Cái ghế trống - Phần II - Chương 18
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
Khu tạm
giam của Tanner’s Corner cách văn phòng cảnh sát trường hai khối phố dài.
Sachs và
Bell bước dọc theo vỉa hè nóng bỏng để đến đấy. Hai gã say rượu ốm yếu họ trông
thấy khi mới tới vẫn còn ở khu trung tâm, ngồi trên chiếc ghế băng, câm lặng.
Một phụ nữ gầy giơ xương, tóc chải ôm sát lấy đầu, đỗ chiếc Mercedes vào dãy đỗ
xe trống không, trèo ra khỏi xe và bước vào tiệm làm móng. Chiếc xe hào nhoáng
xem chừng hoàn toàn lạc lõng trong thị trấn nhỏ này. Chẳng còn ai ngoài phố.
Sachs để ý thấy dăm bảy cơ sở kinh doanh từng hoạt động. Một trong số đó từng
là cửa hiệu bán đồ chơi. Một manơcanh trẻ con mặc bộ đồ nỉ đã bị ánh nắng làm
cho bạc màu nằm trong khung cửa sổ. Cô lại nghĩ, trẻ con ở đâu hết rồi?
Rồi Sachs
trông sang bên kia đường và bắt gặp một bộ mặt đang quan sát cô từ căn phòng
tối mờ mờ của quán bar Eddie. Cô nheo mắt. “Ba cái gã kia kìa?” cô hất đầu nói.
Bell nhìn.
“Culbeau và các chiến hữu của anh ta ấy à?”
“Vâng. Mấy
gã thích gây chuyện. Mấy gã đã lấy khẩu súng tôi đang đeo trên người,” Sachs
nói. “Một gã trong số đó. O’Sarian.”
Viên cảnh
sát trưởng cau mày. “Sự việc như thế nào rồi?”
“Tôi đã
lấy lại,” Sachs trả lời ngắn gọn.
“Chị có
muốn tôi đưa anh ta về đồn không?”
“Không. Có
điều tôi nghĩ là anh nên biết: mấy gã khó chịu vì bị tuột mất phần thưởng. Tuy
nhiên, nếu anh hỏi tôi, tôi sẽ nói rằng còn hơn thế nữa kia. Mấy gã đang tìm cơ
hội tấn công thằng nhãi.”
“Bọn họ và
tất cả những người còn lại của thị trấn.”
Sachs nói:
“Nhưng tất cả những người còn lại của thị trấn không vác những khẩu lúng đi nạp
đạn đi lung tung.”
Bell tủm
tỉm cười. “Ờ, dù sau thì cũng không phải tất cả những người còn lại.”
“Tôi cũng
hơi tò mò muốn biết làm sao mà mấy gã tình cờ mò đến được chỗ cối xay.”
Viên cảnh
sát trưởng suy nghĩ một lát. “Chị cho là Mason?”
“Vâng,”
Sachs đáp.
“Giá mà
tuần này anh ta đi nghỉ. Nhưng chẳng mong hòng gì được chuyện đó. Chà, chúng ta
tới nơi rồi. Không giống một nhà tù lắm. Nhưng nó làm việc hiệu quả đấy.”
Họ bước
vào tòa nhà một tầng xây bằng những khối bê tông. Chiếc máy điều hòa nhiệt độ
kêu ì ì giữ cho căn phòng mát mẻ dễ chịu. Bell bảo Sachs bỏ súng vào két sắt.
Anh ta cũng làm thế và họ bước vào phòng thẩm vấn. Anh ta đóng cánh cửa lại.
Mặc bộ đồ
nỉ màu xanh da trời được phát, Garrett Hanlon ngồi bên chiếc bàn bằng gỗ ép
công nghiệp, đối diện với Jesse Corn. Viên cảnh sát mỉm cười chào Sachs và cô
đáp lại bằng nụ cười dè dặt hơn. Rồi cô nhìn gã trai và lại bị ấn tượng vì gã
trông mới buồn bã, tuyệt vọng làm sao.
Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi!
Trên mặt
và cánh tay Garrett có những vết lằn mà lúc trước chưa có. Sachs hỏi: “Da dẻ
cậu bị làm sao vậy?”
Garrett
nhìn xuống cánh tay và ngượng ngập gãi gãi. “Do lá sồi độc,” gã lẩm bẩm.
Bell nói
giọng tử tế: “Cậu đã nghe các quyền của cậu rồi, phải không? Cảnh sát Kerr đã
đọc cậu nghe chưa?”
“Rồi.”
“Và cậu
hiểu các quyền đó?”
“Tôi nghĩ
thế.”
“Luật sư
đang trên đường tới đây. Ông Fredericks. Ông ấy vừa rời khỏi một cuộc họp ở
Elizabeth City và ông ấy sẽ sớm có mặt. Cậu không phải nói gì cho tới lúc ông
ấy tới. Cậu hiểu điều ấy chứ?”
Gã trai
gật đầu.
Sachs liếc
nhìn tấm gương một chiều. Băn khoăn tự hỏi ai đang ở phía bên kia của tấm
gương, điểu khiển máy quay video.
“Nhưng
chúng tôi hy vọng cậu sẽ trò chuyện, Garrett,” Bell tiếp tục. “Chúng tôi muốn
hỏi cậu một số việc thực sự quan trọng. Thứ nhất, có đúng như thế không? Mary
Beth vẫn còn sống?”
“Chắc chắn
cô ấy vẫn còn sống.”
“Cậu đã
cưỡng hiếp cô ấy?”
“Nói
chung, tôi không bao giờ làm cái việc đó,” gã trai trả lời,
trong khoảnh khắc vẻ thống thiết nhường chỗ cho vẻ phẫn nộ.
“Nhưng cậu
đã bắt cóc cô ấy,” Bell nói.
“Không
hẳn.”
“Không hẳn?”
“Cô ấy,
nói chung, không hiểu rằng Bến tàu kênh Nước đen là chốn nguy hiểm. Tôi bắt
buộc phải đưa cô ấy đi, nếu không cô ấy sẽ không an toàn. Vậy thôi. Tôi đã cứu
cô ấy. Nói chung, đôi khi mình phải bắt buộc một người nào đó làm những việc mà
người ta không muốn. Vì lợi ích của chính bản thân người ta. Và rồi thì ông
biết đấy, người ta sẽ hiểu.”
“Cô ấy
đang ở chỗ nào đó gần bãi biển, đúng không? Khu Bờ Ngoài, đúng không?”
Nghe điều
này, Garrett chớp mắt, cặp mắt đỏ ké nhíu lại. Gã nhận ra rằng họ đã tìm thấy
tấm bản đồ và đã trao đổi với Lydia. Gã nhìn xuống mặt bàn gỗ ép. Không trả lời
gì cả.
“Chính xác
thì cô ấy ở đâu, Garrett?”
“Tôi không
nói cho ông được.”
“Con trai,
cậu đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Cậu đang phải đối diện với tội giết người
đấy.”
“Tôi không
giết Billy.”
“Làm sao
cậu biết tôi đang định nói tới Billy?” Bell hỏi ngay. Jesse Corn nhướn một bên
lông mày với Sachs, khâm phục sự nhanh trí của sếp mình.
Garrett
búng móng tay. “Cả thế giới biết Billy bị giết.” Ánh mắt láo liên của gã đảo
xung quanh căn phòng, liên tục dừng lại ở Amelia Sachs. Cô chỉ chịu đựng được
ánh mắt van nài này một lát rồi phải nhìn đi chỗ khác.
“Chúng tôi
có dấu vân tay của cậu trên chiếc xẻng đã giết chết Billy.”
“Chiếc
xẻng? Cái đã giết chết Billy ấy à?”
“Phải.”
Garrett
dường như hình dung lại việc đã xảy ra. “Tôi nhớ đã nhìn thấy nó nằm dưới đất.
Tôi nghĩ có lẽ là tôi đã cầm nó lên.”
“Tại sao?”
“Tôi không
biết. Lúc ấy tôi không nghĩ gì cả. Tôi cảm thấy thật đáng sợ. Khi nhìn thấy
Billy nằm đó, nói chung, toàn máu là máu.”
“Ờ, cậu có
biết ai đã giết Billy không?”
“Gã đàn
ông này. Mary Beth bảo tôi rằng cô ấy, nói chung, đang thực hiện một dự án cho
nhà trường ở đó, bên bờ sông, và Billy dừng lại nói chuyện với cô ấy. Rồi gã
đàn ông này xuất hiện. Gã đã bám theo Billy và bọn họ bắt đầu cãi vã và choảng
nhau. Gã này chộp chiếc xẻng đập chết Billy. Rồi tôi đến và gã bỏ chạy.”
“Cậu trông
thấy hắn ta?”
“Vâng,
thưa ông.”
“Bọn họ
cãi vã về việc gì?” Bell hoài nghi hỏi.
“Ma túy gì
đó, Mary Beth nói vậy. Nghe như là Billy đang bán ma túy cho lũ ôn con trong
đội bóng bầu dục. Nói chung, các thứ thuốc chứa steroid ấy hả?”
“Ái chà,”
Jesse Corn vừa nói vừa gượng cười.
“Garrett,”
Bell cất lời. “Billy không dây vào ma túy. Tôi biết cậu ta. Và chúng tôi chưa
bao giờ có báo cáo nào về chất steroid ở trường trung học.”
“Tôi hiểu
rằng Billy Stail từng trêu chọc cậu rất nhiều,” Jesse Corn nói. “Billy và một
vài cậu khác trong đội bóng.”
Sachs nghĩ
như thế này thật không nên - hai cảnh sát to lớn hợp sức với nhau tấn công Garrett.
“Các cậu
ấy đã giễu cợt cậu. Gọi cậu là Thằng Bọ. Cậu đã một lần đâm Billy và Billy cùng
với đám bạn đã nện cậu nhừ tử.”
“Tôi không
nhớ nữa.”
“Thầy Hiệu
trưởng Gilmore đã cho chúng tôi biết,” Bell nói. “Họ phải gọi bảo vệ tới.”
“Có thể.
Nhưng tôi không giết Billy.”
“Ed
Schaeffer đã qua đời, cậu biết đấy. Ông ấy bị lũ ong bắp cày trong cái chòi săn
đốt chết.”
“Tôi rất
tiếc vì việc đã xảy ra. Nhưng chẳng phải lỗi tại tôi. Tôi không đặt cái tổ ong
vào đấy.”
“Không
phải một cái bẫy à?”
“Không,
chẳng qua nó ở đấy, trong cái chòi săn. Tôi đến đấy suốt - thậm chí ngủ ở đấy -
và chúng chẳng làm phiền gì tôi. Lũ ong chỉ đốt khi chúng lo sợ rằng người ta
đang định phá hoại gia đình chúng.”
“Ờ, hãy
cho chúng tôi biết về gã đàn ông mà cậu bảo đã giết Billy,” viên cảnh sát
trưởng nói. “Cậu đã trông thấy gã ở xung quanh đây bao giờ chưa?”
“Rồi, thưa
ông. Hai hay ba lần trong vòng vài năm qua. Đi bộ xuyên những cánh rừng xung
quanh Bến tàu kênh Nước đen. Rồi một lần tôi trông thấy gã gần trường học.”
“Da trắng hay da đen?”
“Da trắng. Và gã thuộc loại
cao. Có lẽ bằng tầm tuổi ông Babbage…”
“Tứ tuần à?”
“Vâng, tôi nghĩ thế. Gã tóc
vàng. Và gã mặc quần yếm. Màu nâu vàng. Sơ mi trắng.”
“Nhưng chỉ có dấu vân tay của
cậu và của Billy trên chiếc xẻng,” Bell nêu nhận xét. “Không có của ai khác.”
Garrett đáp: “Nói chung, tôi
nghĩ lúc ấy gã đi găng tay.”
“Tại sao gã lại đi găng tay vào
thời gian này trong năm chứ?” Jesse hỏi.
“Có lẽ như vậy gã sẽ
không để lại dấu vân tay,” Garrett đáp trả.
Sachs suy nghĩ lại về các dấu
vân tay trên chiếc xẻng. Cô và Rhyme đã không tự lấy các dấu vân tay. Đôi khi
có thể lấy dấu găng tay da. Dấu găng tay vải hay len khó phát hiện hơn rất
nhiều, tuy nhiên những sợi vải lại có thể tuột ra và mắc vào chỗ nhám trên bề
mặt gỗ, trên tay cầm của một dụng cụ chẳng hạn.
“Chà, Garrett, điều cậu nói có
thể đã xảy ra,” Bell bình luận. “Nhưng xem chừng chẳng ai nghĩ đó là sự thật
được.”
“Billy đã chết! Tôi chỉ cầm
chiếc xẻng lên xem. Việc đáng lẽ tôi không nên làm. Nhưng tôi đã làm. Tất cả
chỉ có như vậy thôi. Tôi biết Mary Beth đang gặp nguy hiểm nên tôi đưa cô ấy đi
cho an toàn.” Garrett nói điều này với Sachs, đăm đăm nhìn cô bằng ánh mắt cầu
khẩn.
“Chúng ta hãy quay lại chuyện
Mary Beth,” Bell đề nghị. “Tại sao cô ấy gặp nguy hiểm?”
“Vì cô ấy ở Bến tàu kênh Nước
đen.” Garrett lại búng móng tay… Khác với thói quen của mình, Sachs tự nhủ
thầm. Mình chọc móng tay vào da thịt, còn hắn thì búng móng tay vào nhau. Thói
quen nào tệ hơn? Cô băn khoăn tự hỏi. Thói quen của mình, cô đi đến kết luận,
có hại hơn.
Garrett lại hướng cặp mắt ướt
nhoèn, đỏ ké về phía Sachs.
Thôi đi! Tôi không thể chịu
đựng được cái nhìn đó! Sachs nghĩ, đưa ánh mắt qua chỗ khác.
“Thế Todd Wilkes? Thằng bé đã
tự treo cổ ấy? Cậu đã đe dọa nó phải không?”
“Không!”
“Tuần trước anh trai nó trông thấy
cậu quát tháo nó.”
“Nó thả diêm đang cháy vào các
tổ kiến. Như thế thật độc ác và đê tiện, tôi bảo nó đừng làm như thế nữa.”
“Còn Lydia?” Bell hỏi. “Tại sao
cậu bắt cóc cô ấy.”
“Tôi cũng
lo lắng cho cô ta.”
“Vì cô ấy
ở Bến tàu kênh Nước đen?”
“Vâng.”
“Cậu định
cưỡng hiếp cô ấy, phải không?”
“Không!” Garrett bắt đầu khóc.
“Tôi không định làm hại cô ta. Hay bất cứ ai! Và tôi không giết Billy! Tất cả
mọi người đang cố gắng ép tôi nhận đã làm những việc tôi không làm!”
Bell lôi lên một tờ khăn giấy
hiệu Kleenex, đưa cho gã trai.
Cánh cửa bật mở tung, Mason
Germain bước vào. Anh ta có lẽ là người ngồi quan sát qua tấm gương một chiều
và vẻ mặt anh ta thể hiện rõ ràng rằng anh ta đã mất kiên nhẫn. Sachs ngửi thấy
sặc sụa mùi nước hoa cologne. Cô bắt đầu ghét cái mùi thơm đến ngạt thở ấy.
“Mason…” Bell lên tiếng.
“Nghe tao này, thằng nhãi, mày
hãy nói cho chúng tao biết cô gái đang ở đâu và mày hãy nói ngay bây giờ! Vì
nếu không mày sẽ được đưa đi Lancaster và mày sẽ ở đó cho tới khi người ta xét
xử mày… Mày đã nghe nói tới Lancaster rồi, phải không? Trong trường hợp mày
chưa nghe bao giờ, để tao nói…”
“Được rồi, đủ rồi đấy,” một
giọng the thé ra lệnh.
Một người thấp bé sải bước vào
phòng - một người đàn ông thậm chí còn thấp hơn Mason, với mái tóc cắt tỉa gọn
gàng được xịt keo giữ nếp một cách hoàn hảo. Bộ com lê màu xám, tất cả các khuy
cài chặt, chiếc sơ mi màu trứng sáo và cà vạt kẻ sọc. Ông ta đi đôi giày cao ba
inch.
“Đừng nói thêm lời nào nữa,”
ông ta bảo Garrett.
“Xin chào, Cal,” Bell nói,
không vui vẻ gì khi vị khách xuất hiện. Viên cảnh sát trưởng giới thiệu Sachs
với Calvin Fredericks, luật sư của Garrett.
“Các vị đang thẩm vấn thân chủ
tôi cái quái quỷ gì khi tôi chưa có mặt tại đây thế?” Ông ta hất đầu bảo Mason.
“Và vụ Lancaster là cái quái quỷ gì? Tôi nên yêu cầu người ta tống giam anh vì
kiểu ăn nói với cậu ấy như vậy.”
“Hắn biết cô gái đang ở đâu,
Cal,” Mason lẩm bẩm. “Hắn không chịu khai với chúng tôi. Hắn đã được nghe đọc
về các quyền của mình. Hắn…”
“Một cậu thiếu niên mười sáu
tuổi? Chà, tôi những muốn vứt ngay cái vụ này đi và ăn tối cho sớm.” Fredericks
quay sang Garrett. “Này, anh bạn trẻ, cậu cảm thấy thế nào?”
“Mặt tôi bị ngứa.”
“Họ xịt hơi cay khống chế cậu
hả?”
“Không, thưa ông, chẳng may
thôi.”
“Chúng ta sẽ yêu cầu được chăm
sóc. Bôi kem hoặc đại loại vậy. Bây giờ, tôi sẽ là luật sư của cậu. Chính quyền
bang chỉ định tôi. Cậu không phải trả tiền. Họ đã đọc cho cậu nghe các quyền
của cậu? Đã bảo cậu không phải nói gì cả?”
“Vâng, thưa ông. Nhưng cảnh sát
trưởng Bell muốn hỏi tôi vài câu.”
Fredericks bảo Bell: “Ồ, việc
này hay đấy, Jim. Các vị đang nghĩ gì thế hả? Bốn cảnh sát có
mặt tại đây à?”
Mason nói: “Chúng tôi đang nghĩ
về Mary Beth McConnell. Cô gái mà hắn đã bắt cóc.”
“Bị cho là
đã bắt cóc.”
“Và cưỡng hiếp,” Mason lẩm bẩm.
‘Tôi không làm cái việc ấy!”
Garrett hét lên.
“Chúng tôi thu được một tờ khăn
giấy thấm máu và đầy tinh dịch của hắn,” Mason giọng gay gắt.
“Không, không!” gã trai nói,
gương mặt đỏ bừng một cách đáng sợ. “Mary Beth tự làm mình bị thương. Chuyện đã
xảy ra như thế. Cô ấy bị đập đầu và tôi, nói chung, đã lau máu cho cô ấy bằng
một tờ Kleenex tôi thấy trong túi quần. Còn về việc kia… thỉnh thoảng tôi chỉ,
các ông biết đây, chỉ tự… Tôi biết là tôi không nên. Tôi biết là nó sai trái.
Nhưng tôi không đừng được.”
“Xuỵt, Garrett,” Fredericks
nói. “Cậu không phải giải thích bất cứ điều gì với bất cứ ai.” Ông ta bảo Bell:
“Bây giờ, cuộc thẩm vấn này đã kết thúc. Đưa cậu ấy quay lại phòng giam đi.”
Khi Jesse Corn đang dẫn Garrett
ra khỏi cửa thì gã đột ngột dừng lại, quay về phía Sachs. “Xin cô, cô phải giúp
tôi một việc. Xin cô! Phòng riêng của tôi ở nhà - có một số lọ.”
“Đi đi, Jesse,” Bell ra lệnh.
“Đưa hắn đi.”
Nhưng Sachs thấy mình lên
tiếng: “Khoan đã.” Cô hỏi Garrett: “Những cái lọ? Đựng côn trùng ấy à?”
Gã trai gật đầu. “Cô sẽ đổ nước
vào chứ? Hay ít nhất hãy cho chúng bò ra - ra bên ngoài - để chúng có cơ hội
tồn tại. Ông bà Babbage, họ sẽ chẳng làm gì giúp chúng sống sót đâu. Xin cô…”
Sachs do dự, cảm nhận được ánh
mắt tất cả mọi người đang hướng về phía mình, rồi gật đầu. “Tôi sẽ làm. Tôi
hứa.”
Gương mặt Garrett thoáng một nụ
cười dành cho Sachs.
Bell nhìn Sachs đầy ẩn ý, rồi
hất đầu về phía cửa và Jesse dẫn gã trai ra. Ông luật sư dợm bước theo nhưng
Bell gí ngón tay trỏ vào ngực ông ta. “Anh không đi đâu cả, Cal. Chúng ta sẽ
chờ ở đây cho tới lúc McGuire đến.”
“Đừng động vào tôi,” Fredericks
lẩm bẩm. Nhưng ông ta cũng ngồi xuống theo như mệnh lệnh. “Lạy Chúa, tất cả cái
chuyện ngu ngốc này là gì, các vị thẩm vấn một thiếu niên mười sáu tuổi mà
không…”
“Ngậm miệng lại đi, Cal. Tôi
chẳng định moi lấy lời thú tội đâu. Hắn chưa thú gì cả mà nếu có thì tôi cũng
không sử dụng. Chúng tôi đã nắm trong tay nhiều bằng chứng hơn mức cần thiết để
tống giam hắn vĩnh viễn. Tôi chỉ quan tâm đến việc tìm thấy Mary Bell. Cô ấy
đang ở chỗ nào đó khu Bờ Ngoài và nếu không được giúp đỡ thì khó khăn ngang mò
kim đáy bể.”
“Đừng hòng. Cậu ta sẽ không
khai thêm một lời nào đâu.”
“Cô ấy có thể chết khát, Cal,
cô ấy có thể chết đói. Bị say nắng, bị ốm…”
Khi ông luật sư không đáp lời,
viên cảnh sát trưởng nói: “Cal, thằng nhãi đó là một mối đe dọa. Hắn có cả đống
báo cáo các vụ việc chống lại hắn…”
“Những báo cáo mà thư ký của
tôi đã đọc cho tôi nghe trên đường đến đây rồi. Rõ khỉ, phần lớn là về tội trốn
học. Ồ, và về tội nhìn trộm - khi cậu ta, thật tức cười, thậm chí không ở trong
phạm vi đất đai nhà cửa của người đâm đơn kiện, chỉ đi loăng quăng trên vỉa
hè.”
“Vụ cái tổ ong bắp cày cách đây
mấy năm,” Mason tức tối nói. “Meg Blanchard.”
“Các vị đã thả cậu ta ra,” ông
luật sư vui vẻ lưu ý mọi người. “Thậm chí không truy tố gì cả.”
Bell nói: “Vụ này khác, Cal.
Chúng tôi có nhân chứng, chúng tôi có những chứng cứ chắc chắn và bây giờ thì
Ed Schaeffer đã qua đời. Chúng tôi gần như có thể muốn làm gì thằng nhãi thì
làm.”
Một người đàn ông mảnh khảnh
mặc bộ vét vải sọc màu xanh lơ bước vào phòng thẩm vấn. Mái tóc muối tiêu thưa
thớt, khuôn mặt đầy nếp nhăn của tuổi năm mươi lăm. Ông ta nhìn Amelia với cái
gật đầu lơ đãng, rồi nhìn Fredericks vẻ u ám hơn. “Tôi đã nghe được thông tin
đủ để nghĩ rằng đây là một trong những vụ giết người, bắc cóc và cưỡng hiếp dễ
dàng nhất mà tôi từng thụ lý suốt nhiều năm qua.”
Bell giới thiệu Sachs với Bryan
McGuire, công tố viên quận Paquenoke.
“Cậu ta mới mười sáu,”
Fredericks nói.
Ông ủy viên công tố đáp lại
bằng giọng điềm tĩnh: “Sẽ không tòa án nào ở bang này định xét xử hắn như xét
xử một kẻ đã thành niên và tống giam hắn hai trăm năm cả.”
“Thế thì, thẳng thắn luôn đi,
McGuire,” Fredericks sốt ruột nói. “Các anh đang muốn thương lượng. Tôi biết
cái giọng đó.”
McGuire gật đầu với Bell và
Sachs suy luận rằng viên cảnh sát trưởng và ông ủy viên công tố trước đấy đã có
một cuộc trao đổi về chính vấn đề này.
“Tất nhiên chúng
tôi sẽ thương lượng,” Bell tiếp tục. “Khả năng lớn là cô gái vẫn còn sống và
chúng tôi muốn tìm thấy cô ấy trước khi cô ấy chẳng còn sống nữa.”
McGuire nói: “Chúng tôi có rất
nhiều lời buộc tội trong vụ này, Cal ạ, anh sẽ kinh ngạc với mức độ xử lý linh
hoạt của chúng tôi.”
“Hãy làm tôi kinh ngạc đi,” ông
luật sư bào chữa kiêu ngạo đáp.
“Tôi có thể đưa ra hai điểm
buộc tội về tấn công và giam giữ người trái phép, hai điểm buộc tội về giết
người cấp độ một - một cho Billy Stail, một cho viên cảnh sát đã chết. Thưa
ngài, tôi sẵn sàng làm thế đấy. Tất cả nhằm tìm thấy cô gái vẫn còn sống.”
“Ed Schaeffer,” ông luật sư
phản công. “Đó là một tai nạn.”
Mason nổi
khùng: “Đó là một cái bẫy ghê gớm do thằng nhãi sắp đặt.”
“Tôi sẽ
dành cho các anh tội giết người cấp độ một đối với Billy,” McGuire đề nghị. “Và
tội ngộ sát đối với cảnh sát Schaeffer.”
Fredericks
cân nhắc một lát. “Để xem tôi có thể làm gì.” Gót giày khua vang, ông luật sư
biến mất về phía các phòng giam để tham khảo ý kiến thân chủ. Năm phút sau, ông
ta quay lại, không vui vẻ gì.
“Tình hình
thế nào?” Bell hỏi, thất vọng trước vẻ mặt ông luật sư.
“Không may mắn rồi.”
“Bế tắc à?”
“Hoàn toàn bế tắc.”
Bell lẩm bẩm: “Cal, nếu anh
biết được điều gì mà không nói với chúng tôi, tôi đếch thèm quan tâm đến quyền
trao đổi riêng tư giữa luật sư và thân chủ…”
“Không, không, Jim, thật đấy. Cậu ta bảo cậu ta đang che chở cho cô gái. Cậu ta bảo cô
gái sung sướng được ở đó và các anh phải đi mà tìm kiếm cái gã mặc quần yếm màu
nâu vàng, sơ mi trắng.”
Bell nói:
“Hắn thậm chí đã không cung cấp một sự mô tả rõ ràng và nếu có chăng nữa thì
ngày mai sự mô tả cũng sẽ thay đổi vì hắn chỉ đang bịa đặt mà thôi.”
McGuire
vuốt ngược mái tóc vốn dĩ đã được chải mượt ra đằng sau rồi. Ông luật sư dùng
keo Aqua Net, Sachs có thể nhận ra mùi. Ông công tố viên dùng keo Brylcreem.
“Cal, nghe này, đây là vấn đề của anh. Tôi đang đề nghị anh những gì tôi có thể
đề nghị. Anh giúp chúng tôi biết được nơi đang giam giữ cô gái và tìm thấy cô
ấy vẫn còn sống, tôi sẽ giảm các điểm buộc tội. Nếu không, tôi sẽ đưa ra cho
tòa án xét xử và sẽ buộc tội nặng. Thằng nhãi không bao giờ được nhìn thấy cuộc
đời bên ngoài nhà tù nữa. Cả tôi lẫn anh đều biết điều đó.”
Một thoáng
im lặng.
Fredericks nói: “Tôi nghĩ thế
này.”
“Ờ.” McGuire hoài nghi đáp lại.
“Không, nghe này… Cách đây ít
lâu tôi đã gặp một vụ ở Albermarle, người phụ nữ đó khẳng định rằng con trai
mình bỏ nhà đi. Nhưng chuyện có vẻ đáng ngờ vực.”
“Vụ nhà William chứ
gì?” McGuire hỏi. “Cái bà da đen ấy?”
“Phải rồi.”
“Tôi đã nghe nói tới. Anh đại diện cho bà ta à?” Bell hỏi.
“Phải. Bà
ta kể với chúng tôi những câu chuyện khá kỳ quặc và có tiền sử bệnh tâm thần.
Tôi thuê một bác sĩ tâm lý từ Avery đến, hy vọng ông ta có thể cho tôi kết luận
rằng bà ta bị rối loạn thần kinh Ông ta tiến hành vài bài trắc nghiệm. Lúc đang
tiến hành một trong những bài trắc nghiệm đó thì bà ta trở nên cởi mở và nói
với chúng tôi về việc đã xảy ra.”
“Thôi miên
à - cái trò khôi phục trí nhớ vớ vẩn?” McGuire hỏi.
“Không,
một thủ thuật khác. Ông ta gọi nó là liệu pháp chiếc ghế trống. Tôi chẳng biết
chính xác cơ chế tác động của nó, tuy nhiên nó thực sự đã khiến cho bà ta trò
chuyện. Giống như tất cả những gì bà ta cần là đẩy nhẹ một cái. Để tôi gọi cho
ông bác sĩ này và bảo ông ta đến đây nói chuyện với Garrett. Thằng bé có thể sẽ
thấy lẽ phải… nhưng…” Bây giờ thì tới lượt ông luật sư gí ngón tay trỏ vào ngực
Bell. “Mọi điều họ trao đổi với nhau là bí mật, các anh không được biết một
chút gì trừ phi người giám hộhợp pháp và tôi đồng ý.”
Bell nhận
ánh mắt của McGuire và gật đầu. Ông ủy viên công tố nói: “Gọi cho ông ta đi.
Được rồi.
Fredericks bước tới chỗ chiếc máy điện thoại đặt trong góc phòng thẩm vấn.
Sachs nói:
“Xin lỗi ông.”
Ông luật
sư quay sang cô.
“Cái vụ mà
bác sĩ tâm lý đã giúp đỡ ông ấy? Vụ nhà William ấy?”
“Thì sao?”
“Chuyện gì đã xảy ra cho cậu
con trai? Cậu ta bỏ nhà đi à?”
“Không,
người mẹ đã giết cậu ta. Dùng lưới thép mỏng bó cậu ta vào một khối bê tông và
dìm cậu ta chết đuối dưới cái ao đằng sau nhà. Này, Jim, gọi điện ra bên ngoài
bằng cách nào?”
***
Cô hét to
tới mức cổ họng khô khốc đau rát như phải bỏng và tất cả những gì Mary Beth
biết là các dây thanh của cô sẽ vĩnh viễn bị tổn thương.
Nhà truyền
giáo, đang bước tới gần bìa rừng, dừng lại. Ông ta một vai đeo chiếc ba lô, tay
cầm chiếc bình trông giống như bình xịt thuốc diệt cỏ. Ông ta liếc nhìn xung
quanh.
Làm ơn,
làm ơn, làm ơn, Mary Beth nghĩ thầm. Phớt lờ cơn đau, cô cố gắng lần nữa. “Ở
đằng này! Cứu tôi!”
Nhà truyền
giáo nhìn ngôi nhà gỗ. Ông ta bắt đầu bước đi.
Mary Beth
hít sâu một hơi, nghĩ tới tiếng búng móng tay tanh tách của Garrett Hanlon,
nghĩ tới cặp mắt ướt nhoèn và cái kia cương cứng, nghĩ tới cuộc từ biệt cõi đời
đầy can đảm của cha cô, nghĩ tới Virginia Dare… Và cô hét một tiếng to chưa
từng thấy.
Lần này,
nhà truyền giáo dừng bước, lại nhìn về phía ngôi nhà gỗ. Ông ta tháo mũ, bỏ ba
lô và chiếc bình xuống đất, bắt đầu chạy về phía Mary Beth.
Cảm ơn… Cô
bật khóc nức nở. Ôi, cảm ơn!
Nhà truyền
giáo vóc dáng mảnh khảnh nhưng da sạm nắng. Ở tuổi ngũ tuần, tuy nhiên vẫn còn
phong độ. Rõ ràng là một người hay hoạt động ngoài trời.
“Có chuyện
gì thế?” ông ta hỏi to, hổn hển, khi còn cách chừng năm mươi feet, ông ta
chuyển sang đi túc tắc. “Cô có sao không?”
“Làm ơn!”
Mary Beth nói với giọng khàn khàn. Cơn đau nơi cổ họng cô dâng trào. Cô nhổ ra
nhiều máu hơn.
Nhà truyền
giáo thận trọng bước tới chỗ ô cửa sổ bị đập vỡ, nhìn những mảnh kính trên đất.
“Cô cần
giúp đỡ à?”
“Tôi không
thể ra ngoài được. Có người đã bắt cóc tôi…”
“Bắt cóc
à?”
Mary Beth
lau khuôn mặt ướt mồ hôi lẫn với nước mắt sung sướng. “Một
nam sinh trung học ở Tanner’s Corner.”
“Hẵng khoan… Tôi có nghe nói về
việc ấy. Tin tức trên các phương tiện truyền thông. Cô là người hắn đã bắt cóc
ư?”
“Phải ạ.”
“Bây giờ hắn đâu?”
Mary Beth cố gắng nói nhưng cổ
họng đau quá. Cô thở thật sâu và rốt cuộc cũng trả lời được: “Tôi không biết.
Hắn rời khỏi đây đêm hôm qua. Làm ơn… ông có nước không?”
“Một bi đông, đang để với các
thứ của tôi đằng kia. Tôi sẽ mang lại đây cho cô.”
“Và gọi cảnh sát. Ông có điện
thoại chứ?”
“Tôi không mang theo.” Nhà
truyền giáo nhăn nhó lắc đầu.
“Tôi đang làm việc hợp đồng cho
quận.” Ông ta hất đầu về phía chiếc ba lô và bình xịt. “Chúng tôi tiêu diệt cần
sa, cô biết đấy, bọn trẻ trồng xung quanh đây. Quận phát máy di động cho chúng
tôi nhưng tôi chẳng bao giờ dùng tới nó cả. Cô đau lắm à?” Ông ta xem xét đầu
cô, chỗ máu đã đông lại.
“Không sao. Nhưng… nước. Tôi
cần nước.”
Nhà truyền giáo túc tắc đi trở
lại phía bìa rừng và trong một khoảnh khắc kinh khủng Mary Beth lo sợ rằng ông
ta sẽ cứ đi mãi. Nhưng ông ta đã cầm lên chiếc bi đông màu xanh xám, chạy trở
lại.
Cô đón lấy nó bằng đôi bàn tay
run rẩy và bắt buộc mình phải uống từ từ. Nước nóng và có mùi mốc nhưng cô chưa
bao giờ được uống thứ gì tuyệt vời hơn thế.
“Tôi sẽ cố gắng đưa cô ra,”
người đàn ông nói. Ông ta bước tới cửa trước. Lát sau, cô nghe thấy một tiếng
huỵch nhẹ khi ông ta hoặc là đã dùng chân đá cánh cửa hoặc là đã cố gắng dùng
vai phá nó. Một lần nữa. Hai lần. Ông ta nhặt một tảng đá đập mạnh vào cánh cửa
gỗ. Không ăn thua. Ông ta quay lại chỗ cửa sổ. “Nó chẳng nhúc nhích gì.” Ông ta
lau mồ hôi trên trán trong lúc xem xét các chấn song cửa sổ. “Trời đất, hắn đã
tự mình xây dựng một nhà tù ở đây. Dùng cưa sắt phải mất hàng tiếng đồng hồ.
Được rồi, tôi sẽ đi gọi người giúp đỡ. Tên cô là gì?”
“Mary Beth McConnell.”
“Tôi sẽ gọi cảnh sát rồi quay
lại đưa cô ra.”
“Làm ơn, đừng đi lâu.”
“Tôi có người bạn ở cách đây
không xa lắm. Tôi sẽ tới đây gọi 911 và chúng tôi sẽ quay lại đây. Thằng kia…
hắn có súng không?”
“Tôi không biết. Tôi không
trông thấy. Nhưng tôi không biết.”
“Cô ngồi nguyên đấy, Mary Beth.
Cô sẽ ổn thôi. Bình thường thì tôi không chạy nhưng hôm nay tôi sẽ chạy.” Nhà
truyền giáo quay đi và bắt đầu băng ngang qua cánh đồng cỏ.
“Ông… cảm ơn ông.”
Nhưng nhà truyền giáo không đáp
lại lời cảm ơn của Mary Beth. Ông ta guồng chân chạy qua những đám lau lách và
cỏ cao, mất hút vào rừng, thậm chí không dừng lại lấy đồ của mình. Mary Beth
vẫn đứng trước cửa sổ, ôm lấy chiếc bi đông đu đưa y như thể nó là một đứa bé
sơ sinh vậy.