Dặm Xanh - Chương 01
“CHÂN THÀNH CẢM ƠN CÁC THÀNH
VIÊN
ĐÃ THAM GIA DỰ ÁN EBOOK - VTBT”
THƯ NGỎ CỦA NHÓM E-BOOK (VTBT)
Các bạn thân mến!
Trong thời đại công nghệ
thông tin Internet ngày càng phát triển như hiện nay, Ebook như là một món ăn
tinh thần không thể thiếu của cộng đồng mạng và không ai có thể phủ nhận những
lợi ích mà nó mang lại. Chúng tôi - Nhóm E-Book (VTBT) đã cố gắng số hóa cuốn
sách này với hi vọng mang đến cho các bạn những tiện ích nhất định khi sử dụng
Ebook.
Đầu tiên, E-Book (VTBT) chân
thành xin lỗi Tác Giả và NXB vì đã thực hiện Ebook khi chưa được sự đồng ý của
bên liên quan.
Tiếp đến, mong các bạn sử
dụng Ebook một cách hợp lí, tránh in ấn, photo nhân bản để giữ gìn giá trị vốn
có của cuốn sách in.
Việc sử dụng Ebook này là
miễn phí. Do đó, E-Book (VTBT) không chịu trách nhiệm về bất kì sai sót gì
trong quá trình biên tập Ebook.
Cuối cùng, chúng tôi hi vọng
độc giả yêu sách nên sở hữu cho mình cuốn sách in để trải nghiệm và đánh giá
được tốt hơn về Ebook lẫn sách in, cũng như ủng hộ về mặt tài chính cho Tác Giả
và NXB.
Chúng tôi xin gởi lời cảm ơn
trân trọng đến Tác Giả, NXB đã mang đến cho người đọc những cuốn sách vô cùng
giá trị.
Và xin cảm ơn các độc giả đã
ủng hộ E-Book (VTBT).
Trân trọng!
1. CÁI CHẾT CỦA HAI BÉ GÁI
Sự việc xảy ra vào năm 1932, khi trại giam tiểu bang vẫn
còn ở Cold Mountain. Dĩ nhiên chiếc ghế điện cũng ở đấy.
Bọn tù nhân bày chuyện giễu cợt về chiếc ghế, theo
cách người ta vẫn giễu cợt về những chuyện làm họ sợ hãi nhưng không bỏ qua được.
Họ gọi nó là Già Sparky, hoặc Juicy Bự. Họ tán phét về công suất, và bằng cách
nào Giám thị Moores sẽ làm bữa tối nhân dịp Lễ Tạ ơn mùa thu năm đó, trong khi
bà Melinda vợ ông ấy, quá bệnh hoạn, không nấu nướng được.
Nhưng đối với những kẻ thực sự phải ngồi vào chiếc ghế
điện thì câu chuyện hài hước mau chóng tắt lịm. Tôi đã chủ trì hơn bảy mươi tám
vụ xử tử trong suốt thời gian công tác ở Cold Mountain, một con số mà tôi không
bao giờ nhầm lẫn; ngay cả lúc hấp hối trên giường bệnh, tôi vẫn sẽ nhớ đến nó, và
tôi nghĩ rằng, đối với hầu hết những con người đó, sự thật của điều sắp xảy ra
cho họ, rốt cuộc sẽ đeo đẳng họ suốt con đường về nhà, khi mắt cá chân bị khóa
chặt vào những cái chân bằng gỗ sồi chắc nịch của Già Sparky. Lúc ấy họ nhận ra
đôi chân của chính họ đã kết thúc sự nghiệp của chúng. Máu vẫn còn chảy, các bắp
thịt vẫn còn mạnh, nhưng chúng đã tiêu vong, chẳng có gì khác; chúng sẽ không
bao giờ đi thêm một dặm đường quê hương, hoặc khiêu vũ với một cô gái trong dịp
ăn mừng xây kho thóc nữa. Khách hàng của Già Sparky hiểu rằng cái chết của họ
dâng lên từ mắt cá chân. Một cái túi màu đen bằng lụa được chụp vào đầu sau khi
họ đã nói xong những lời cuối cùng, vốn huyên thiên, và phần lớn là rời rạc. Cái
túi được xem là dành cho họ, nhưng tôi luôn nghĩ nó thật sự là để cho chúng tôi,
để chúng tôi không thấy được trạng thái lạc thần đáng sợ trong mắt họ khi họ nhận
ra sắp phải chết.
[Chúc các bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách]
Không có dãy xà lim tử tội ở Cold Mountain, chỉ duy nhất
Khu E, tách xa bốn khu khác và rộng bằng khoảng một phần tư, bằng gạch thay vì
gỗ, với một cái mái ghê rợn bằng kim loại trần trụi, chói chang dưới ánh mặt trời
mùa hè. Bên trong là sáu xà lim ở hai bên một lối đi rộng, mỗi xà lim rộng gấp
đôi các xà lim trong bốn khu kia. Lại là phòng một người nữa. Tiện nghi ăn ở
tuyệt vời đối với một nhà tù, nhưng tù nhân ở đấy sẵn lòng đánh đổi với bất cứ
xà lim nào khác trong bốn khu kia. Tin tôi đi, họ sẽ chịu đánh đổi.
Trong những năm tôi làm đội trưởng ở Khu, chưa khi nào
cả sáu xà lim chứa đầy tù nhân. Bốn là tối đa, da trắng da đen lẫn lộn (ở Cold Mountain,
không có kì thị chủng tộc giữa các tử tội), và quả là một địa ngục thu nhỏ. Một
trong số tù nhân là phụ nữ, Beverly McCall. Cô ả đen như than, xấu xa y như thứ
tội lỗi mà bạn không bao giờ đủ lì lợm để gây án. Cô ả chịu đựng nổi sáu năm bị
chồng đánh đập nhưng không chấp nhận chuyện anh ta lăng nhăng một ngày. Vào buổi
chiều khám phá ra chuyện ngoại tình của chồng, ả đứng chờ anh chàng xấu số
Lester McCall, vốn được bạn bè gọi là Dao Cắt (có lẽ dựa theo mối tình vắn số với
cô tình nhân), trên đầu cầu thang dẫn đến căn phòng bên trên cửa hàng cắt tóc của
anh ta. Ả chờ đến khi chồng đã cởi áo khoác ra được một nửa, rồi xén một phát
cho cái của nợ bội bạc của anh ta rơi xuống mũi giày hai “tông” màu. Một lưỡi
dao cạo của riêng Dao Cắt đã được dùng vào việc đó. Hai đêm trước khi phải ngồi
lên Già Sparky, cô ả gọi tôi đến xà lim, nói rằng đã được ông bố - thần linh gốc
Phi châu - báo mộng. Ông ta bảo cô ả từ bỏ cái tên cũ ám ảnh thân phận nô lệ đi,
rồi chết dưới cái tên tự do là Matuomi. Ả đòi hỏi bản án tử của mình phải được
tuyên bố bằng tên Beverly Matuomi. Tôi đoán có lẽ ông bố thần linh đã không cho
biết họ, hoặc có họ nhưng cô ả không nhận ra. Dù sao thì tôi cũng đồng ý. Có một
điều mà những năm tháng công tác với tư cách đội trưởng lính gác trại giam đã dạy
tôi là không bao giờ từ chối yêu cầu của những tử tội, trừ khi tình hình buộc
phải thế. Dù gì thì trường hợp của Beverly Matuomi cũng không có khác biệt. Ngày
sau đó, vào khoảng ba giờ chiều, Ngài Thống đốc gọi điện thoại, giảm án tử hình
xuống tù chung thân ở nhà tù phụ nữ Grassy Valley - dạo ấy chúng tôi cứ nói đùa
rằng chỉ toàn trừng phạt mà thiếu rửng mỡ. Xin nói với các bạn là tôi hân hạnh
được nhìn thấy cặp mông tròn trịa của Beverly đánh sang trái thay vì sang phải
khi cô ả đến trước bàn trực.
Ba mươi lăm năm sau hoặc hơn nữa tôi bắt gặp cái tên
đó trên trang cáo phó của một tờ báo, bên dưới bức ảnh một quý bà da đen mặt gầy,
có mái tóc trắng và cặp kính gắn kim cương giả trên gọng. Cô ả đã sống như một
phụ nữ tự do trong mười năm cuối đời và đã đơn độc cứu vớt thư viện tỉnh lẻ
Raines Fall. Cô ả cũng dạy lớp Giáo lí Chủ nhật và được yêu mến biết bao ở cái
vùng hẻo lánh nhỏ bé đó. Tựa bài báo viết “Quản thủ thư viện chết vì đau tim”
dưới đó, bằng khổ chữ nhỏ hơn, gần như một lời cảnh tỉnh: “Đã thi hành án hơn
hai thập niên vì giết người”. Chỉ có đôi mắt, to và rực sáng sau cặp kính, là vẫn
như trước. Chúng là cặp mắt của một người đàn bà, một con người mà thậm chí ở
tuổi bảy mươi bất kì nào đó, vẫn sẽ không do dự rút một lưỡi cạo an toàn ra khỏi
cái lọ đựng chất khử mùi, nếu sự thôi thúc có vẻ gây sức ép. Các bạn thừa biết
bản chất bọn giết người, dù chúng có trở thành quý bà quản thủ thư viện tại các
thị trấn ngái ngủ chăng nữa. Ít nhất bạn cũng sẽ biết, khi bỏ quá nhiều thời
gian lưu tâm đến bọn giết người, như tôi đã làm. Chỉ duy nhất một lần tôi đặt
câu hỏi về bản chất công việc của mình. Tôi cho đấy là lí do khiến tôi viết tập
truyện này.
Sàn hành lang rộng dẫn lên trung tâm Khu E được lót bằng
vải sơn màu vôi xanh cũ kĩ, vì thế cái được gọi là Dặm Đường Cuối Cùng ở những
trại giam khác thì ở Cold Mountain này, nó được gọi là Dặm Đường Xanh. Tôi đoán
là nó dài bằng sáu mươi bước chân, đi từ hướng Nam lên Bắc, từ đáy lên đỉnh. Ở
đáy là phòng giam. Ở đỉnh là giao lộ hình chữ T. Rẽ sang trái là sự sống - nếu
bạn gọi điều xảy ra trong cái sân tập thể dục nắng nung người là sự sống; nhiều
người đã sống như thế bao năm tháng, không chút hề hấn. Trộm cắp, đốt nhà, và tội
phạm tình dục, tất cả đều nói năng, đi đứng và gạt gẫm nhau theo kiểu của chúng.
Nhưng mọi cú rẽ phải - đấy là chuyện khác. Trước hết bạn
bước vào văn phòng của tôi (nơi có trải thảm cũng màu xanh, một thứ mà tôi có ý
định thay đổi nhưng không làm được), và đến trước bàn làm việc của tôi, bên
trái bàn treo cờ Mỹ, bên phải là cờ tiểu bang. Ở phía xa là hai cánh cửa. Một cửa
dẫn vào căn phòng vệ sinh nhỏ mà tôi và các nhân viên bảo vệ Khu E (đôi khi có
cả Giám thị Moores) sử dụng; cửa kia mở vào một thứ nhà kho. Đây là nơi bạn kết
thúc khi bước trên Dặm Đường Xanh.
Đó là một cánh cửa nhỏ, tôi phải cúi đầu mỗi khi đi
qua, còn John Coffey thì phải ngồi xuống rồi lách vào. Bạn sẽ bước ra một chỗ đứng
hẹp, rồi theo ba bậc xi măng bước xuống một sàn nhà rộng. Nó là một căn phòng
khốn khổ, không có lò sưởi; mái bằng kim loại, giống như mái trên khu nhà tiếp
giáp với nó. Trong phòng đủ lạnh để nhìn thấy hơi thở của bạn vào mùa đông, mùa
hè thì ngột ngạt khó thở. Trong lần thi hành án tử Elmer Manfred đã có chín
nhân chứng bị ngất.
Bên trái khu nhà kho lại có sự sống. Các dụng cụ (tất
cả đều được khóa chặt sau những bộ khung chằng chịt dây xích, như thể chúng là
súng carbine chứ không phải mai và cuốc chim), hàng vải, các bao hạt giống để
gieo trồng trong vườn trại giam vào mùa xuân, hộp giấy vệ sinh, các tấm pallet
để chồng chéo những tấm ván dùng cho xưởng ván của trại... thậm chí cả những
túi chứa vôi để kẻ đường biên sân chơi bóng chày và bóng bầu dục - tù nhân chơi
bóng trong cái được gọi là Bãi Cỏ, và những buổi chiều mùa thu rất được mong đợi
ở Cold Mountain.
Bên phải là
cái chết. Đích thân Già Sparky chễm chệ trên mặt sàn bằng ván ở góc Đông Nam của
nhà kho, chân ghế bằng gỗ sồi cứng cáp, tay dựa rộng rãi bằng gỗ sồi vốn đã hấp
thu dòng mồ hôi kinh hoàng của biết bao người trong những giây phút cuối đời, và
cái nón kim loại thường đong đưa trên lưng ghế, giống loại nón sát đầu kiểu
robot của trẻ em trong truyện tranh. Một dây cáp vắt từ nón ra xuyên qua lỗ hổng
có vòng đệm trên bức tường gạch đằng sau ghế. Tách sang một bên là một cái xô bằng
thiết mạ. Nếu nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy một vòng đệm bằng chất xốp, được
cắt tỉa vừa khít cái nón kim loại. Trước khi hành hình, cái vòng được nhúng vào
nước muối để tăng sức dẫn dòng điện trực tiếp chạy qua dây cáp, qua lớp xốp, xuyên
vào óc tử tội.