Cái ghế trống - Phần II - Chương 21 - 22
CHƯƠNG
HAI MƯƠI MỐT
Tại quán Eddie, quán bar cách
khu tạm giam một khối phố, Rich Culbeau lạnh lùng nói: “Đây không phải là trò
chơi.”
“Tao không nghĩ đây là trò chơi,”
Sean O’Sarian đáp. “Tao chỉ cười to thôi. Ý tao là, mẹ kiếp, đơn giản là cười
to thôi. Tao đang xem đoạn phim quảng cáo kia.” Gã hất đầu chỉ chiếc màn hình
ti vi bám đầy dầu mỡ đặt bên trên cái giá đựng đậu phộng chiên nhãn hiệu Beer
Nuts. “Đoạn thằng cha này đang cố gắng đến sân bay và xe hắn…”
“Mày hay như thế quá. Mày cợt
nhả. Mày chẳng chú ý gì.”
“Được rồi. Tao đang lắng nghe
đây. Bọn ta sẽ vào từ phía sau. Cái cửa sẽ
được để mở.”
“Đây là
việc tao định hỏi,” Harris Tomel nói. “Cửa sau khu tạm giam chẳng bao giờ mở.
Nó lúc nào cũng khóa và nó có, bọn mày biết đây, then ngang bên trong.”
“Then
ngang sẽ được tháo ra và cửa sẽ mở. Ok chưa?”
“Đây là
mày nói thế,” Tomel hoài nghi.
“Nó sẽ mở,”
Culbeau tiếp tục. “Bọn ta đi vào. Sẽ có chìa khóa mở phòng giam thằng nhãi trên
bàn, cái bàn sắt bé tí. Bọn mày biết không hả?”
Tất nhiên
hai gã kia biết cái bàn. Bất cứ kẻ nào từng qua đêm trong khu tạm giam của
Tanner’s Corner đều bị sây sát ống đồng do va vào cái bàn chết tiệt được vít
chặt xuống sàn gần cửa, đặc biệt nếu lại đang say xỉn nữa.
“Rồi, tiếp
tục đi,” O’Sarian nói, bây giờ đã chú ý.
“Bọn ta mở
khóa phòng giam thằng nhãi và đi vào. Tao sẽ dùng bình xịt hơi cay xịt cho nó
một phát. Trùm một cái bao qua đầu nó - tao có cái bao bố vẫn để dìm mèo con
trong ao, chỉ trùm qua đầu nó thôi và đưa nó ra ngoài qua cửa sau. Nếu muốn nó
cứ việc la hét nhưng chẳng ma nào nghe thấy đâu. Harris, mày sẽ ngồi trên xe
tải đợi. Hãy lùi xe vào sát cửa ấy. Đừng tắt máy.”
“Bọn ta sẽ
đưa nó đi đâu?” O’Sarian hỏi.
“Không đến
chỗ đứa nào hết.” Culbeau nói, tự hỏi liệu O’Sarian có đang nghĩ là bọn gã sẽ
đưa tên tù bị bắt cóc về nhà một đứa trong bọn không. Nếu thế thì thằng ôn gầy
giơ xương này thậm chí còn ngu ngốc hơn Culbeau vẫn tưởng. “Đến cái ga ra cũ,
gần đường tàu hỏa.”
“Tốt,”
O’Sarian nhận xét.
“Bọn ta
đưa nó đến đó. Tao đã có cái bình hàn xì. Và bọn ta sẽ cho nó thử tí. Theo tao
thì chỉ năm phút là cùng, thằng nhãi sẽ cung khai nơi đang giữ Mary Beth.”
“Và rồi
bọn ta…” Giọng O’Sarian nhỏ đi.
“Cái gì?”
Culbeau quát. Sau đó gã thì thào: “Mày sắp sửa nói cái điều mà có lẽ mày không
muốn nói oang oang ra trước bàn dân thiên hạ đấy hả?”
O’Sarian
thì thào đáp trả: “Mày vừa nói tới việc cho thằng nhãi thử mùi cái
bình hàn xì. Tao thấy nó xem chừng chẳng hay hớm gì hơn việc tao đang định hỏi
- việc sẽ thực hiện tiếp theo đấy.”
Điều này
thì Culbeau phải công nhận, tuy tất nhiên gã không nói với O’Sarian rằng gã này
có lẽ đã ghi được một điểm. Thay vào đó, gã chỉ bảo: “Việc gì đến sẽ phải đến.”
“Đúng,”
Tomel đồng tình.
O’Sarian
nghịch cái nắp chai bia, dùng nó cậy ghét bẩn trong móng tay ra. Gã đã trở nên
cáu kỉnh.
“Sao?”
Culbeau hỏi.
“Như thế
này mạo hiểm lắm. Tóm thằng nhãi ở trong rừng thì dễ dàng hơn. Ở chỗ cái cối
xay ấy.”
“Nhưng hắn
không còn ở chỗ cái cối xay trong rừng nữa,” Tomel nói.
O’Sarian
nhún vai: “Tao chỉ đang băn khoăn không biết số tiền ấy có đáng không.”
“Mày muốn
bàn lùi à?” Culbeau gãi gãi bộ râu quai nón, nghĩ nóng thế này gã phải cạo nó
đi mới được, nhưng như thế thì cái cằm xệ ba ngấn của gã lại có thể bị người ta
chú ý hơn. “Tao vẫn muốn tiền chia đôi hơn là chia ba đấy.”
“Không,
mày biết tao đâu muốn bàn lùi. Thế nào cũng được.” O’Sarian lại đánh mắt sang
ti vi. Gã chú mục vào một bộ phim và lắc đầu, giương to mắt lên nhìn một nữ
diễn viên.
“Hẵng
khoan,” Tomel nói, ánh mắt hướng ra bên ngoài cửa sổ. “Xem kìa.” Gã hất đầu chỉ
ra bên ngoài.
Nữ cảnh
sát tóc đỏ người New York, cái cô ả rút dao nhanh phát khiếp, đang đi bộ ngược
lên bên trên con phố, tay cầm một cuốn sách.
Tomel nhận
xét “Cô em đẹp gái đấy. Tao có thể xài một chút được.”
Nhưng
Culbeau nhớ ánh mắt lạnh lẽo của cô ả và mũi dao im phăng phắc dưới cằm
O’Sarian. Gã nói: “Không đáng để mày nhọc công.”
Tóc đỏ
bước vào khu tạm giam.
O’Sarian
cũng đang nhìn. “Chà, cô em đó khiến tình hình hơi xấu đi.”
Culbeau
chậm rãi nói: “Không, không đâu. Harris, đỗ cái xe tải ở đằng kia. Và vẫn để nổ
máy.”
“Còn cô
ta thì sao?” Tomel hỏi.
Culbeau
nói: “Tao có vô khối bình xịt hơi cay.”
Bên trong
khu tạm giam, cảnh sát Nathan Groomer ngồi ngả người trên chiếc ghế dựa ọp ẹp
và gật đầu với Sachs.
Sự si mê
của Jesse Corn đã khiến cô phát ngấy, nụ cười xã giao của Nathan khiến cô cảm
thấy thoải mái hơn. “Xin chào cô.”
“Anh là
Nathan, đúng không?”
“Vâng.”
“Con chim
mồi kia,” Sachs nhìn xuống bàn anh ta.
“Cái vật
cũ kỹ này ấy à?” Nathan nhún nhường hỏi.
“Nó là
chim gì thế?”
“Vịt trời
cái. Chừng một năm tuổi. Vịt. Không phải chim mồi.”
“Anh tự
làm à?”
“Thú vui
của tôi. Cũng còn mấy con nữa trên bàn làm việc của tôi ở trụ sở chính. Nếu
muốn cô cứ việc xem. Tôi tưởng cô đi rồi?”
“Tôi sắp
đi. Tình hình thế nào?”
“Ai cơ?
Cảnh sát trưởng Bell ấy à?”
“Không, ý
tôi là Garrett.”
“Ồ, tôi
không biết Mason quay lại gặp hắn, nói chuyện, cố gắng bắt hắn khai cô gái đang
ở đâu. Nhưng hắn không khai gì cả.”
“Mason
đang ở đây à?”
“Không,
anh ta đi rồi.”
“Còn Cảnh
sát trưởng Bell và Lucy?”
“Không ở
đây, họ đi tất cả rồi. Quay lại trụ sở chính quyền quận. Tôi có thể giúp đỡ cô
được gì?”
“Garrett
muốn cuốn sách này,” Sachs giơ nó lên. “Tôi đưa cho hắn được chứ?”
“Sách gì
thế, Kinh Thánh à?”
“Không,
sách về côn trùng.”
Nathan cầm
lấy nó, kiểm tra kỹ lưỡng - Sachs đồ là xem có vũ khí không. Rồi anh ta trả
lại.
“Thằng
nhãi kỳ quái. Cứ như trong phim kinh dị. Cô nên đưa cho hắn
một cuốn Kinh Thánh mới phải.”
“Tôi nghĩ
hắn chỉ quan tâm đến loại sách này.”
“Theo tôi
thì cô đúng đấy. Bỏ vũ khí của cô vào cái két sắt kia và tôi sẽ cho cô vào.”
Sachs bỏ
khẩu Smith & Wesson vào và bước về phía cửa, nhưng Nathan nhìn cô vẻ chờ
đợi. Cô nhướn một bên mày.
“Chà, thưa
cô, tôi hiểu là cô còn con dao nữa.”
“Ồ, vâng.
Tôi quên.”
“Nguyên
tắc là nguyên tắc, cô biết đấy.”
Sachs đưa
con dao gấp ra. Nathan bỏ nó xuống bên cạnh khẩu súng.
“Anh có
muốn giữ cả bộ còng không?” Sachs đập nhẹ vào chiếc bao đựng còng của mình.
“Không.
Người ta không thể gặp rắc rối lớn với cái đó. Tất nhiên, ở chỗ chúng tôi từng
có một đức cha đã gặp rắc rối lớn với nó. Nhưng chẳng qua là vì bà vợ của đức
cha về nhà sớm và phát hiện ra ông ấy đang bị trói cổ tay vào cọc giường, còn
Sally Anne Carlson thì đang cưỡi lên ông ấy. Nào, cô được phép vào rồi đấy.”
Rich
Culbeau, bị gã Sean O’Sarian nhút nhát bám rịt, đứng bên cạnh một bụi tử đinh
hương đã lụi phía sau khu tạm giam.
Cửa sau
khu tạm giam mở ra một cánh đồng lớn, đầy cỏ, rác, các bộ phận ô tô cũ, máy móc
hỏng. Cũng có không ít vỏ bao cao su èo uột.
Harris
Tomel lái chiếc Ford F-250 long lanh của gã tấp vào lề đường và quay đầu xe
lại. Culbeau nghĩ Tomel đáng lẽ nên đến từ hướng kia vì hướng này hơi lộ liễu,
nhưng con phố vắng tanh vắng ngắt, hơn nữa, sau khi quầy kem sữa bột ngô đóng
cửa, chẳng có lý do cho bất cứ ai đi tới khu vực này. Ít nhất thì chiếc xe tải
cũng còn mới và giảm thanh tốt, nó không gây tiếng ồn.
“Đứa nào ở
văn phòng đằng trước vậy?” O’Sarian hỏi.
“Nathan Groomer.”
“Với cô ả cớm đó à?”
“Tao không biết. Làm thế quái
nào mà tao biết được? Nhưng nếu cô ả ở đây thì cô ả sẽ phải bỏ súng và con dao
đã gí vào cổ mày vào két sắt.”
“Liệu Nathan có nghe thấy nếu
cô ả hét lên không?”
Nhớ lại ánh mắt lạnh lẽo của
tóc đỏ và lưỡi dao loáng lên, Culbeau nói: “Nhiều khả năng là thằng nhãi sẽ hét
chứ chẳng phải cô ả.”
“Ờ, thế, nếu nó hét lên thì
sao?”
“Chúng ta sẽ trùm nhanh cái bao
lên đầu nó. Này.” Culbeau đưa cho O’Sarian bình xịt hơi cay sơn hai màu trắng -
đỏ. “Xịt thấp thôi vì người ta hay chúi xuống.”
“Liệu nó…? Ý tao là, liệu nó có
ảnh hưởng đối bọn ta không? Hơi cay ấy?”
“Không, nếu mày không tự xịt
thẳng vào cái bản mặt mày. Hơi xịt ra thành luồng chứ không phải thành đám.”
“Tao nên nhằm vào ai?”
“Thằng nhãi.”
“Nếu cô ả ở gần tao hơn thì
sao?”
Culbeau lẩm bẩm: “Cô ả là phần
tao.”
“Nhưng…”
“Phần tao.”
“Được rồi,” O’Sarian nhất trí.
Hai gã chúi đầu khi đi qua một
ô cửa sổ bẩn thỉu phía sau khu tạm giam và dừng lại trước cánh cửa kim loại.
Clubeau nhận ra nó hé mở chừng nửa đốt ngón tay. “Thấy chưa, không khóa,” gã
thì thào. Cảm thấy đã ghi điểm trong một cuộc đấu nào đấy với O’Sarian. Rồi băn
khoăn tự hỏi tại sao gã lại cảm thấy cần thiết phải đạt được điều ấy. “Bây giờ,
tao sẽ gật đầu. Rồi bọn ta ập vào, xịt hơi cay cả hai đứa - cứ xịt cái của nợ
đó thật nhiều vào.” Gã đưa cho O’Sarian một cái bao tải dày. “Tiếp theo trùm
cái này lên đầu nó.”
O’Sarian nắm chặt chiếc bình
xịt, hất đầu chỉ cái bao tải thứ hai xuất hiện trong tay Culbeau. “Vậy chúng ta
sẽ tóm cả cô ả nữa?”
Culbeau thở dài, bực bội nói:
“Phải, Sean ạ. Chúng ta sẽ tóm.”
“Ồ. Được rồi. Chỉ thắc mắc thế
thôi.”
“Khi chúng nó chẳng còn kháng
cự được nữa, lôi nhanh chúng nó ra ngoài. Đừng dừng lại vì bất cứ lý do gì.”
“Ok… Ồ, tao đã định nói. Tao có
mang theo khẩu Colt của tao.”
“Cái gì?”
“Tao có khẩu.38 ly. Tao mang
theo nó.” O’Sarian hất đầu chỉ xuống túi quần.
Culbeau im lặng một lát. Rồi gã
nói: “Tốt.” Gã nắm bàn tay to tướng của gã vào tay nắm cửa.
CHƯƠNG
HAI MƯƠI HAI
Liệu đây có phải khung cảnh
cuối cùng mà anh ngắm nhìn không? Anh băn khoăn tự hỏi.
Từ chiếc giường bệnh, Lincoln
Rhyme trông thấy được một công viên trong Trung tâm Y khoa của Đại học Tổng hợp
Bắc Carolina ở Avery. Những cái cây sum suê, lối đi bộ lượn ngoằn ngoèo qua bãi
cỏ xanh rì, vòi phun nước bằng đá mà một cô y tá đã nói với anh là phỏng theo
một giếng nước nổi tiếng nào đấy trong khuôn viên Đại học Tổng hợp Bắc Carolina
ở Chapel Hill.
Từ chiếc giường ngủ tại ngôi
nhà của anh trên đường Tây Công viên Trung tâm ở Manhattan, Rhyme có thể trông
thấy bầu trời và vài tòa nhà dọc theo đại lộ Năm. Nhưng những khung cửa sổ ở đó
cách sàn và khá cao nên anh không trông thấy được Công viên Trung tâm trừ phi
chiếc giường được đẩy sát vào khung kính, cho phép anh nhìn xuống đám cây cỏ.
Còn ở đây, có lẽ vì trong khi
xây dựng người ta đã lưu ý tới các bệnh nhân bị chấn thương tủy sống và thần
kinh, những khung cửa sổ được đặt thấp hơn. Thậm chí có thể chạm tới quang
cảnh, Rhyme tự nhủ một cách châm biếm.
Rồi anh lại băn khoăn không
biết liệu cuộc phẫu thuật có đem đến chút thành công nào không. Liệu anh thậm
chí có sống sót không.
Lincoln Rhyme biết rằng không
có khả năng làm những việc đơn giản là điều đáng nản nhất.
Ví dụ, đi từ New York đến Bắc
Caroiina là cả một dự án, phải tính toán trước bao nhiêu lâu, phải lên kế hoạch
thật cẩn thận, sao cho những khó khăn trong chuyến đi hoàn toàn không ảnh hưởng
xấu tới Rhyme. Nhưng cái gánh nặng ghê gớm anh phải chịu đựng do chấn thương
trở nên nặng nề nhất mỗi khi nó tác động đến những việc nhỏ nhặt mà một người
khỏe mạnh vốn vẫn làm chẳng cần suy nghĩ gì hết. Gãi chỗ ngứa trên thái dương,
đánh răng, lau miệng, mở lon sô đa, ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế dựa để nhìn
ra bên ngoài cửa sổ và quan sát lũ chim sẻ lăn lộn trong đám đất cát của khu
vườn…
Anh lại băn khoăn tự hỏi anh
đang ngu ngốc tới mức nào.
Anh đã gặp được nhà thần kinh
học giỏi nhất nước và bản thân anh là một khoa học gia. Anh đã đọc và đã hiểu
các tài liệu viết về khả năng gần như không thể cải thiện tình hình ở những
bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp độ C4. Nhưng anh vẫn quyết tâm tiến tới cuộc
phẫu thuật với Cheryl Weaver - bất chấp nguy cơ là cái khung cảnh thôn dã bên
ngoài ô cửa sổ này, tại một bệnh viện xa lạ ở một thị trấn xa lạ, có lẽ sẽ trở
thành hình ảnh thiên nhiên cuối cùng anh còn được trông thấy trong cuộc đời.
Tất nhiên là có các nguy cơ.
Vậy tại sao anh vẫn sẽ làm phẫu
thuật?
Ồ, có một lý do rất xác đáng.
Nhưng đó là một lý do mà nhà
hình sự học lạnh lùng trong anh không muốn thừa nhận và là một lý do mà anh sẽ
chẳng bao giờ dám nói to ra thành lời. Vì nó chẳng liên quan gì đến việc có thể
đi đi lại lại xung quanh một hiện trường vụ án tìm kiếm chứng cứ, chẳng liên
quan gì đến việc đánh răng hay ngồi dậy trên giường. Không, không, nó hoàn toàn
chỉ vì Amelia Sachs.
Rốt cuộc thì anh đã thừa nhận
sự thật: rằng anh càng ngày càng sợ bị mất cô. Anh ủ ê nghĩ ngợi rằng sớm muộn
gì cô cũng sẽ gặp một anh chàng Nick khác - anh chàng đa tình đẹp trai từng là
người yêu của cô mấy năm trước. Anh xác định điều này là tất yếu, chừng nào mà
anh vẫn còn phải bất động như hiện nay. Cô muốn có con. Cô muốn một cuộc đời
bình thường. Và vì vậy mà Rhyme sẵn sàng mạo hiểm với cái chết, mạo hiểm với
tình trạng sẽ còn tồi tệ hơn, hy vọng rằng tình hình của anh có thể được cải
thiện.
Tất nhiên anh biết cuộc phẫu
thuật sẽ không cho phép anh khoác tay Sachs đi dạo dọc theo đại lộ Năm. Anh chỉ
hy vọng một sự cải thiện hết sức nhỏ - dịch đến gần cuộc đời bình thường hơn
chút ít. Đến gần cô hơn chút ít. Nhưng trong trí tưởng tượng đáng kinh ngạc của
mình, Rhyme có thể hình dung ra được bàn tay anh nắm lấy bàn tay cô, siết chặt
lấy nó và cảm thấy cái áp lực mơ hồ từ làn da cô.
Một điều nhỏ nhặt đối với tất
cả những người khác trên thế giới này, nhưng đối với Rhyme, lại là một điều kỳ
diệu.
Thom bước vào phòng. Sau chút
im lặng, anh chàng nói: “Một nhận xét này.”
“Tôi không muốn nghe nhận xét
nào hết. Amelia đâu?”
“Dù sao tôi cũng cứ nói với
anh. Đã năm ngày anh chưa uống.”
“Tôi biết. Thật đến là bực
bội.”
“Anh đang giữ sức khỏe cho cuộc
phẫu thuật.”
“Mệnh lệnh của bác sĩ,” Rhyme
sốt ruột nói.
“Chúng có ý nghĩa
đối với anh từ khi nào vậy?”
Một cái nhún vai. “Họ chuẩn bị
dò hỏi tôi đủ thứ đấy. Chẳng qua là tôi nghĩ sẽ khôngkhôn ngoan nếu
làm tăng thêm lượng cocktail trong máu.”
“Sẽ không khôn ngoan. Anh đúng
đấy. Nhưng anh đã chú ý nghe lời bác sĩ của anh. Tôi rất tự hào về anh.”
“Ôi, sự tự hào - bây giờ thì đó
cũng có một thứ tình cảm hữu ích đấy.”
Thom tiếp tục: “Nhưng tôi muốn
nói điều này.”
“Đằng nào thì cậu cũng sẽ nói,
cho dù tôicó muốn cậu nói hay không.”
“Tôi đã đọc nhiều về vấn đề
này, Lincoln. Các bước tiến hành phẫu thuật ấy.”
“Ồ, thế à? Tôi hy vọng cậu đã
sử dụng thời gian của cậu.”
“Tôi chỉ muốn nói là nếu lần
này không được, chúng ta sẽ quay lại. Sang năm. Sang năm nữa. Năm năm nữa. Rồi
sẽ được.”
Thói đa cảm trong Lincoln Rhyme
cũng đã chết y như tủy sống của anh, tuy nhiên anh vẫn cố gắng nói: “Cảm ơn,
Thom. Bây giờ thì cái bà bác sĩ ấy đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? Tôi đã lao động
vất vả để tóm được những kẻ bắt cóc tâm thần cho những con người này. Tôi nghĩ
là họ sẽ đối xử với tôi tử tế hơn một chút chứ.”
“Chị ấy mới muộn mười phút
thôi, Lincoln. Còn chúng ta hôm nay đã thay đổi cuộc hẹn hai lần.”
“Gần hai mươi phút rồi. A, đây
rồi.”
Cánh cửa phòng bệnh mở ra. Và
Rhyme ngẩng nhìn, chờ đợi được trông thấy Tiến sĩ Weaver. Nhưng đó không phải
ngưòi bác sĩ phẫu thuật.
Cảnh sát trưởng Jim Bell, mặt
lấm tấm mồ hôi, bước vào. Ngoài hành lang đằng sau lưng anh ta là cậu em rể,
Steve Farr. Cả hai người đàn ông đều đang rất căng thẳng.
Ngay lập tức nhà hình sự học
nghĩ rằng họ đã tìm thấy xác Mary Beth, rằng gã trai trên thực tế đã giết chết
cô gái. Và tiếp theo anh nghĩ Sachs sẽ thất vọng nhường nào trước tin tức ấy,
khi niềm tin cô đặt vào gã trai vỡ tan tành.
Nhưng Bell đem đến tin tức
khác. “Tôi xin lỗi phải thông báo với anh chuyện này, Lincoln.” Và Rhyme biết
rằng đã có chuyện gì đó liên quan mật thiết đến cá nhân anh hơn, chứ không chỉ
đơn thuần vì Garrett Hanlon và Mary Beth McConnell. “Lúc đầu tôi định gọi điện.
Nhưng rồi tôi cho rằng anh phải được nghe nói trực tiếp. Vì thế mà tôi tới
đây.”
“Chuyện gì, Jim?” Rhyme hỏi.
“Amelia.”
“Cái gì?” Thom hỏi.
“Cô ấy làm sao?” Rhyme, tất
nhiên, không thể cảm thấy được quả tim mình đập trong lồng ngực, nhưng anh cảm
thấy được máu dồn lên mặt và thái dương. “Cái gì? Nói tôi nghe!”
“Rich Culbeau và hai gã bạn đi
qua khu tạm giam. Tôi chẳng biết chính xác bọn họ mưu toan gì - chắc cũng chẳng
có gì tốt đẹp - nhưng dù sao bọn họ cũng đã phát hiện ra một cảnh sát của tôi,
Nathan, tay bị còng, ngồi ở văn phòng đằng trước. Còn phòng giam thì trống
hoác.”
“Phòng giam?”
“Phòng giam Garrett,” Bell tiếp
tục, y như thể điều này giải thích tất cả.
Rhyme vẫn không hiểu ý nghĩa
của sự việc. “Chuyện gì…”
Viên cảnh sát trưởng nói bằng
giọng cộc cằn: “Nathan bảo rằng cô Amelia của anh đã gí súng khống chế anh ta
và giải thoát cho Garrett. Đó là một trường hợp cướp ngục. Bọn họ đang chạy
trốn, bọn họ có vũ khí và không ai nắm trong tay manh mối nào về việc bọn họ ở
đâu.”