Cái ghế trống - Phần I - Chương 10

CHƯƠNG
MƯỜI

Một dáng người xuất hiện trên
ngưỡng cửa, theo sau Jim Bell.

Đó là người đàn ông trạc ngũ
tuần, tóc bắt đầu thưa và có gương mặt tròn đạo mạo. Chiếc áo vét màu xanh lam
vắt trên cánh tay, còn chiếc sơ mi trắng được là phẳng lỳ và hồ cứng, tuy ở
nách thẫm vệt mồ hôi. Chiếc cà vạt kẻ cài ghim buông ngay ngắn.

Rhyme đã nghĩ đây chắc là Henry
Davett, nhưng đôi mắt của nhà hình sự học là một trong những bộ phận trên cơ
thể trải qua vụ tai nạn mà không hề hấn gì – thị lực anh vẫn hoàn hảo – và anh
đọc thấy các chữ cái khắc lồng vào nhau trên cây ghim cài cà vạt từ khoảng cách
mười feet: WWJD.

William? Walter? Wayne?

Rhyme chẳng có manh mối nào mà
đoán được ông ta là ai.

Người đàn ông nhìn Rhyme, nheo
mắt lại vẻ đánh giá và gật đầu chào. Rồi Jim Bell nói: “Henry, xin giới thiệu
với ông đây là Lincoln Rhyme.”

Vậy là không phải chữ lồng tên
họ ông ta. Đây chính là Davett. Rhyme gật đầu chào lại, đi tới
kết luận rằng cây ghim cài cà vạt có lẽ từng thuộc về cha ông ta. William Ward
Jonathan Davett.

Ông ta bước vào phòng. Ánh mắt
nhanh nhẹn của ông ta lướt qua các thứ thiết bị.

“À, ông biết về máy tách hợp
chất phải không?” Rhyme hỏi, nhận thấy nét mặt Davett biểu hiện ý đồng tình.

“Bộ phận Nghiên cứu và Phát
triển của tôi có mấy cái. Nhưng đời này…” Davett lắc đầu vẻ phê phán. “Người ta
thậm chí chẳng còn sản xuất nữa. Tại sao các vị vẫn sử dụng?”

“Ngân sách bang, Henry,” Bell
nói.

“Tôi sẽ cho chuyển đến đây một
cái.”

“Không cần thiết đâu.”

“Đây là thứ giẻ rách,” người
đàn ông nói cộc cằn. “Hai mươi phút nữa tôi sẽ cho chuyển đến đây một cái mới.”

Rhyme nói: “Thu thập chứng
cứ không phải là vấn đề. Vấn đề là làm sáng tỏ chúng. Vì thế mà tôi có thể sẽ
cần đến sự giúp đỡ của ông. Đây là Ben Kerr, trợ lý khám nghiệm cho tôi.”

Họ bắt tay nhau. Ben xem chừng
nhẹ nhõm vì có thêm một người đi lại được bình thường trong căn phòng.

“Mời ông ngồi xuống, Henry,”
Ben nói, lăn chiếc ghế văn phòng đến cho ông ta. Người đàn ông ngồi xuống, hơi
vươn ra phía trước, cẩn thận vuốt phẳng cà vạt. Cái cử chỉ ấy, tư thế dáng
điệu, đôi đồng tử trong cặp mắt đầy tự tin, tất cả khiến Rhyme đi đến nhận xét:
hấp dẫn, thông minh… và một tay làm ăn cực kỳ cứng rắn đây.

Rhyme lại băn khoăn về các chữ
cái WWJD. Anh chưa chắc chắn rằng mình đã giải được câu đó.

“Việc liên quan tới hai cô gái
bị bắt cóc, phải không?”

Bell gật đầu. “Chưa có ai thực
sự nói ra những trong thâm tâm…” Anh ta
nhìn Rhyme và Ben. “Chúng tôi nghĩ Garrett hẳn đã cưỡng hiếp và giết chết Mary
Beth, vứt xác cô gái ở đâu đó.”

Hai mươi tư tiếng đồng hồ….

Viên cảnh
sát trưởng tiếp tục. “Nhưng chúng tôi vẫn còn cơ hội cứu Lydia, chúng tôi hy
vọng thế. Và chúng tôi phải ngăn chặn Garrett trước khi hắn kịp bắt cóc thêm ai
nữa.”

Vị thương
gia giận dữ nói: “Và Billy, thật là một nỗi hổ thẹn. Tôi nghe nói cậu ấy chỉ là
giữa đường thấy chuyện bất bình, cố gắng cứu Mary Beth mà thành thử thiệt
mạng.”

“Garrett
đã lấy xẻng đập vỡ đầu cậu ấy. Thật tồi tệ.”

“Vậy bây
giờ thời gian là hết sức quý giá. Tôi có thể làm gì?” Davett quay sang Rhyme.
“Anh nói phải làm sáng tỏ cái gì đó hả?”

“Chúng tôi
đang nắm vài manh mối về nơi Garrett đã trú ngụ và hắn có thể sẽ đưa Lydia đi
đâu. Tôi hy vọng ông biết về vùng này và giúp đỡ chúng tôi.”

Davett gật
đầu. “Tôi khá thông thạo vùng này. Tôi có bằng về địa chất và kỹ sư hóa. Tôi
cũng đã sống cả đời ở Tanner’s Corner và khá quen thuộc quận Paquenoke.”

Rhyme hất
đầu chỉ hai bảng chứng cứ. “Xin ông xem hai bảng chứng cứ kia và cho chúng tôi
biết một vài suy nghĩ của ông. Chúng tôi đang cố gắng liên hệ các manh mối ấy
với một địa điểm cụ thể.”

Bell nói
thêm: “Nó có lẽ là một địa điểm mà đi bộ đến được. Garrett
không ưa ô tô. Hắn không bao giờ lái xe cả.”

Davett đeo kính và ngả đầu về
phía sau, nhìn lên tường.

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC
TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN

Khăn giấy Kleenex thấm máu

Bụi đá vôi

Nitrate

Phốt phát

Ammonia

Chất tẩy

Camphene

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN
TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT

Xạ chồn hôi

Lá thông bị cắt rời khỏi cành

Các bức vẽ côn trùng

Ảnh chụp Mary Beth

Ảnh chụp gia đình

Các sách về côn trùng

Dây câu

Tiền

Chìa khóa chưa xác định

Dầu hỏa

Ammonia

Nitrate

Camphen

Davett thong thả đọc đi đọc
lại, cặp mắt nheo nheo vài lần. Một thoáng cau mày. “Nitrate và ammonia à? Anh
biết đó có thể là gì chứ?”

Rhyme gật đầu. “Tôi nghĩ hắn đã
đặt một số bom tự tạo để ngăn cản đội tìm kiếm. Tôi nói với họ về việc này
rồi.”

Davett nhăn mặt, quay lại bảng
chứng cứ. “Chất camphene… Tôi nghĩ nó từng được sử dụng cho những chiếc đèn
lồng cổ. Ví dụ những chiếc đèn thắp bằng dầu đá phiến chẳng hạn.”

“Đúng. Vậy chúng ta cho rằng
nơi hắn đang giữ Mary Beth là một ngôi nhà cổ. Được xây từ thế kỷ XIX.”

“Chắc chắn xung quanh đây có
tới hàng nghìn ngôi nhà, lều lán, chuồng trại cũ kỹ… Cái gì nữa? Bụi đá vôi…
Cái này không thu hẹp được phạm vi tìm kiếm lắm. Có một rặng núi đá vôi chạy
dài suốt quận Paquenoke. Nó từng là nguồn lợi lớn cho mọi người ở đây.” Davett
đứng lên, di ngón tay chéo trên tấm bản đồ từ mép phía nam đầm lầy Sầu Thảm
sang phía tây nam, từ ô L-4 sang ô C-14. “Anh có thể tìm thấy đá vôi ở bất cứ
chỗ nào dọc theo đường này. Chứng cứ ấy không mấy hữu ích. Nhưng…” Ông ta bước
lùi lại, khoanh hai tay. “Phốt phát thì hữu ích đấy. Bắc Carolina là một nguồn
cung cấp phốt phát lớn, nhưng nó không được khai thác ở xung quanh đây. Nơi
khai thác ở xa hơn về phía nam. Vậy, kết hợp với chất tẩy, tôi cho rằng hắn đã
ở gần khu vực nước bị ô nhiễm.”

“Khỉ gió,” Jim Bell nói. “Như
thế có nghĩa hắn ở chính trên sông Paquenoke.”

“Không,” Davett đáp lời. “Sông
Paquo sạch sẽ. Nó thẫm màu vì lấy nước từ đầm lầy Sầu Thảm và hồ Drummond.”

“Ôi, đó là thứ nước thần,” viên
cảnh sát trưởng nói.

“Thế là thế nào?” Rhyme hỏi.

Davett giải thích: “Một số
người già ở đây gọi nước của đầm lầy Sầu Thảm là nước thần. Nó chứa đầy chất
tannic acid tiết ra từ lá bách và lá bách xù mục. Chất này tiêu diệt vi khuẩn
nên nước để được lâu – trước khi có tủ lạnh người ta từng sử dụng nó làm nước
uống trên thuyền buồm. Người ta từng nghĩ nó có các đặc tính kỳ diệu.”

“Vậy…,” Rhyme nói, chẳng bao
giờ quan tâm lắm tới những huyền thoại địa phương. “Nếu không phải là sông Paquenoke,
dấu vết của phốt phát kia sẽ đặt hắn vào khu vực nào?”

Davett nhìn Bell. “Hắn bắt cóc
cô gái thứ hai ở đâu?”

“Cùng chỗ với Mary Beth. Bến
tày kênh Nước đen.” Bell chạm vào tấm bản đồ, rồi di ngón tay lên phía bắc tới
ô H-9. “Vượt sang bên kia sông, đến một cái chòi săn khoảng vị trí này, rồi
tiếp tục đi về phía bắc nửa dặm. Rồi đội tìm kiếm mất dấu vết. Họ đang chờ
chúng ta chỉ đường.”

“Ồ, thế thì chẳng còn nghi ngờ
gì nữa,” Davett nói với sự tự tin đáng khích lệ. Nhà doanh nhân di ngón tay
sang phía đông. “Hắn đã vượt lạch Đá. Ở vị trí này. Thấy không? Một số thác
nước đằng đó sủi bọt như bia, vì trong nước chứa rất nhiều chất tẩy và phốt
phát. Nó bắt đầu đổ ra gần thác Hobeth và có đến hàng tấn. Người thị trấn ấy
không biết gì về quy hoạch và phân vùng.”

“Tốt,” Rhyme nói. “Bây giờ, sau
khi hắn đã sang bên kia con lạch, ông cho rằng hắn sẽ đi theo hướng nào?”

Davett lại đọc bảng chứng cứ.
“Nếu anh phát hiện được lá thông bị cắt gãy, tôi phải phỏng đoán rằng hắn đi
theo hướng này.” Ông ta đập đập tay vào ô I-5 và ô J-8. “Thông thì có ở khắp
Bắc Carolina, nhưng xung quanh đây hầu hết là các cánh rừng sồi, tuyết tùng cổ
thụ, bách và bạch đàn. Cánh rừng thông lớn duy nhất mà tôi biết nằm ở phía đông
bắc. Đây. Trên đường đến đầm lầy Sầu Thảm.” Davett đăm đăm nhìn hai bảng chứng
cứ lâu hơn rồi lắc đầu. “Tôi e mình chẳng thể nói thêm được mấy nữa. Anh đã cử
đi mấy đội tìm kiếm rồi?”

“Một đội,” Rhyme trả lời.

“Cái gì?” Davett quay sang anh,
cau mày. “Chỉ một đội? Anh đang đùa.”

“Không,” Bell nói, giọng tự vệ
trước cuộc kiểm tra chéo cứng rắn của Davett.

“Chà, một đội đông chừng nào?”

“Bốn cảnh sát,” Bell trả lời.

Davett giễu cợt: “Thật điên rồ.”
Ông ta hất tay chỉ tấm bản đồ. “Các vị phải lục soát hàng trăm dặm vuông. Đây
là Garrett Hanlon… Thằng Bọ. Hắn gần như sống ở phía bắc sông Paquo. Hắn có thể
qua mặt các vị trong tích tắc.”

Viên cảnh sát trưởng hắng
giọng. “Ông Rhyme đây cho rằng không sử dụng quá nhiều người thì tốt hơn.”

“Anh chẳng thể sử
dụng quá nhiều người trong một tình huống như thế này,” Davett nói với Rhyme.
“Anh nên lấy năm mươi người, trang bị cho họ súng trường, và bảo họ đập các bụi
cây cho tới lúc tìm thấy hắn. Anh đang hoàn toàn sai lầm.”

Rhyme nhận ra Ben đã theo dõi
bài thuyết giáo của Davett với vẻ mặt rất xấu hổ. Lẽ dĩ nhiên, nhà động vật học
cho rằng người ta phải tế nhị khi tranh luận với một kẻ què quặt.
Mặc dù vậy, nhà hình sự học vẫn bình thản nói: “Một cuộc săn lùng lớn chỉ tổ
đẩy Garrett đến chỗ giết chết Lydia, rồi lẩn trốn.”

“Không,” Davett nói dứt khoát.
“Nó sẽ khiến hắn hoảng sợ mà thả cô gái ra. Tôi có chừng bốn mươi lăm công nhân
đang làm ca tại nhà máy. Chà, chừng hơn chục người là phụ nữ. Tôi không thể yêu
cầu họ tham gia. Nhưng số nam giới… Hãy để tôi cử họ đi. Chúng tôi sẽ tìm được
vài khẩu súng. Cho họ rà soát khắp khu vực lạch Đá.”

Rhyme hoàn toàn có thể hình
dung được ba mươi hay bốn mươi tay thợ săn nghiệp dư và hăng hái sẽ làm gì
trong một cuộc tìm kiếm như thế này. Anh lắc đầu. “Không, đây mới là cách giải
quyết vụ việc.”

Ánh mắt họ gặp nhau trong một
khoảnh khắc im lặng nặng nề. Davett nhún vai và nhìn đi chỗ khác trước, nhưng
sự rút lui ấy chẳng phải là sự nhượng bộ cho rằng Rhyme có lẽ đang hành động
đúng. Mà nó hoàn toàn ngược lại: một sự phản đối dứt khoát, rằng với việc phớt
lờ lời khuyên của ông ta, Rhyme và Bell đang là những kẻ liều mạng.

“Henry,” Bell nói. “Tôi đã đồng
ý để ông Rhyme chỉ huy cách giải quyết vụ việc. Chúng tôi rất biết ơn ông ấy.”

Những lời của viên cảnh sát
trưởng có phần nhằm tới chính bản thân Rhyme – một câu xin lỗi ngấm ngầm thay
cho Davett.

Tuy nhiên, về phía Rhyme, anh
thích thú đón nhận thái độ thẳng thừng của Davett. Đối với anh, đó là sự tự
thừa nhận đáng sửng sốt, nhưng Rhyme, người vốn không tin tưởng chút nào vào
các điềm báo, cảm thấy sự hiện diện lúc này đây của người đàn ông là điềm báo –
rằng cuộc phẫu thuật sẽ tốt đẹp và cải thiện được tình trạng của anh. Anh cảm
thấy như thế nhờ sự trao đổi chớp nhoáng vừa diễn ra – khi nhà doanh nhân cứng
rắn này nhìn thẳng vào mắt anh và bảo anh hoàn toàn sai lầm. Davett thậm chí
chẳng để ý đến tình trạng của Rhyme, tất cả những gì ông ta trông thấy là những
hành động của anh, quyết định của anh, thái độ của anh. Đối với Davett, có thể
tàn tật của anh chẳng liên quan gì. Đôi bàn tay kỳ diệu của Tiến sĩ Weaver sẽ
đưa anh tiến thêm một bước, tới chỗ mà nhiều người nữa cũng sẽ cư xử với anh
theo cách như vậy.

Nhà doanh nhân nói: “Tôi sẽ cầu
nguyện cho hai cô gái.” Rồi quay sang Rhyme. “Tôi cũng sẽ cầu nguyện cho cả
anh.” Cái nhìn kéo dài hơn một chút so với cái nhìn từ biệt thông thường, Rhyme
cảm nhận rằng câu sau được nói ra chân thành – và theo đúng nghĩa đen của nó.
Ông ta bước khỏi cửa.

“Henry là người hơi khó thay
đổi quan điểm,” Bell nói khi Davett đã đi rồi.

“Và ông ta có mối quan tâm
riêng trong vụ việc này, phải không?” Rhyme hỏi.

“Cô gái bị ong bắp cày đốt chết
năm ngoái. Meg Blanchard…”

Bị đốt một trăm ba mươi bảy
phát.
Rhyme gật đầu.

Bell tiếp tục. “Cô ấy làm việc
ở công ty của Henry. Đi lễ ở cùng nhà thờ với ông ấy và gia đình ông ấy. Ông ấy
cũng giống như hầu hết người dân vùng này – ông ấy nghĩ cuộc sống trong thị
trấn sẽ tốt đẹp hơn nếu loại bỏ được Garrett Hanlon. Mỗi tội ông ấy lại có xu
hướng cho rằng cách của ông ấy là cách hay nhất để giải quyết
vụ việc.”

Nhà thờ… cầu nguyện… Rhyme
bất chợt hiểu ra một điều. Anh nói với Bell: “Cây ghim cài cà vạt của Davett.
Chữ cái J nghĩa là Jesus?”

Bell cười to. “Anh đúng đấy. Ồ,
Henry vốn vẫn hạ gục các đối thủ cạnh tranh trong làm ăn chẳng chớp mắt, nhưng
ông ấy lại là một trợ tế ở nhà thờ. Mỗi tuần ba lần gì đó. Một trong những lý
do khiến ông ấy muốn cử cả đạo quân đi săn lùng Garrett là vì ông ấy nghĩ rằng
thằng đó có vẻ là thứ ngoại đạo.”

Rhyme vẫn chưa xác định được ý
nghĩa những chữ cái còn lại. “Tôi chịu. Ý nghĩa những chữ cái còn lại là như
thế nào?”

“What Would Jesus Do?[22] Tất
cả những tín đồ Cơ Đốc giáo chân chính trong vùng này đều tự hỏi mình câu ấy
mỗi khi họ phải đối diện với một quyết định lớn. Bản thân tôi hoàn toàn không
biết Chúa sẽ làm gì trong một vụ án như thế này. Nhưng tôi sẽ nói anh biết tôi
sẽ làm gì: tôi sẽ gọi cho Lucy và cô bạn của anh, bảo họ hướng truy tìm dấu vết
Garrett.”

[22] Có nghĩa là: Chúa sẽ làm gì?

“Lạch Đá à?” Jesse Corn hỏi sau
khi Sachs truyền đạt lại thông tin. Anh chàng cảnh sát chỉ tay. “Ở đằng kia,
cách đây nửa dặm.”

Anh ta bắt đầu vượt qua khu vực
cây bụi, theo sau là Lucy và Amelia. Ned Spoto khóa đuôi, cặp mắt màu nhạt của
anh ta lo lắng quét khắp xung quanh.

Năm phút sau, họ thoát khỏi đám
dây leo chằng chịt và bước lên một lối đi đã nhẵn dấu chân người. Jesse ra hiệu
cho họ xuôi theo lối này, về phía tay phải - phía đông.

“Đây là
cái lối mòn ấy à?” Sachs hỏi Lucy. “Cái lối mòn chị nghĩ là hắn đã đi?”

“Phải,”
Lucy trả lời.

“Chị đã
đúng,” Sachs nói khẽ, chỉ đủ cho mình nghe. “Nhưng chúng ta vẫn phải đợi.”

“Không,
đấy là cô phải chứng tỏ rằng ai nắm quyền chỉ huy,” Lucy nói
sống sượng.

Điều ấy
tuyệt đối đúng, Sachs tự nhủ thầm. Rồi thêm: “Nhưng bây giờ thì chúng ta biết
có thể có bom trên đường truy tìm. Còn lúc trước chúng ta chưa biết.”

“Dù sao
nếu cứ đi tôi cũng sẽ để ý xem có bẫy gì không.” Lucy không nói nữa và cô tiếp
tục bước theo lối mòn, mắt cắm xuống đất, thể hiện rằng, thực tế, cô vẫn quan
sát đề phòng.

Mười phút
sau, họ tới lạch Đá, nước của nó trắng như sữa và sủi bọt vì các chất gây ô
nhiễm. Trên bờ lạch, họ phát hiện ra hai loại dấu chân – dấu giày vải kích
thước nhỏ nhưng hằn sâu, có lẽ của một cô gái vóc người to béo. Không nghi ngờ
gì nữa, đấy chính là Lydia. Và dấu chân trần của nam giới. Garrett rõ ràng đã
vứt nốt chiếc giày còn lại.

“Hãy sang
bên kia con lạch ở chỗ này,” Jesse nói. “Tôi biết cánh rừng thông mà ông Rhyme
đề cập tới. Đây là đường ngắn nhất để đến đấy.”

Sachs
chuẩn bị bước xuống nước.

“Dừng lại!”
Jessy đột ngột gọi to.

Sachs đứng
sững lại, đặt tay lên khẩu súng lục, khom mình. “Có chuyện gì thế?” cô hỏi.
Lucy và Ned, rúc rích cười trước phản ứng của cô, đang ngồi trên những tảng đá,
cởi tất và giày.

“Cô để ướt
tất và tiếp tục đi bộ,” Lucy nói. “Cô sẽ có cả chục vết thương phải băng bó
trước khi đi được một trăm thước. Chân cô sẽ bị phồng rộp.”

“Cô không
có nhiều kinh nghiệm đi bộ, phải không?” Ned hỏi người nữ cảnh sát.

Jesse Corn
dành cho anh chàng đồng nghiệp nụ cười bực bội. “Vì cô ấy sống ởthành phố,
Ned. Cũng hoàn toàn giống như tôi chẳng nghĩ cậu là một chuyên gia về tàu điện
ngầm và các tòa nhà chọc trời.”

Sachs phớt
lờ cả câu phê phán lẫn lời bảo vệ đầy sự ga lăng, cởi đôi bốt thấp cổ, cởi đôi
tất đen chỉ cao đến mắt cá chân. Xắn gấu quần bò lên.

Họ bắt đầu
đi qua con lạch. Nước lạnh như nước đá, cảm giác hết sức dễ chịu. Sachs thấy
nuối tiếc khi chuyến vượt lạch – mà Jesse phát âm thành “lặt” – kết thúc.

Sang bờ
bên kia, họ đợi vài phút cho chân khô, rồi đi tất, đi giày vào. Tiếp theo, họ
kiểm tra xung quanh bờ cho tới lúc lại phát hiện được các dấu chân. Đội tìm
kiếm liền đi theo các dấu chân đó vào rừng nhưng vì mặt đất trở nên khô ráo hơn
và những bụi cây đan nhau chằng chịt hơn, họ đã mất dấu vết.

“Đám thông
ở đằng kia,” Jesse nói. Anh ta chỉ về phía đông bắc, “Đi xuyên thẳng qua đấy là
cách hợp lý nhất đối với họ.”

Theo sự
hướng dẫn chung chung của Jesse, họ đi bộ thêm hai mươi phút nữa, đi hàng một,
quan sát kỹ lưỡng mặt đất để đề phòng dây bẫy. Rồi sồi, nhựa ruồi, lách… dần
dần nhường chỗ cho bách xù và độc cần. Phía trước họ, cách một phần tư dặm, là
một rặng thông khổng lồ. Nhưng chẳng còn bất cứ dấu chân nào của kẻ bắt cóc và
nạn nhân của gã nữa – không có manh mối nào về vị trí họ đã đi vào rừng.

“Rộng mênh
mông như thế này,” Lucy lẩm bẩm. “Làm sao chúng ta tìm thấy dấu vết của họ
trong đấy?”

“Chúng ta
hãy tỏa ra,” Ned gợi ý. Anh ta có vẻ cũng bị mất tinh thần vì khoảng cây cối
rậm rạp trước mặt. “Nếu hắn đặt một quả bom thì họa có trời mới thấy được.”

Họ đang
sắp sửa tỏa ra thì Sachs nghênh nghênh đầu. “Khoan. Ở yên đấy đã,” cô ra lệnh
rồi bắt đầu từ từ đi qua bụi cây, mắt nhìn xuống đất, xem có bẫy không. Chỉ đi
chừng năm mươi feet, tới một lùm cây cái cây trổ hoa, bây giờ hoa đã rụng, xung
quanh gốc đầy các cánh rữa nát, cô phát hiện ra dấu chân của Garrett và Lydia
trên nền đất. Chúng dẫn tới một lối mòn quang quẻ và lối mòn này dẫn vào rừng.

“Họ đi lối
này!” Sachs gọi. “Đi theo dấu chân tôi ấy. Tôi đã soát bẫy rồi.”

Một lát
sau, ba người cảnh sát tới chỗ cô.

“Làm sao
cô phát hiện được?” anh chàng Jesse Corn đang trồng cây si hỏi.

“Anh ngửi
thấy mùi gì?” Sachs hỏi lại.

“Xạ chồn,”
Ned trả lời.

Sachs nói:
“Garrett để lại mùi xạ chồn trên chiếc quần tôi tìm thấy tại nhà hắn. Tôi suy
luận rằng lúc trước hắn đã đi theo lối này. Tôi căn cứ vào mùi xạ chồn còn
vương ở đây thôi.”

Jesse cười
to và bảo Ned: “Một cô gái thành phố đấy, anh thấy thế nào?”

Ned đảo
mắt và họ bắt đầu đi theo lối mòn, từ từ di chuyển về phía rặng thông.

Có vài lần
họ đi qua những khu vực rộng lớn, héo úa – cây to, cây nhỏ chết hết cả. Khi đi
qua những khu vực đó, Sachs cảm thấy bất an – đội tìm kiếm hoàn toàn phơi mình
ra trước khả năng bị tấn công. Qua nửa bãi trống thứ hai và sau một cú thót tim
nữa vì con thú hay con chim nào đấy rúc sột soạt trong bụi cây, cô rút điện
thoại di động ra.

“Rhyme, anh ở đấy chứ?”

“Gì thế? Tìm thấy cái gì à?”

“Bọn em phát hiện được dấu vết
rồi. Nhưng hãy cho em biết – có chứng cứ nào chỉ ra khả năng Garrett sử dụng
súng không?”

“Không,” Rhyme trả lời, “Sao
vậy?”

“Có những khu vực trống trong
cánh rừng này – mưa acid hoặc các chất gây ô nhiễm đã tiêu diệt sạch cây cối.
Bọn em chẳng có gì che chắn. Thật là một nơi lý tưởng để mai phục.”

“Anh không thấy dấu vết nào
hướng tới việc sử dụng súng. Bọn anh có phát hiện ra nitrate, nhưng nếu đấy là
từ đạn thì bọn anh cũng sẽ phải phát hiện ra các hạt nhỏ đã cháy, dung môi làm
sạch, dầu mỡ, cordite, thủy ngân fulminate. Không thấy bất cứ thứ gì như vậy.”

“Điều ấy chỉ có nghĩa là hắn
không sử dụng súng trong thời gian gần đây.”

“Phải.”

Sachs cúp máy.

Quan sát sung quanh một cách
thận trọng, đầu óc căng thẳng, họ đi thêm vài dặm nữa, xung quanh không khí đầy
mùi nhựa thông. Như bị ru ngủ bởi cái nóng và tiếng côn trùng vo ve, họ vẫn đi
trên lối mòn mà Garrett và Lydia đi lúc trước, tuy dấu chân hai người chẳng còn
rõ ràng nữa. Sachs băn khoăn tự hỏi liệu có phải họ đã bỏ qua…

“Dừng lại!” Lucy Kerr kêu lên.
Cô khuỵu gối xuống. Ned và Jesse đứng sững. Chỉ trong tích tắc Sachs đã rút
khẩu súng lục ra. Rồi cô nhìn thấy cái mà Lucy đang nhìn – ánh màu bạc của một
sợi dây chăng ngang đường.

“Trời đất,” Ned nói. “Làm sao
chị nhìn thấy được? Nó hoàn toàn trong suốt”

Lucy không trả lời. Cô bò ra lề
lối mòn, bám theo sợi dây. Khẽ khàng gạt các bụi cây. Những chiếc lá nóng bỏng,
khô khốc kêu sột soạt khi bị nhấc lên lần lượt.

“Muốn tôi gọi đội tháo bom từ
Elizabeth City đến không?” Jesse hỏi.

“Xuỵt,” Lucy yêu cầu.

Đôi bàn tay thận trọng của
người nữ cảnh sát mỗi lần chỉ dịch chuyển những chiếc lá đi một milimét.

Sachs nín thở. Trong một vụ án
mới đây, cô đã là nạn nhân của một quả bom sát thương. Cô bị thương không nặng,
tuy nhiên cô nhớ rằng chỉ một tích tắc thôi, tiếng nổ kinh hoàng, sức nóng,
sóng áp suất, các mảnh vỡ, tất cả trùm kín lên cô. Cô không muốn trải qua điều
đó một lần nữa. Cô cũng biết nhiều quả bom ống tự tạo được nhồi các vật hình tròn
– đôi khi là các đồng mười xu hoặc một xu – chúng sẽ trở thành những mảnh đạn
gây chết người. Liệu Garrett có làm như vậy không? Cô nhớ tấm ảnh chụp gã: đôi
mắt trũng sâu, tối lờ mờ. Cô nhớ những chiếc lọ đựng côn trùng. Nhớ cái chết
của cô gái ở Bến tàu kênh Nước đen – bị ong đốt chết. Nhớ Ed Schaeffer đang hôn
mê vì nọc ong bắp cày. Phải, cô đi đến kết luận, Garrett dứt khoát sẽ đặt những
cái bẫy ác độc nhất mà gã có thể nghĩ ra được.

Sachs sợ hãi lùi lại khi Lucy
gạt chiếc lá cuối cùng khỏi đống lá.

Người nữ cảnh sát thở một hơi
dài, ngồi bệt xuống đất. “Một con nhện,” cô lẩm bẩm.

Sachs cũng đã trông thấy. Chẳng
phải là dây câu, đó chỉ là một đoạn tơ nhện dài.

Họ đứng dậy.

“Nhện,” Ned vừa nói vừa cười
to. Jesse cũng cười tủm tỉm.

Nhưng giọng họ không có gì là
hài hước cả và Sachs để ý thấy, khi họ lại bắt đầu đi xuôi theo lối mòn, mỗi
người đều thận trọng nhấc chân bước qua sợi tơ nhện óng ánh.

***

Lincoln Rhyme, ngả đầu ra đằng
sau, mắt nheo nheo nhìn tấm bảng.

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN
TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT

Xạ chồn hôi

Lá thông bị cắt rời khỏi cành

Các bức vẽ côn trùng

Ảnh chụp Mary Beth

Ảnh chụp gia đình

Các sách về côn trùng

Dây câu

Tiền

Chìa khóa chưa xác định

Dầu hỏa

Ammonia

Nitrate

Camphene

Anh thở dài bực bội. Cảm thấy
bất lực hoàn toàn. Đối với anh, các chứng cứ chưa thể tháo gỡ được.

Ánh mắt anh tập trung
vào: Các sách về côn trùng.

Rồi anh liếc nhìn Ben. “Vậy.
Cậu là sinh viên, phải không?”

“Thưa ông, vâng.”

“Tôi đoán là cậu đọc nhiều.”

“Đấy là tôi dành phần lớn thời
gian của mình để làm - nếu không ra ngoài thực nghiệm.”

Rhyme nhìn chằm chằm gáy mấy
cuốn sách mà Amelia đã đem từ phòng riêng của Garrett về. Anh trầm ngâm. “Các
cuốn sách được ưa thích của một người nói lên những điều gì về người này? Ý tôi
là, ngoài cái điều hiển nhiên – rằng người này quan tâm đến chủ đề nằm trong
các cuốn sách đó.”

“Nghĩa là
thế nào ạ?”

“Chà, nếu
một người đọc chủ yếu các sách dạy cách hoàn thiện bản thân, nó cho biết điều
gì đó về người này. Nếu anh ta đọc chủ yếu là tiểu thuyết, nó cho biết điều gì
đó khác. Những cuốn sách của Garrett toàn là sách hướng dẫn, chẳng phải sách
văn học. Cậu có suy luận gì?”

“Tôi không
biết, thưa ông.” Anh chàng to lớn liếc nhìn chân Rhyme một cái – dường như chỉ
là vô tình – rồi chuyển sự chú ý sang bảng chứng cứ. Anh ta lẩm bẩm: “Tôi chẳng
thể suy diễn gì về con người. Tôi thấy hiểu động vật đơn giản hơn nhiều. Chúng
mang tính xã hội hơn, có thể dự đoán dễ dàng hơn, nhất quán hơn so với con
người. Chúng cũng thông minh hơn hẳn.” Rồi anh ta nhận ra mình đang dông dài, đỏ
bừng mặt và ngừng nói.

Rhyme lại
liếc nhìn các cuốn sách. “Thom, cậu mang cho tôi thiết bị lật trang được
không?” Gắn với một bộ kiểm soát môi trường cho phép Rhyme điều khiển bằng ngón
tay duy nhất còn hoạt động được, thiết bị này sử dụng phần ứng cao su để lật
trang. “Nó ở trong xe hả?”

“Tôi nghĩ
thế.”

“Tôi hy
vọng cậu đã đóng gói nó. Tôi đã bảo cậu đóng gói nó.”

“Tôi nói
là tôi nghĩ nó ở trong xe mà,” anh chàng phụ tá nói giọng đều đều. “Tôi sẽ đi
xem nó có ở trong xe không.” Anh ta rời khỏi căn phòng.

Chúng cũng thông minh hơn hẳn…

Một lát
sau, Thom quay lại mang theo thiết bị lật trang.

“Ben,”
Rhyme gọi. “Cuốn sách ở trên cùng ấy?”

“Kia ạ?”
Anh chàng to lớn hỏi, nhìn chằm chằm vào cuốn sách. Đó là cuốn Hướng
dẫn thực địa về côn trùng khu vực Bắc Carolina.

“Cho lên
khung đi,” Rhyme sốt ruột nói. “Cậu làm ơn.”

Anh chàng
phụ tá hướng dẫn Ben cách đặt cuốn sách, rồi cắm thêm một loạt dây điện vào bộ
kiểm soát môi trường nằm phía dưới bàn tay trái Rhyme.

Anh đọc
trang đầu tiên, không phát hiện được điều gì hữu ích. Tiếp theo, đầu óc anh ra
lệnh cho ngón đeo nhẫn của anh cử động. Một xung lực phóng từ não, truyền xuống
qua một sợi trục bé tí còn tồn tại trong tủy sống, vượt qua cả triệu bà con đã
chết của nó, chạy vùn vụt dọc cánh tay Rhyme, đi vào bàn tay anh.

Ngón tay anh đưa sang bên.

Tới lượt ngón tay của phần ứng
đưa sang bên. Trang đầu tiên được lật.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3