Giã từ vũ khí - Chương 01 - 02 - 03
Chương 1
Vào cuối hạ năm ấy chúng tôi đóng quân trong một
ngôi nhà ở một làng trông sang sông và trông sang cánh đồng bằng chạy dài đến
chân núi. Lòng sông trong vắt nhiều sỏi, đá cuội, long lanh ngời dưới ánh nắng
mặt trời và nước thì ngả màu xanh cuồn cuộn chảy.
Trước nhà, những đoàn quân tiến qua và làm tung bụi
phủ lớp lớp lên lá. Thân cây cũng vướng đầy bụi. Năm ấy lá lại rụng sớm hơn mọi
năm, đồng thời chúng tôi lại thấy những đoàn quân tiến trên đường; bụi lại bay;
lá lại rơi rụng theo gió; đoàn quân tiếp tục đi để rồi sau đó con đường lại trở
nên vắng vẻ và trắng phau dưới tàn lá.
Cánh đồng ngập lúa. Ở đây có nhiều vườn cây, xa tít
chân trời là rặng núi trơ trọi ngả màu nâu. Trong rặng núi này chiến sự tiếp
diễn và về đêm chúng tôi thấy được ánh lửa của trọng pháo. Trong đêm tối, ánh
lửa lóe lên như sấm chớp ngày hè, nhưng đêm lại mát và không có cảm giác là lại
sắp có cơn giông.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người
yêu sách.]
Đôi khi trong đêm tối, chúng tôi nghe thấy tiếng
binh sĩ qua nhà cùng những khẩu trọng pháo có máy kéo. Ban đêm xe và người tấp
nập. Trên đường những con lừa mang những thùng đạn dược nặng trĩu hai bên hông,
cạnh những quân xa chở đầy người, và trong sự tấp nập ấy có nhiều xe khác phủ
bạt di chuyển chậm chạp. Ban ngày, những cỗ trọng pháo được kéo đi, toàn thân
được ngụy trang bằng những cành lá xanh; những xe kéo cũng được ngụy trang bằng
dây nho và lá xanh. Bên này sông, về phía Bắc, là một cánh rừng dẻ, xa hơn nữa
là một trái núi. Có lần, giao tranh đã diễn ra để tranh giành ngọn núi này
nhưng không có kết quả và về mùa thu, khi mưa đến, lá lại đổ, cành cây dẻ và
thân cây trơ trọi sậm đen vì mưa thu.
Vườn nho cũng thưa lá, trơ trụi và cả đồng quê ướt
át, thâm nâu, như tàn chết với mùa thu. Sương phủ trên sông, mây quanh đỉnh
núi, trên đường thì nước bùn tung tóe theo bánh lăn của quân xa và đoàn binh sĩ
choàng áo tơi, cũng bị lấm láp ướt át. Súng của họ bị ướt, và dưới áo tơi, họ
đeo hai túi đạn ở dây thắt lưng và mang hai túi đạn bằng da màu xám đựng đầy
băng đạn 6,5 li làm áo choàng phồng lên khiến cho đoàn người đang đi trên đường
giống như những người có mang sáu tháng rồi.
Trên đường có những chiếc xe nhỏ màu xám chạy qua
rất nhanh. Thông thường thì có một vị sĩ quan ngồi phía trước cạnh người lái và
nhiều sĩ quan khác ngồi phía sau. Những chiếc xe nhỏ này lại làm bắn bùn nhiều
hơn xe tải. Nếu có một sĩ quan nhỏ bé ngồi giữa hai vị tướng, nhỏ bé đến nỗi ta
không thấy mặt, chỉ thoáng thấy chỏm chiếc mũ kết cùng chiếc thắt lưng hẹp của
ông và nếu chiếc xe đó đặc biệt chạy nhanh thì đó có thể là nhà vua. Ngài ngự
tại Udine và hàng ngày vi hành như vậy để xem tình hình chiến sự. Và tình
hình thì ngày càng trầm trọng.
Khi tiết trời sang đông, mưa càng rơi tầm tã ngày
đêm và mưa đưa tới bệnh dịch thổ tả. May là bệnh này đã bị chặn đứng lại được
và sau cùng chỉ có bảy ngàn người bỏ mạng thôi.
Chương 2
Năm sau, quân đội chiến thắng liên tiếp. Ngọn núi
nằm bên kia thung lũng và trên sườn đồi cây dẻ đã bị chiếm giữ. Cũng chiến
thắng cả ở phía bên kia đồng bằng trên vùng cao nguyên chạy đến miền Nam.
Tháng tám thì chúng tôi qua sông, ngụ tại một căn nhà nhỏ ở Gorizia. Nhà này có
một máy nước, có nhiều cây rậm rạp, mát mẻ, nằm trong một ngôi vườn chung quanh
có vách tường bao bọc, và một giàn hoa nho nở tím cả một bên cạnh nhà. Lúc bấy
giờ chiến trận xảy ra ở dãy núi bên kia, cách xa gần một dặm. Thành phố trông
rất đẹp và ngôi nhà của chúng tôi cũng rất dễ chịu. Con sông chảy sau nhà và
thành phố đã bị chiếm một cách dễ dàng nhưng dãy núi nằm phía bên kia sông khó
mà có thể chiếm được. Riêng tôi vui mừng khi thấy bọn Áo tỏ vẻ muốn về thành
phố một ngày nào đó nếu chiến tranh chấm dứt bởi vì họ oanh tạc để phá huỷ trọn
thành phố mà chỉ vì mục tiêu chiến lược mà thôi. Dân chúng ở lại thành phố, ở
đây có bệnh viện, tiệm giải khát, cùng trọng pháo ở các góc phố. Vào cuối mùa
hạ với những đêm mát trời, với những trận đánh trong rặng núi bên kia thành
phố, với những thanh cầu mang nhiều vết đạn trái phá, với đường hầm sập cạnh
con sông nơi xảy ra chiến trận, với cây cối bao bọc chung quanh công viên và
con đường trồng cây chạy dài đến công viên; tất cả những cái đó với việc có gái
chơi trong thành phố, với việc Hoàng thượng ngủ trong xe mà khi đi ngang qua,
xe không còn chạy mua nữa, bây giờ người ta thỉnh thoảng thấy khuôn mặt, chiếc
cổ dài và râu xám giống như chòm râu mọc lún phún dưới hàm con dê, bao nhiêu
thứ đó hợp cùng vẻ lạ kì ở bên trong của những ngôi nhà mà một vạt tường đổ vì
đạn trái phá khiến cho vôi vữa, gạch vụn đổ xuống vườn nhà và đôi khi ở cả
ngoài đường cùng với chiến dịch may mắn ở Cacrô, tất cả những điều đó đổi thay
còn thì mọi việc bình thường làm cho mùa thu khác hẳn với mùa thu trước dù
chúng tôi vẫn đóng ở miền quê. Và bộ mặt chiến tranh cũng thay đổi.
Cánh rừng sồi trên ngọn núi phía sau thành phố đã
biến đâu mất. Vào mùa hạ, lúc chúng tôi tiến vào thành phố thì khu rừng còn
xanh tươi, nhưng giờ đây chỉ còn trơ lại mấy gốc cây cụt ngủn cùng những thân
cây gãy đổ và mặt đất bị đào xới tung lên. Một hôm, vào cuối mùa thu, đến khu
rừng sồi ngày trước, tôi thấy một đám mây trên đỉnh núi. Mây kéo đến nhanh,
khiến mặt trời chuyển thành màu vàng sậm. Cảnh vật nhuộm một màu xám ngắt và
bầu trời phủ đầy mây. Mây sà xuống núi rồi bất chợt bao quanh chúng tôi và
chúng tôi nhận ra đó là tuyết. Tuyết rơi lả tả theo chiều gió, phủ đầy mặt đất
trơ trọi, những gốc cây nhô lên đen sậm. Tuyết bám vào súng và dần dần những
lối mòn, dẫn tới những chòi lá sau các chiến hào hiện ra trong tuyết.
Sau đó, trở về thành phố, tôi ngắm tuyết rơi từ cửa
sổ của căn nhà dành cho sĩ quan. Tôi nghỉ ở đó với một người bạn, hai cái li và
một chai rượu Asti. Ngồi nhìn tuyết rơi chậm chạp, nặng nề, chúng tôi biết
rằng năm nay tình hình chiến sự thế là đã xong. Phía trên thành phố chưa kiểm
soát được một ngọn núi nào hết. Ở bên kia sông cũng chẳng chiếm được ngọn nào
cả. Việc ấy đành phải để sang năm vậy. Bạn tôi nhìn thấy cha tuyên úy bước rón
rén trên đường bùn lầy để xuống phố. Thấy vậy bạn tôi bèn đập vào cửa sổ cho vị
linh mục chú ý. Người ngước mắt nhìn lên thấy chúng tôi liền mỉm cười. Bạn tôi
làm hiệu mời vào nhưng ông lắc đầu đi thẳng.
Tối đó, trong buổi ăn chung, sau món mì Ý ai nấy đều
ăn một cách hối hả và nghiêm trang, hoặc là họ dùng nĩa xúc mì lên để cho những
sợi mì rời nhau ra từng sợi một gọn gàng, rồi mới cho vào mộm hoặc là cứ đưa mì
lên đút từ từ vào miệng. Chúng tôi tự rót rượu từ bình có lót rơm chung quanh,
bình để lỏng trong một cái máng sắt, ngón tay trỏ ấn cổ bình xuống là một thứ
rượu vang đỏ tươi ngon lành chảy vào cái li cũng cầm ở trong tay đó.
Có người ở ngoài đi vào, khi cánh cửa mở ra, tôi
nhìn thấy ngoài trời tuyết đang rơi và nói:
-
Tuyết bắt đầu rơi, chắc là bây giờ sẽ không còn tấn công nữa. - Chắc vậy - Viên thiếu tá đáp lại - Anh nên đi nghỉ phép, anh hãy đến
Naples, La Mã, Sicili...
- Nên đến Amalfi - Viên trung úy nói - Để tôi viết
cho anh lá thư giới thiệu anh với gia đình ở Amalfi. Ở đó mọi người sẽ coi anh
như con cái.
- Nên đi Palermo.
- Không, hắn phải đi Capri mới được.
- Tôi mong anh đến thăm gia đình tôi tại vùng núi
Abruy.
- Tôi thì thích cho anh đi
viếng Abruzzi và thăm gia quyến ở Capracotta - Cha tuyên úy nói.
- Hãy để cha nói về Abruzzi, nới đó có nhiều
tuyết hơn ở đây nữa. Hắn ta đâu có muốn thăm viếng những người dân quê. Nên để
cho hắn đến những trung tâm văn hóa và văn minh.
- Hắn ta còn cần phải có gái đẹp nữa chứ. Để tôi cho
nhiều địa chỉ ở thành phố Naples. Nơi có nhiều cô tuyệt đẹp - mà đều có những
bà mẹ đi kèm. Ha! Ha! Ha!
Viên đại úy nói rồi xòe bàn tay ra, ngón cái đưa lên
và những ngón kia xòe ra như khi ta làm hình bóng bằng các ngón tay rọi lên
tường vậy. Trên tường in bóng bàn tay viên đại úy. Ông lại nói bằng thứ tiếng Ý
lóng “Khi anh ra đi thì anh bằng như thế này”. Ông chỉ ngón tay cái. “Khi trở
về thì anh còn bằng thế này”. Ông ta chỉ ngón tay út. Ai nấy đều cười ầm lên.
- Xem này - Đại úy nói tiếp, ông lại xòe bàn tay ra
nữa. Và một lần nữa ngọn nến lại in bóng bàn tay ông lên tường. Đại úy bắt đầu
đưa thẳng ngón tay cái lên rồi gọi thứ tự năm ngón tay khởi sự từ ngón cái -
Này là anh cả (ngón cái), anh hai (ngón trỏ), anh ba (ngón giữa), anh tư (ngón
đeo nhẫn) và em út (ngón út). Khi ra đi anh bằng anh cả, khi trở lại thì anh cả
chỉ còn là em út.
Tất cả lại cười to lên, viên đại úy có vẻ đang thành
công với trò chơi các ngón tay...
- Anh nên đi nghỉ phép ngay là hay hơn - Thiếu tá
bảo tôi.
- Tôi thích đi cùng để hướng dẫn cho anh - Viên
trung úy nói.
- Bao giờ về, nhớ mang theo cái máy hát.
- Mang cả những đĩa nhạc ca kịch hay.
- Mang đĩa Caruso, hắn hát như sủa ấy.
- Cậu có ao ước được rống như Caruso không? Hắn
rống, tôi bảo hắn rống mà.
- Tôi thích anh đi Abruzzi - Cha tuyên úy
nói - Anh có thích dân cư ở đó, và tuy lạnh nhưng quang đãng, khô ráo. Anh có
thể ở gia đình tôi, cha tôi là một thiện xạ nổi tiếng - Ở người khác la lối
phản đối, nhưng ông vẫn tiếp tục nói - Ở đó săn bắn rất tốt. Rồi anh sẽ thấy
thích dân chúng và dù thời tiết lạnh, nhưng trời trong sáng và khí hậu khô, anh
có thể tạm nghỉ ở gia đình tôi, cha tôi là một nhà thiện xạ.
- Nào ta đi thôi - Vị đại úy nói - Chúng ta đến nhà
thờ trước khi cửa đóng.
- Xin chào cha - Tôi chào cha tuyên úy.
- Chào anh - Vị tu sĩ đáp lại.
Chương 3
Khi tôi trở lại mặt trận thì chúng tôi vẫn còn đóng
tại thành phố đó. Trong những vùng quanh đấy người ta có đặt thêm nhiều đại bác
và xuân đã đến. Cánh đồng xanh rờn, trên giàn nho đã có những mầm non nho nhỏ.
Cây dọc theo đường bắt đầu trổ lộc và gió mát từ biển thổi vào. Tôi lại thấy
thành phố với ngọn đồi xưa và tòa lâu đài cũ kĩ nằm trong một hẻm đất trên đồi
với những rặng núi màu nâu thẫm, hai bên sườn đã có hơi điểm màu xanh non.
Trong thành phố đã có thêm súng, vài bệnh viện mới. Ngoài đường người ta gặp
những người đàn ông, thỉnh thoảng vài người đàn bà Anh và thêm một vài ngôi nhà
nữa mới bị bắn phá. Tiết trời ấm áp như mùa xuân, tôi đi xuống con đường nhỏ
đầy cây, người tôi ấm lên nhờ ánh nắng phản chiếu trên tường. Tôi nhận thấy
chúng tôi vẫn ở trong ngôi nhà cũ và mọi vật quanh tôi đều giữ y nguyên như khi
tôi rời chúng để ra đi. Cửa mở, một anh lính ngồi trên chiếc ghế dài dưới ánh
nắng mặt trời. Một chiếc Hồng thập tự lưu động đang đợi ở cửa bên. Bên trong,
khi bước chân vào, tôi ngửi thấy hơi lạnh ở sàn đá và mùi thuốc men bệnh viện.
Tất cả vẫn nguyên như trước khi tôi ra đi - Chỉ trừ có điều bây giờ là mùa
xuân. Tôi nhìn vào cửa của gian phòng lớn, và thấy viên thiếu tá đang ngồi ở
bàn viết, cửa sổ mở rộng, ánh sáng tràn vào căn phòng. Ông ta không thấy tôi và
tôi cũng không biết là mình nên vào để tường trình mọi việc với ông ta hay là
nên đi thẳng lên gác trước để rửa ráy đã. Tôi quyết định lên gác trước.
Cửa phòng của tôi ở chung với trung úy Rinaldi nhìn
ra sân. Cửa sổ mở toang. Giường tôi được trải một tấm nệm và đồ đạc của tôi thì
treo trên tường, chiếc mặt nạ phòng hơi ngạt đựng trong một cái hộp sắt hình
chữ nhật, chiếc mũ sắt cũng treo cùng một chiếc giá trên tường. Chiếc rương của
tôi nằm sát dưới chân giường và đôi ủng mùa đông, da giày bóng loáng vì dầu mỡ
nằm trên đó. Cây súng tôi đoạt được của tên Áo chuyên môn bắn trộm, với nòng
súng xám xanh hình bát giác, báng súng màu nâu sậm treo giữa hai chiếc giường.
Tôi chợt nhớ ra chiếc ống rất hợp, khóa bỏ trong rương. Trung úy Rinaldi nằm
nghỉ bên giường kia. Khi tôi bước vào phòng, anh thức giấc và ngồi nhỏm dậy.
- Chà - Anh nói - đi chơi thế nào?
- Tuyệt!
Chúng tôi bắt tay nhau, anh choàng tay qua cổ tôi và
hôn.
-
Cậu bẩn thật - Anh bảo - Tắm rửa cho sạch sẽ đi. Nhưng hãy kể liền bây giờ cho
tôi nghe xem cậu đã đi những đâu và làm những gì nào.
- Tôi đi khắp nơi. Milano này, Florence, La
Mã, Naples, Villa San Gionvanni, Messina, Taormina...
- Cậu liệt kê như bảng chỉ dẫn xe lửa ấy. Cậu có
nhiều chuyện phiêu lưu thú vị không?
- Có chứ.
- Ở đâu?
- Milano, Firenze, Rome, Napoli...
- Thôi đủ rồi. Nói rõ xem ở đâu hay nhất.
- Ở Milano.
- Vì đó là nơi đầu tiên chứ gì.
- Cậu gặp nàng ở đâu? Ở Cova à? Cậu đi đâu? Và cảm
thấy thú vị ra sao? Kể mau nghe coi. Cậu có ở lại suốt đêm với nàng không?
- Có.
- Không đáng kể. Hiện giờ ở đây chúng ta có nhiều
gái đẹp, nhiều nàng mới chưa từng thấy ở mặt trận từ trước đến giờ.
- Tuyệt quá.
- Cậu không tin à? Chiều nay tớ sẽ đưa đi xem ngay.
Trong thành phố còn có nhiều cô người Anh nữa. Tớ hiện đang yêu cô Barkley. Tớ
sẽ giới thiệu cậu với cô ấy. Tớ sẽ cưới nàng.
- Thôi để tớ còn phải đi tắm rửa rồi lên trình diện.
Giờ còn việc gì làm nữa không?
- Từ ngày cậu đi nghỉ phép đến nay chẳng có gì ngoài
bệnh tê cóng nẻ, vàng da, lậu, những vết thương tự gây ra, sưng phổi và hạ cam
cứng và mềm. Mỗi tuần lại có người bị những mảnh đá vỡ gây thương tích. Chỉ có
một vài người bị thương thật sự. Tuần tới chiến tranh lại bắt đầu. Có thể
thế... Nghe cấp trên nói vậy. Sao, cậu bảo có nên cưới Barkley không? Dĩ nhiên
là sau chiến tranh kia.
- Được hẳn đi chứ - Tôi vừa nói vừa đổ nước đầy bồn
tắm.
- Đêm nay cậu hãy kể mọi việc cho tớ nghe nhé -
Rinaldi bảo tôi - Bây giờ tớ phải ngủ lại cho khỏe khoắn, tươi tỉnh để đến thăm
nàng Barkley chứ.
Tôi cởi áo choàng và sơ mi rồi ngồi trong bồn nước
lạnh tắm. Vừa lấy khăn kì cọ mình mẩy, tôi vừa nhìn chung quanh gian phòng,
nhìn ra cửa sổ rồi nhìn Rinaldi đang nằm dài trên giường, đôi mắt nhắm lại. Anh
từ Amalfi đến, trạc tuổi tôi, đẹp trai. Anh rất yêu nghề giải phẫu và hai chúng
tôi là đôi bạn chí thân. Khi tôi nhìn, anh mở mắt ra hỏi:
- Cậu có tiền không?
- Có.
- Cho tớ vay năm mươi đồng lia.
Tôi lau tay khô rồi với lấy ví trong chiếc áo choàng
treo trên tường. Rinaldi cầm lấy tiền gấp lại rồi cứ nằm trên giường mà nhét
tiền vào túi quần đùi ghết. Anh mỉm cười bảo:
- Tớ phải làm cho cô Barkley tưởng là giàu có mới
được. Cậu là bạn chí thân của tớ đồng thời cũng là vị cứu tinh của tớ về vấn đề
tiền bạc.
- Thôi yên đi - Tôi bảo hắn.
Đêm đó trong buổi ăn chung, tôi ngồi gần cha tuyên
úy. Ông ta tỏ vẻ thất vọng và bỗng nhiên cảm thấy bị chạm tự ái khi biết tôi
không đi Abruzzi. Ông đã viết thư cho cha ông biết tôi sẽ đến đó, gia đình
ông đã chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón tôi. Chính tôi cũng cảm thấy ân hận như
ông nhưng tôi chẳng hiểu tại sao tôi lại không đến Abruzzi. Thực ra thì
tôi cũng đã có ý định đi đến đó. Tôi cố gắng giải thích cho vị linh mục hiểu lí
do thế nào mà định một đàng lại đi một nẻo. Sau cùng ông hiểu ra và biết rằng
trong thâm tâm tôi rất muốn đi và mọi việc đều tạm ổn. Tôi đã uống nhiều rượu
không kể cà phê và rượu Strega. Tôi lè nhè giải thích vì sao chúng tôi không
làm những điều chúng tôi muốn làm; chúng tôi không bao giờ làm như thế cả.
Hai chúng tôi nói chuyện với nhau trong khi những
người chung quanh thi nhau tranh luận. Thực ra tôi đã có ý định đi Abruzzi.
Tôi không thấy một nơi nào mà đường sá đóng băng cứng như sắt, thời tiết thì
lạnh, khô và tuyết vừa khô vừa nhẹ rơi lấm tấm như bụi mù, mà người ta thấy
những vết chân thỏ rừng trên tuyết. Tôi chẳng đi đến nơi nào như thế cả, ngoài
những nơi quyện đầy khói thuốc, của những quán rượu, những đêm khi gian phòng
quay cuồng và phải nhìn vào tường để thấy nó dừng lại; những đêm say mèm, nằm
trong giường thấy cõi đời này chỉ có thế, khi mình cảm thấy tỉnh táo lạ thường
và chẳng biết mình nằm cạnh ai và trong bóng đêm mọi vật đều hư hư thực thực.
Rồi bỗng nhiên mình lại quá lo lắng và ngủ thiếp đi để rồi sáng ra thức giấc
với những ý tưởng lo lắng trở lại, tất cả những gì đã xảy ra hôm qua đều biến
đi đâu mất, cuộc đời hiện ra với những đường nét rõ ràng sắc nhọn và đầy khó
khăn hoặc đôi khi là một cuộc cãi nhau về giá cả. Cũng có lắm lúc lòng lại thấy
thoải mái, thích thú và ấm áp. Rồi đi ăn điểm tâm, cơm trưa hoặc đôi khi quên
hết mọi chi tiết nhỏ nhặt và sung sướng được đi dạo phố. Nhưng rồi một ngày
khác lại bắt đầu và tiếp theo là đêm với cuộc sống không thay đổi. Tôi cố gắng
nói lên sự khác biệt giữa ngày và đêm. Tôi muốn diễn tả cho mọi người biết đêm
hơn ngày biết bao chỉ trừ khi nào ban ngày trong sáng và lạnh, nhưng tôi không
sao nói lên được điều ấy; và bây giờ tôi cũng không sao diễn tả được cảm nghĩ
đó. Nhưng ai cũng đã từng có ý nghĩ đó sẽ biết. Vị linh mục không hề có ý nghĩ
đó như tôi nhưng ông ta đã hiểu được thực ra tôi đã có ý muốn
đi Abruzzi nhưng tôi không đi được. Chúng tôi tuy vẫn là bạn, với
nhiều ý thích giống nhau, nhưng giữa chúng tôi đã có điểm khác nhau. Ông luôn
luôn biết những điều mà tôi không được biết và những điều mà khi học tôi không
thể nào nhớ nổi, và dù sau đó có học lại đi chăng nữa tôi cũng chẳng hề biết gì
cả. Lúc này tất cả đều dự bữa ăn chung. Khi ăn xong thì cuộc tranh luận lại
tiếp tục. Hai chúng tôi ngừng nói chuyện. Vị đại úy lớn tiếng nói:
- Cha không được vui...
- Tôi vui chứ - vị linh mục trả lời.
- Cha không vui. Cha muốn bọn Áo thắng - Đại úy nói
tiếp. Mọi người lắng tai nghe.
Vị linh mục lắc đầu trả lời:
- Không.
- Cha muốn chúng tôi đừng bao giờ tấn công cả. Có
phải rằng cha muốn chúng tôi đừng bao giờ tấn công địch không?
- Không phải thế, chúng ta đánh nhau, tôi nghĩ chúng
ta nên đánh chứ.
- Ta phải tấn công! Cha tán thành đi. Chúng ta sẽ
tấn công.
Cha tuyên úy gật đầu.
- Thôi hãy để cha yên - Thiếu ta bảo - Cha rất tốt.
- Vả lại nữa cha cũng không thể làm gì được trong
cuộc chiến này - Viên đại úy nói.
Tất cả chúng tôi đều rời bàn đứng dậy.