên dòng đầu tiên
của trang giấy xuất hiện tựa đề của đoạn thơ cậu đang cố gắng viết: Gửi E – C.
Cậu biết rằng đó là cách bắt đầu đúng đắn và chính xác mà cậu đã từng biết
đến một vài tựa đề tương tự trong một vài bài thơ chọn lọc của Thánh Byron. Khi
cậu viết xong tựa đề và vạch một đường kẻ ngay phía dưới có tính chất trang trí
cậu bắt đầu mơ mộng và vẽ những biểu đồ trên trang bìa của cuốn sách. Cậu
nhìn thấy bản thân mình đang ngồi trên bàn ở Bray vào buổi sáng, sau những
tranh cãi kịch liệt của bữa tối trong đêm Giáng sinh, cố gắng sáng tác một bài
thơ về anh Parnell ở mặt sau của một trong các yết thị lần hai của cha cậu.
Nhưng ngay sau đó, tâm trí cậu từ chối vật lộn với đề tài này và chán nản dừng
lại. Cậu viết lên trang giấy những cái tên và địa chỉ của một số người bạn cùng
lớp cậu:

Roderick
Kickham John Lawton Anthony MacSwiney Simon Moonan Bây giờ, như thể cậu sẽ thất
bại một lần nữa, nhưng vì nghiền ngẫm về những việc xảy ra, cậu nghĩ mình trở
nên tự tin hơn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3