Kì nghỉ hè của Poirot - Chương 12

12

-
Đi pích-ních, hả ông Poirot?

Emili
Brewster giương mắt nhìn thám tử, ngỡ ông mất trí.

-
Theo cô, như thế là không hợp lúc, phải không? Nhưng tôi, tôi nghĩ ngược lại,
đó là một ý hay. - Poirot ôn tồn đáp. - Chúng ta đang cần trở lại cuộc sống
bình thường, thân thuộc như mọi khi. Riêng tôi, rất muốn đi tham quan Dartmoor.
Thời tiết tốt. Như vậy... xua bớt nỗi niềm nặng trĩu mấy ngày nay. Cô hãy giúp
tôi, rủ họ cùng đi, thuyết phục họ.

Dự
kiến được hưởng ứng một cách bất ngờ. Lúc đầu, mọi người chưa thú lắm, song
cuối cùng đều cho rằng đi thư giãn một buổi cũng là ý hay.

Đại
úy Marshall không nằm trong số người mời đi. Ông nói rằng hôm đó ông phải đi
Plymouth.

Ông
Blatt nhiệt liệt hưởng ứng cuộc đi - Ngoài ra có cô Brewster, vợ chồng Redfern,
Stephen Lane, vợ chồng Gardener, Rosamond Darnley và Linda.

Poirot
đã phải trổ hết tài để nhờ Rosamond rủ Linda, nhấn mạnh như vậy tốt cho cô bé
được dịp khuây khỏa. Rosamond đồng ý:

-
Ông nói đúng, ở tuổi ấy, con bé đúng là bị choáng, đứng ngồi không yên.

-
Điều đó là tất nhiên. Nhưng tuổi nào rồi cũng quên nhanh, cô rủ em ấy đi. Cô
nói thì thế nào cũng được.

Còn
thiếu tá Barry, ông cương quyết không đi, nói là không thích pích ních:

-
Phải vác đi bao nhiêu đồ lề, mà rồi chẳng thỏai mái tí nào. Không, bữa ăn tôi
cứ ngồi bàn đàng hoàng, chẳng dại.

Ai
nấy tập hợp lúc mười giờ. Thuê cả thảy ba xe. Ông Blatt có vẻ muốn đóng vai đầu
trò:

-
Nào quý ông quý bà, ai đi Dartmoor thì lại đây! Quý ông nhớ mang theo quý bà,
hoặc bạn gái! Nào, lên xe!

Phút
cuối cùng Rosamond mới chạy tới, vẻ thất vọng:

-
Linda không đi. Em nói em nhức đầu.

-
Ra nơi thoáng đáng sẽ khỏi thôi - Poirot nài. - Cô cố lần nữa đi.

-
Vô ích. Em không đổi ý đâu. Tôi đã cho em uống thuốc, em lên giường nằm rồi. Có
lẽ tôi cũng ở lại vậy.

-
Ồ, không được đâu, thưa quý cô, không được!

-
Blatt vừa nói vừa kéo tay Rosamond - Nhà đại thời trang không thể vắng mặt.
Không có lí do lí trấu gì cả! Tôi bắt cô làm tù binh đấy! Giải đi Dartmoor!


ông ta lôi xềnh xệch Rosamond lên chiếc xe đi đầu.

Đến
lượt Christine Redfern:

-
Có lẽ tôi ở lại với Linda vậy.

-
Ô, không, Christine, em cứ đi! - Redfern can.

-
Không, không, bà phải đi - Poirot nói. - Đã nhức đầu, thì người ta thích ở một
mình. Đi thôi!

Ba
xe chuyển bánh. Trước tiên họ đến thăm động Sheepstor. Đây mới là một hang động
thực sự. Theo tờ hướng dẫn, họ đi tìm lối vào.

Trèo
leo lên các tảng đá là hơi mạo hiểm. Hercule Poirot chỉ đứng quan sát mọi
người. Christine Redfern, luôn có chồng tháp tùng, nhảy thoăn thoắt từ hòn này
sang hòn khác. Cô Darnley và cô Brewster cũng trèo; cô Brewster bị trượt một
cái, trẹo chân nhẹ. Stephen Lane trèo cũng khá, dáng người mảnh khảnh của ông
cứ lưng lửng trên các tảng đá. Ông Blatt thì chỉ đứng dưới chụp ảnh và hò reo
khích lệ.

Vợ
chồng ông Gardener và Poirot biết thân biết phận, ngồi xuống nghỉ bên đường.
Tiếng nói bà Gardener tuôn ra như suối, thỉnh thoảng lại được ông chồng phụ họa
"phải, phải":

- ...
và tôi không thích cái thói cứ luôn luôn chĩa máy vào người ta mà chụp, ông
Poirot ạ. Ông Gardener nhà tôi cũng đồng ý thế. Cái ông Blatt này chẳng có ý tứ
gì. Ông ta đứng trước mặt, nói vài câu để ta không để ý, thế là chụp lia chụp
lịa... Tôi bảo với nhà tôi rằng như thế là bất lịch sự. Phải không, ông Odell?

-
Phải, phải.

-
Cái ảnh ông ta chụp tất cả mọi người trên bãi biển, cũng là có ý tốt thôi,
nhưng chí ít cũng phải nói với người ta một tiếng. Đằng này, cô Brewster không
biết, đúng lúc ấy lại nhỏm dậy, trông đến buồn cười!

-
Đúng, đúng thế.

-
Thế rồi ông ta đem phát ảnh cho từng người, cứ như không. Tôi thấy ông ta cũng
đưa ông một cái, ông Poirot nhỉ...

Poirot
chắp hai tay:

-
Tôi lại đánh giá cao cái ảnh chụp chung ấy.

-
Và hôm nay... Ông nhìn kìa! Chỉ toàn nghe tiếng ông ta. Thật lố! Lẽ ra ông nên
để ông ta ở lại khách sạn.

-
Ôi, thế thì khó quá!

-
Phải, tôi cũng hiểu. Ông ta muốn chỗ nào cũng có mặt. Chẳng khiêm tốn gì.

Phía
dưới, tiếng hò reo của mọi người khi tìm ra lối vào hang.

Ai
nấy tiếp tục lên đường, theo sự hướng dẫn của Poirot, tới một lối cụt. Họ để xe
lại, đi bộ vào và phát hiện thấy nơi rất đẹp bên dưới ngọn đồi um tùm cây lá,
nằm cạnh con suối có cây cầu hẹp bằng ván chênh vênh bắc qua.

Poirot
và ông Gardener thuyết phục được bà Gardener cố gắng qua cầu để sang đến bờ bên
kia, có một bãi cỏ phẳng phiu dùng làm nơi ngả trại ăn trưa rất tuyệt…


Gardener rón rén qua cầu, tới bờ bên kia thì nằm xoài xuống, chưa hết hồi hộp.
Bỗng có tiếng thét kêu cứu.

Tất
cả mọi người đều qua suối an toàn, riêng cô Brewster đến giữa cầu thì khựng
lại, nhắm mắt loạng choạng vì mất thăng bằng.

Poirot
và Redfern vội chạy lại đỡ. Cô đỏ mặt vì xấu hổ, luống cuống:

-
Cảm ơn, cảm ơn. Tôi dở quá. Cứ đi qua cầu dưới có nước chảy là chóng mặt. Thật
chẳng ra sao.

Thức
ăn được bày ra, mọi người xúm vào ăn.

Ai
nấy bây giờ mới thấy chuyến đi này là thú vị. Như là một cuộc trốn chạy thoát
ra khỏi sự sợ hãi và ngờ vực. Nơi đây, với tiếng nước róc rách, mùi cây cỏ hăng
nồng - cái thế giới mà họ vừa sống - thế giới của tội ác, tra hỏi và nghi kỵ -
bỗng như biến mất, như chưa bao giờ có nó. Ngay ông Blatt cũng quên vai trò
chọc cười của mình, ăn xong đã lảng ra xa, nằm thiu thiu ngủ, rống lên tiếng
ngáy thảnh thơi. Rồi thì, ngày vui sắp hết, ai nấy thu dọn đồ đạc và cảm ơn
Poirot về cái sáng kiến hay này.

Mặt
trời ngả về tây khi đoàn xe đi về theo con đường ngoằn ngoèo. Từ trên đỉnh đồi
Leather, nhìn thấy xa xa hòn đảo và tòa khách sạn trắng toát. Cảnh trí sao mà
êm đềm, bình lặng!


Gardener bỗng trở nên ít nói, chỉ thốt ra một câu:

-
Cảm ơn ông Poirot. Tôi thấy hoàn toàn thư thái.

***

Thiếu
tá Barry ra đón họ:

-
Thế nào, đi vui chứ?

-
Tuyệt! - bà Gardener reo. - Ông ru rú ở nhà, thật dại.

-
Chẳng sao. Tôi đã quá cái tuổi bỗng dưng ra ngồi bãi cỏ mà nhá xăng-đuých.

Một
cô hầu phòng từ khách sạn chạy ra, thở hổn hển. Cô tỏ vẻ do dự, rồi lao tới
Christine Redfern.

Poirot nhận ra là Gladys Narrcott. Cô ta vừa nghĩ
vừa ngắc ngứ:

- Xin lỗi bà, nhưng cô bé làm tôi lo quá. Cô
Marshall. Tôi bưng trà lên, thấy cô ngủ thiếp, đánh thức cô không dậy.

Christine nhớn nhác nhìn chung quanh. Poirot tới
ngay, kéo tay cô:

- Ta lên xem sao.

Họ nhảy ba bậc một lên phòng Linda. Thoạt nhìn,
thấy ngay có chuyện chẳng lành. Mặt Linda xám ngoét, hơi thở rất yếu. Poirot
thử bắt mạch. Mặt ông chợt nhìn thấy một phong bì đặt cạnh cây đèn bàn. Phong
bì đề tên ông.

Đại úy Marshall từ đâu chạy bổ vào, hớt hải: Linda,
có chuyện gì? Cháu làm sao?

Christine Redfern cố ghìm tiếng nấc sợ hãi.

Poirot quay lại nói với Marshall:

- Gọi bác sĩ, mau! Tôi e... e là đã quá chậm.

Ông vớ lấy phong bì, mở ra xem. Bên trong là mày
dòng viết nắn nót theo kiểu học trò:

“Cháu cho thế là giải pháp tốt nhất. Ông nói với
ba hãy tha thứ cho cháu. Chính cháu giết Arlena. Cứ tưởng như vậy thì cháu
sướng, nhưng cháu đã lầm. Cháu xin lỗi về tất cả mọi chuyện”.

Tất cả đều quy tụ trong phòng khách: Marshall, vợ
chồng Redfern, cô Darnley và Hercule Poirot. Họ im lặng chờ đợi.

Cửa mở, bác sĩ Neasden bước vào. Lời nói như dao
chém:

- Tôi đã cố gắng hết sức. Có thể rồi qua khỏi,
nhưng nói thật không có nhiều hy vọng.

Mặt căng cứng, mắt lạnh băng, Marshall hỏi:

- Nó lấy cái thứ chết tiệt ấy ở đâu?

Neasden mở cánh cửa ra hiệu cho cô hầu phòng vào.
Mặt cô ta còn ướt nước mắt. Ông bác sĩ bảo:

- Cô nói lại cho ông ấy nghe.

- Tôi cứ tưởng... Tôi tưởng là không nghiêm
trọng...

Bác sĩ ra hiệu cho cô nói thẳng vào đề.

- Cô ấy vào phòng bà Redfern, vâng, phòng của bà.
Trước bồn rửa mặt cô ấy cầm một cái lọ. Tôi đi vào, cô ấy giật mình. Tôi cũng
lạ tại sao cô lại vào phòng bà trong lúc bà đi vắng, song tôi lại nghĩ cô ấy
sang để lấy một vật gì của cô ấy. Cô ấy chỉ nói: "À, tôi tìm cái
này", rồi đi ra.

- Thuốc ngủ của tôi. - Christine kinh hãi, lẩm
bẩm.

- Sao em ấy biết là bà có? - Neasden nghiêm khắc
hỏi.

- Tôi đưa cho em ấy một viên, tối hôm xảy ra án
mạng, vì em kêu không ngủ được. Em còn hỏi tôi: "Một viên có đủ không?"
Tôi đáp là đủ, thuốc này rất mạnh, không bao giờ được dùng quá hai viên một
lúc.

- Thế mà cô ấy đã uống tới sáu viên! - Neasden
kêu.

Christine òa lên nức nở:

- Trời ơi! Lỗi tại tôi. Lẽ ra tôi phải cất kỹ.

Bác sĩ nhún vai:

- Phải, cẩn thận là không thừa.

- Nếu em có mệnh hệ nào, là tại tôi - Christine
nấc lên.

- Bà không phải tự trách mình - Ken Marshall nói.
- Linda biết việc nó làm. Nó cố tình. Có lẽ... có lẽ lại hơn.

Ken nhìn xuống lá thư chàng vò nát trong tay, lá
thư mà Poirot vừa chuyển cho. Rosamond kêu:

- Tôi không tin một tý nào hết! Linda không giết
Arlena. Vô lý…

- Đúng, em không thể giết - Christine nói. - Em
đang bị khủng hoảng, tưởng tượng ra...

Cửa
mở, và đại tá Weston vào:

-
Tôi vừa được tin... Neasden cầm lá thư từ tay Marshall đưa cho Weston. Ông này
đọc lướt, rồi nói ngay:

-
Cái gì? Vô lý! Không thể, không thể, phải không ông Poirot?

Hercule
Poirot bây giờ mới lên tiếng:

-
E rằng tôi không đồng ý với ông.

Christine
lồng lên:

-
Nhưng tôi ở với em mà! Hai chúng tôi ở cùng nhau tới mười hai giờ kém mười lăm.
Tôi đã khai đó thôi.

-
Lời khai của bà đã bảo vệ cho ông ấy! - Poirot nói. - Nhưng dựa trên cái gì? Dựa
trên giờ của đồng hồ của Linda Marshall. Bà không tận mắt nhìn giờ lúc bà rời
cô ấy ra về - Bà biết giờ ấy chỉ do em nói. Bà chẳng khai là bà cảm thấy thời
gian trôi quá nhanh?

Christine
trợn tròn mắt. Poirot tiếp tục:

-
Bà hãy nhớ lại đi. Lúc về khách sạn, bà đi nhanh hay chậm?

-
Tôi... hừ, có lẽ đi chậm.

-
Và bà có nhớ rõ con đường trở về không?

-
Không nhớ lắm... tôi mải suy nghĩ, không để ý.

-
Rất tiếc phải hỏi bà thêm, bà có thể nói lúc đó bà nghĩ gì?

Christine
ngượng đỏ mặt:

-
Vâng... nếu cần... Tôi nghĩ mình sẽ đi khỏi đây, biến đi mà không báo cho chồng
biết. Tôi... tôi rất đau khổ, ông hiểu chứ... Patrick Redfern vụt thốt lên:

- Ô, Christine, anh biết... anh biết...

Giọng nói nhỏ nhưng dứt khoát của Poirot cất lên:

- Đấy! Lúc đó bà sắp phải có một quyết định khó
khăn. Bà như không nhìn, không nghe thấy gì quanh mình, hẳn phải đi rất chậm,
thỉnh thoảng lại dừng chân để suy nghĩ..

Christine gật đầu:

- Đúng, đúng vậy, ông Poirot! Về tới khách sạn,
tôi cảm giác như vừa tỉnh một cơn mê. Tôi chạy vội vào sảnh, yên trí mình bị
chậm giờ, nhưng lúc nhìn đồng hồ, hóa ra hãy còn nhiều thì giờ.

- Đấy! - Poirot lại kêu.

Ông quay lại phía Marshall:

- Giờ tôi phải nói với ông những gì tôi tìm thấy
trong phòng của con gái ông, sau khi xảy ra án mạng. Trong lò sưởi, có một cục
sáp to nóng chảy, nhúm tóc bị đốt, những mẩu bìa, giấy và một cái đinh ghim
thường. Bìa và giấy có thể không có ý nghĩa, nhưng những thứ khác nói lên nhiều
điều, nhất là khi tôi tìm thấy giấu trên giá sách là một cuốn mượn của thư viện
Leather, nói về phép thuật và phù thủy. Trong đó dạy cách giết chết kẻ thù qua
một hình nộm bằng sáp. Hình nộm đó là biểu hiện người mình cần giết. Có thể đem
nung cho chảy ra đến hết. Hoặc lấy kim chọc thẳng vào trái tim, người kia nhất
định sẽ chết. Về sau, tôi được bà Redfern cho biết sáng hôm đó Linda đi Leather
mua nến, và tỏ ra rất lúng túng khi bọc nến rơi lả tả xuống đất. Ta dễ dàng
tưởng tượng như sau: Linda đã nặn một hình người bằng sáp, có thể trang trí
thêm mấy sợi tóc hung lấy của Arlena cho thêm công hiệu, rồi lấy kim thọc qua
đúng trái tim rồi vứt vào trong lò sưởi để nung chảy, cho thêm bìa và giấy để đốt
cho mau.

"Đó là một hành động trẻ con, thô thiển, vô
lý, nhưng thể hiện một điều: Em muốn giết. Và có phải đó chỉ là ý muốn đơn
thuần? Hay là em đã chuyển sang hành động thực sự?"

"Thoạt nhìn, em có bằng chứng ngoại phạm
tuyệt đối, nhưng thực ra, như đã nói, giờ khắc ấy là do chính em nói ra để tự
che chắn. Rất có thể em đã nói giờ mười lăm phút quá hơn so với thực tế. Vậy là
sau khi bà Redfern đi khỏi, em lập tức băng tới thang sắt, đến chỗ bà mẹ kế
đang có mặt dưới bãi, bóp cổ bà rồi chuồn nhanh cũng qua thang sắt, trước khi
cô Brewster và ông Redfern đi ca nô tới. Tiếp đó em chỉ việc trở về vịnh Hải u,
xuống tắm rồi thản nhiên đi về khách sạn."

"Song như thế phải có hai điều kiện: một là
em biết Arlena đang ở đâu, hai là em phải có lực để thực hiện hành vi. Điều thứ
nhất không khó: Linda có thể mạo danh ai đó viết giấy hẹn mẹ kế. Điều thứ hai,
bàn tay em to, khỏe, gần như tay đàn ông. Hơn nữa, em đang ở tuổi lớn, dễ mất
thăng bằng. Mà sự mất thăng bằng trí não thường gây ra sức mạnh bất thường. Và
còn một số yếu tố nữa cần tính đến: mẹ đẻ của Linda đã bị đưa ra tòa về tội
giết người."

Ken
Marshall ngẩng đầu cao nói luôn.

-
Và được miễn tố.

-
Được miễn tố - Poirot công nhận.

Marshall
hậm hực:

-
Ông Poirot, ông nhớ kỹ điều này. Ruth, người vợ trước của tôi, hoàn toàn vô
tội. Điều này là chắc chắn. Tôi đã sống với cô ấy, tôi hiểu. Ruth là nạn nhân
vô tội của một số hoàn cảnh trùng hợp... Và tôi không tin một chút nào là Linda
giết Arlena. Vô lý!

-
Vậy theo ông, thư này là thư giả? – Poirot hỏi.

Marshall
xem kỹ lại lá thư mà Weston đưa trở lại:

-
Không, đúng là chữ của cháu - ông miễn cưỡng chấp nhận.

-
Nếu vậy, chỉ có hai cách giải thích. Hoặc em viết thật lòng, vì em có tội thật,
hoặc... hoặc em tự nhận tội về mình để che chở ai đó - che chở người mà em nghi
là thủ phạm.

-
Và người đó là tôi? - Marshall nói.

-
Có thể lắm chứ?

Marshall
nghĩ một lát, rồi từ tốn:

-
Không. Tôi không tin. Có thể lúc đầu Linda nghi cho tôi. Nhưng sau thì không,
cháu biết cảnh sát tin vào chứng cớ ngoại phạm của tôi và điều tra theo hướng
khác.

-
Nhưng giả thử điều làm con gái ông trăn trở, không phải chỉ là nghi, mà biết rõ
ông là thủ phạm?

Sau
một lát sững sờ, đại úy cười gằn một tiếng, đáp:

-
Vô lý.

-
Tôi chưa tin hẳn. Ông biết là quanh vụ án bà Marshall, có nhiều giả thuyết. Có
giả thuyết tống tiền, hôm ấy bà đi gặp tên tống tiền, rồi tên này giết bà. Có
giả thuyết buôn lậu ma túy diễn ra tại vũng Yêu Tinh: bà bắt gặp bọn buôn lậu
nên bị giết. Một giả thuyết thứ ba nữa: hành động của một kẻ ngoan đạo quá
khích và cuồng tín. Giả thuyết thứ tư: vợ ông chết đi, thì ông có lợi lớn, phải
không?

-
Thì tôi vừa nói...

-
Phải, phải, tôi biết... và rất đồng ý. Ông không thể tự tay giết vợ - ít nhất,
nếu hành động một mình. Nhưng nếu ông có đồng lõa?

-
Trời ơi trời, ông còn nghĩ ra lắm chuyện gì nữa?

Marshall,
được tiếng là điềm đạm, lúc này đã nổi cáu thật sự.

Poirot
vẫn điềm nhiên:

-
Những chuyện ấy có nghĩa là, vụ án không chỉ do một người thực hiện. Có sự đồng
lõa. Đúng là ông không thể vừa ngồi đánh máy vừa chạy ra vũng. Nhưng ông có đủ
thì giờ thảo một phúc thư bằng tốc ký, giao cho người khác ngồi đánh máy trong
phòng ông, còn ông thì đi ra để thi hành thủ đoạn.

Hercule
Poirot liếc nhìn về phía Rosamond Darnley:

-
Cô Darnley khai đã rời hốc Mặt Trời lúc mười một giờ mười và nhìn thấy ông làm
việc trong phòng. Nhưng, gần như cùng lúc ấy, ông Gardener lên khách sạn để tìm
cuộn len cho vợ lại không hề gặp hoặc trông thấy cô Damley. Như vậy không lạ
sao? Cứ như cô Darnley vẫn còn ở hốc Mặt Trời. Hay là cô Darnley đã về sớm hơn
nhiều và thay ông đánh máy chữ trong phòng? Một điều nữa: ông nói nhìn thấy cô
Darnley trong gương lúc cô ngó vào phòng lúc mười một giờ mười lăm. Nhưng, hôm
xảy ra án mạng, bàn giấy không kê trước gương giữa hai cửa sổ, mà kê ở góc
phòng, gần cửa sổ bên trái. Vậy là ông cố tình nói dối. Về sau, ông mới kê lại
bàn, nhưng đã muộn. Tôi biết là cả cô Darnley và ông đều nói dối.

Giọng
Rosamond cất lên, trầm trầm nhưng rành rọt:

-
Ông này quả là tinh quái!

Poirot
hạ giọng, đáp:

-
Nhưng không tinh quái bằng kẻ đã giết Arlena Marshall! Cô hãy nhớ lại xem. Sáng
hôm đó, Arlena đi gặp ai? Tôi tưởng, và tất cả mọi người đều tưởng như nhau:
gặp Patrick Redfern. Bà ấy không chuẩn bị đi gặp một tên hăm dọa tống tiền.
Nhìn nét mặt, dáng điệu bà ấy thì biết, bà ấy đi gặp người tình, hoặc ít nhất
là bà tưởng thế. Phải, tôi tưởng như vậy. Arlena Marshall đi gặp Patrick
Redfern. Tuy nhiên, chỉ lát sau, Redfern xuất hiện trên bãi tắm, rõ ràng muốn
tìm bà ấy. Thế là sao?

-
Một thằng đểu nào đã mạo danh tôi! - Redfern giận dữ gầm lên.

-
Ông rất ngạc nhiên và thất vọng khi không thấy bà ấy - Poirot tiếp tục. - Ông
làm bộ ngạc nhiên hơi quá đáng. Vì ông Redfern ạ, theo tôi, bà Arlena ra vũng Yêu
Tinh là để gặp ông. Và sau đó ông có ra đó thật, gặp bà ấy thật, và đã bóp chết
bà như ông đã dự tính.

Patrick
Redfern sửng sốt, ngắc ngứ:

-
Ông điên hay sao? Rõ ràng tôi đứng trước mặt ông, không rời bãi biển, rồi sau
mới cùng cô Brewster lên thuyền đi quanh đảo.

Poirot
lập tức nói lại:

-
Ông đã giết Arlena sau lúc cô Brewster chạy đi báo cảnh sát. Lúc hai người đi
bộ lên vũng thì Arlena chưa chết. Bà ấy nấp trong hang, chờ đến khi ông có một
mình...

-
Nhưng cái xác! Tôi trông thấy. Cô Brewster cũng thấy!

-
Có một cái thân xác, đúng, nhưng không phải là xác chết. Đó là thân xác còn
sống của kẻ tòng phạm với ông, cũng nằm giang rộng hai tay, và chiếc mũ rộng
vành úp lên mặt để che lấp. Đó là thân thể của Christine, vợ ông không biết có
phải là vợ hợp pháp, hay chỉ là đồng bọn - người đã giúp ông thực hiện vụ giết
người này, như đã từng giúp trước đây, bằng cách "phát hiện" thi thể
của Alice Corrigan mấy chục phút trước khi cô này chết, và người giết là chồng
cô ta - Edward Corrigan... chính ông!

Tiếng
Christine cất lên, lạnh lùng, đanh thép:

-
Patrick, hãy cẩn thận. Chớ nổi nóng.

Poirot
coi như không có chuyện gì, tiếp tục nói:

-
Ông nên biết là Sở cảnh sát Surrey đã nhận ngay ra ông và bà trên tấm ảnh chụp
chung với mọi người trên bãi biển. Và họ chỉ rõ hai người chính là Edward
Corrigan và Christine Deverill, người phụ nữ đã tìm thấy xác Alice.

Redfern
chồm dậy, mặt méo mó đến không nhận ra. Mặt một tên sát thủ, một con ác thú.
Hắn vừa gào thét vừa đưa tay ra lao về phía Poirot, bóp cổ ông.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3