Thế Giới Người Điên - Chương 18 - 19
CANH BẠC
Năm 1999, anh T.N, bạn đồng nghiệp của tôi ở miền tây chuyển
công tác lên Sài Gòn. Anh ra khu vực Gò Mây – xã Bình Hưng Hòa – mua 180 mét
vuông đất để cất nhà, đất nông nghiệp giá 230 ngàn đồng một mét vuông, thủ tục
sang tay, có hàng xóm làm chứng và chính quyền xã xác nhận. Anh xây ngôi nhà
kiên cố gần 100 mét vuông, cũng không phép tắc gì, chỉ đóng ba trăm ngàn cho xã
gọi là tiền phạt xây dựng trái phép. Vậy là an cư lạc nghiệp. Ngày tân gia, bạn
bè tới chúc mừng, nhưng do nhà không có địa chỉ nên anh phải hẹn điểm đón tại
cây xăng Vĩnh Lộc rồi dẫn bạn vào theo những con đường mòn len lỏi dưới những
lũy tre. Thời ấy có cụm từ chung cho dân nhập cư là: Nhà không số, đường không
tên, điện tự kéo, nước tự bơm.
Thế rồi năm năm sau, một buổi sáng năm 2004, anh nhăn nhó báo
tin: Nhà bị giải tỏa vì nằm trong dự án khu đô thị mới Vĩnh Lộc. Bạn bè lo ngại
cho anh, đất không có giấy chủ quyền, nhà xây trái phép, hộ khẩu không có, rất
dễ bị trắng tay. Nhưng rồi mấy tháng sau gặp lại anh, anh cười khoe mọi chuyện
đã được dàn xếp, đất được tái định cư chín mươi tám phần trăm, nhà được bồi thường
95 triệu đồng, cao hơn giá gốc, trong thời gian giải tỏa, chờ tái định cư, anh
được tạm cấp một căn hộ chung cư.
Hơn một năm sau, chúng tôi vào thăm anh, mọi chuyện thay đổi
đến không ngờ, bạn bè nói vui rằng anh có số đỏ, mà thật ra trên đời
này chưa thấy ai được may mắn như anh, từ chỗ mua đất chui, xây nhà chui giữa một
vùng nông nghiệp hoang sơ giờ trở thành nhà mặt tiền trong khu đô thị mới, đường
xá thênh thang, cơ sở hạ tầng cao cấp. Chẳng những không tốn thêm một xu nào mà
hai lô đất của anh bây giờ trị giá gần cả tỷ đồng. Nhưng anh ngậm ngùi nói: “Thật
ra mình chẳng phải may mắn gì. Việc quy hoạch đất đai hiện nay giống như một
canh bạc. Ai biết thì thắng, ai thiếu hiểu biết thì thua, thậm chí thua thiệt cả
một đời người.
Để hiểu rõ hơn thế nào là chuyện ăn thua trong canh bạc quy
hoạch này, tôi giả dạng một người đi mua đất để lân la trong các quán cà phê.
Cô Hai Một kể rằng, gia đình cô có hai mẹ con, một con dâu,
hai đứa cháu nội, cả đời cô sống nghề ruộng rẩy, chẳng biết quy hoạch là gì.
Năm 2000, có mấy ông cán bộ đến nhà cho biết, đất của cô nằm trong quy hoạch
khu đô thị mới, đã được Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, quyền lợi của cô sẽ được
bảo đảm tối đa, thậm chí cô có thể làm giàu. Sau khi tiến hành đo đạc, cán bộ
báo cho cô biết, tổng diện tích đất của cô là 13.000 mét vuông, phần đất vườn
được bồi hoàn 90.000 đồng một mét vuông, phần đất trồng lúa được bồi hoàn
50.000 đồng một mét vuông, tính chung, kể cả tài sản trên đất, cô sẽ được bồi hoàn
900 triệu đồng. Sau khi làm lộ xong, cô sẽ được cấp 196 mét vuông đất mặt tiền
để tái định cư. Cô nghĩ, mười công đất ông bà để lại, từ đời cha cô cho đến đời
cô, quần quật quanh năm cày sâu cuốc bẩm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời,
chưa bao giờ cầm trên tay được một lượng vàng. Bây giờ, chín trăm triệu đồng, bằng
hai trăm lượng vàng, lại được cái nền nhà mặt tiền gần hai trăm mét vuông giữa
khu đô thị, có điện, có nước, chẳng thua dân chợ. Rõ ràng là một cuộc đổi đời.
Cô ký biên bản thỏa thuận bồi hoàn rồi lên Ban quản lý dự án nhận chín trăm triệu
đồng đem gửi ngân hàng, yên tâm chờ ngày nhận đất tái định cư.
Năm năm sau.
Giá vàng từ 4,5 triệu đồng một lượng lên mười triệu
đồng một lượng, số tiền cô gửi ngân hàng bỗng dưng mất đi một nửa. Giá đất
trong khu quy hoạch từ ba triệu đồng đến bảy triệu đồng một mét vuông. Cô nghe
những người biết chuyện nhẩm tính, giá thành của một mét vuông đất thổ cư trong
khu quy hoạch dao động từ sáu trăm ngàn đến một triệu đồng, bao gồm chi phí đền
bù giải tỏa, san lắp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi.
Với 13.000 mét vuông đất của cô, nếu trừ đi năm mươi phần trăm diện tích đất
công cộng, còn lại 6500 mét vuông đất nền nhân cho con số khiêm tốn là ba triệu
đồng trên mỗi mét vuông (tức là cái giá thấp nhất trong khu đô thị Vĩnh Lộc hiện
nay mà Ban quản lý dự án đang mua lại của dân), trừ lại chi phí đầu tư thì ai sẽ
thừa hưởng con số siêu lợi nhuận này?
“Thua me gỡ bài cào”. Anh Trịnh Minh Thế, con trai của cô Hai
Một đâm đơn khiếu nại đòi quyền thừa kế phần đất của mẹ để được tái định cư.
Sau một cuộc giằn co, Ban quản lý dự án dàn xếp bằng cách trả lại cho cô Hai
1500 mét vuông để cô chia cho con, đồng thời cô phải thối lại cho Ban quản lý dự
án 135 triệu đồng, tính theo giá bồi hoàn đất vườn. Trên 1500 mét vuông ấy, anh
Thế được tái định cư mười hai phần trăm, tức 180 mét vuông mà không được nhận bồi
hoàn. Thôi thì của đổ hốt lại, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Biên bản thỏa thuận
bồi hoàn mình đã ký, tiền bồi hoàn mình đã nhận, tất cả coi như ván đã đóng
thuyền. Cô Hai Một buồn bã nói thế.
Người thứ hai thua đau đớn trong canh bạc này là ông Hai Tặc,
một nông dân ba đời sống ở Gò Mây. Cũng như cô Hai Một, ông Hai Tặc có 7500 mét
vuông đất trong quy hoạch, ông được bồi hoàn hơn 700 triệu đồng và 196 mét
vuông đất tái định cư. Năm 2000, trước khi ký biên bản thỏa thuận bồi hoàn, có
một người quen làm luật sư khuyên ông không nên ký, bởi hai lý do: Thứ nhất,
đây là dự án kinh doanh của một doanh nghiệp chớ không phải là công trình phúc
lợi xã hội, thứ hai, đây là biên bản thỏa thuận chớ không phải quyết định của
cơ quan quyền lực nhà nước, vì vậy cần cân nhắc kỹ để tiếp tục thỏa thuận về
quyền lợi của đôi bên. Có thể giữa chủ đất và chủ doanh nghiệp đi đến một thỏa
thuận hợp tác, chuyển đất thành vốn để cùng chủ đầu tư chia lợi nhuận.
Không thể hình dung nổi một canh bạc đầy phức tạp trong khi
700 triệu đồng trước mắt ông đang là phần thắng trong tay. Vốn là một nông dân
hiền lành và tử tế, nghĩ 700 triệu đồng đây là công lao của mẹ cha để lại, ông
Hai Tặc mang đi chia cho ba người em gái, hai đứa cháu con của người em đã chết,
mỗi người được năm ba chục triệu đồng, còn lại là phần của sáu đứa con, trong
đó, ông đầu tư cho đứa con trai lớn một chiếc xe khách để kinh doanh.
Bây giờ, sau sáu năm, ông đã nghiệm ra rằng không phải mình
thua một canh bạc mà thua cả một cuộc đời. Đất tái định cư chưa có, cũng không
biết nó nằm ở vị trí nào. Còn ngôi nhà ông đang ở thì coi như ông chỉ ở trọ trong
nhà mình vì tiền bồi hoàn ông đã nhận của người ta, nó là của người ta, không
biết người ta sẽ cho xe ủi đến lúc nào. Tiền đã hết, chiếc xe thì bữa có khách,
bữa không, sáu đứa con đã lần lượt có vợ có chồng nhưng chẳng lẻ cứ tiếp tục ở
trọ trong căn nhà ông đang ở trọ? Những câu hỏi cứ làm ông rai rứt. Sáng sáng,
tôi thấy ông ra ngồi lặng lẽ trong quán cà phê ở đầu con đường mòn trước nhà,
bên bụi tre gai, cái quán lá ấy cũng do ông cất trọ trên chính phần đất của
mình. Ông cứ ngồi đó, chết lặng nghe mấy anh cò đất rau giá với khách mua. Ba
triệu, bốn triệu, năm triệu, sáu triệu, bảy triệu đồng một mét vuông...
Con trai ông Hai Tặc – anh Liệt – pha cà phê, thỉnh thoảng xề
xuống nói với tôi mà như trách ông già: “Nhiều người đất ít hơn tôi mà bây giờ
được năm bảy cái nền, tại vì họ biết chuyện, lúc vận động họ cương, không chịu
ký. Phải hồi đó ổng đừng ký thì bây giờ đâu đến nông nỗi này!”
Bạn tôi – anh T.N – trầm ngâm nói: “Có những người sau khi nhận
một cục tiền rồi không biết phải làm gì, cứ lay quay ở trọ trên đất mình, ăn hết
tiền rồi bán lúa non phần đất tái định cư cho cán bộ, nhân
viên trong dự án với giá ba bốn trăm ngàn một mét vuông, dắt díu vợ con ra ngoại
thành mua đất nông nghiệp ở tiếp... Than ôi! Biết đến thuở nào người nông dân mới
tự quy hoạch được đời mình!”
ĐẤT LÊN, TÌNH NGƯỜI XUỐNG
Đọc bài “Đất lên, tình người xuống” trên SGTT số 34, tôi cứ
nghĩ rằng có lẻ bài tác giả cũng “ám chỉ” tôi khi mà cuộc sống ngày thường với
bao lo toan bon chen, cơm áo gạo tiền khiến chúng ta có lúc như quên mất đi
tình nghĩa con người với con người. Đó là tình cảm gia đình, tình hàng xóm làng
giềng và cả tình bạn... Khi có vấn đề tiền bạc xen vào, những tình cảm dường
như thiêng liêng ấy lại chẳng còn giá trị là bao (!?). cảm ơn SGTT đã có những
bài báo hay, lay động lòng người, khiến chúng ta phải bình tâm để quay về với
những giá trị thiêng liêng, không tiền bạc gì mua được...
(Hà Quỳnh Như – Gò Vấp)
Hơn nửa thế kỷ trước, khi đặt chân đến vùng Bà Điểm, Hóc Môn này
để khẩn hoang, trồng trầu trồng cau lập nghiệp, hẳn ông Hai Bình – cũng như nhiều
cư dân khác – không thể hình dung ra rằng một ngày nào đó, mỗi mét vuông đất ở
đây sẽ được tính bằng vàng chỉ, vàng cây. Từng thập niên trôi qua, Mười Tám
Thôn Vường Trầu đã trở thành một địa danh lừng lẩy khắp Nam Kỳ lục tỉnh, là biểu
tượng cho thiên-thời-địa-lợi-nhơn-hòa của Sài Gòn-Gia Định. Ông Hai Bình hiểu
và lấy làm tự hào về điều đó, cho nên, khi tám người con của ông lần lượt trưởng
thành, gã chồng hay cưới vợ, ông cất cho một căn nhà bên cạnh để ra riêng. Ước nguyện
của ông là sẽ có một xóm nhà mà trong đó toàn là những người ruột thịt để cộng
hưởng cái hòa khí của làng mạc, đất đai. Nhưng ước nguyện ấy đã không thành.
Khi bến xe An Sương mở ra, cầu vượt An Sương mở ra, con đường xuyên Á mở ra, cả
bốn bề là đô thị, đất đai lên cơn sốt, người ta ầm ầm sang bán. Ông A, ông B,
ông C gần đó, cả đời ky cóp từng đồng từng cắc, nghèo xác nghèo xơ, giờ cắt bán
vài cái nền nhà đã trở thành tỷ phú. Con cái ông Bình sầm xì rằng năm ngàn mét
vuông đất của ông bây giờ giá chót cũng mười lăm tỷ, nếu chia đều ra thì mỗi
người cũng ngót nghét hai trăm lượng vàng. Biết trước sẽ có chuyện chẳng lành,
ông Bình họp các con lại bảo: “Xưa nay ba không có ý định chia đất, ba muốn các
con sống chung và xem đất này là của chung, để con cháu tụi bây sau này lập gia
đình cũng có đất cất nhà. Nhưng giờ ba thấy tình hình không ổn nên ba quyết định
chia đều cho tám đứa bằng nhau, cứ phân ra thành tám lô rồi bốc thăm, đứa nào
trúng lô nào thì lấy lô đó”. Nhưng quyết định của ông Hai Bình đã muộn.
Chị Nguyễn Thị Phượng,
người con gái thứ tư phản đối: “Phần tôi hai ngàn mét vuông, tôi đã canh tác bốn
chục năm nay, chồng tôi đứng tên khai thuế từ năm 1975 đến giờ, tôi không chia
cho ai hết”. Thấy chị con đông, anh em trong nhà thống nhất chia cho chị tám
trăm mét vuông, nhưng chị kiên quyết không chịu. Thất vọng, buồn tủi và bất lực,
ông Bình sinh bệnh và chết. Những cuộc tranh chấp tiếp tục diễn ra. Chị Phượng
phân lô bán nền, anh em ngăn cản. Đất tranh chấp không ai dám mua. Chị cất nhà
trọ. Anh em cầm búa ra đập tường. Hai bên ấu đả lẫn nhau. Những cuộc hòa giải của
chính quyền xã không thành. Đất vẫn là đất nhưng lạnh lùng, tê buốt và luôn ẩn
chứa mầm móng của chiến tranh. Mạnh ai nấy làm hàng rào, bít cả lối đi. Tôi chạy
xe vào nhà chị Phượng phải leo vòng lên hàng ba của nhà người khác. Dường như
có ai đó hiểu rằng tôi đi xác minh để bênh chị Phượng. Một người phụ nữ tranh
thủ đến nói nhỏ với tôi, giọng lạnh lùng và nghiêm khắc: “Cậu làm báo thì phải
khách quan, phải hiểu rõ nguồn gốc của đất này trước khi viết báo”. Chị nhìn thẳng
vào tôi rồi lặng lẽ bỏ đi.
Khác với cách tính toán của ông Hai Bình, bà Trần Thị Hớn
cũng có tám người con nhưng tất cả được bà nuôi cho học hành đỗ đạt thành một
gia đình trí thức có tiếng trong vùng. Bà có 1500 mét vuông đất hương quả. Năm
1999, bà làm tờ tương phân cho tám người con, mỗi người từ 120 đến 150 mét
vuông, riêng bà giữ lại 480 mét vuông để dưỡng già. Theo quan niệm chia tài sản
của người xưa, giàu Út ăn, khó Út chịu, hơn nữa bà sống với con
trai Út nên trước khi qua đời, bà lên xã lập giất ủy quyền phần đất của bà cho
người con trai Út để anh này lo thờ cúng tổ tiên. Thế nhưng, hai năm sau khi bà
Hớn qua đời, bảy anh chị của Út làm đơn kiện lên xã đòi chia thừa kế phần đất
dưỡng già của mẹ, mỗi người 59 mét vuông. Trong cuộc họp hòa giải tại xã, họ
cho rằng mặc dù Út ở với mẹ nhưng nuôi mẹ thì tất cả cùng nuôi, có người lật sổ
tay đọc vanh vách những ngày tháng và các khoảng chi phí họ đi nuôi mẹ trong bệnh
viện Trưng Vương. Anh cán bộ tư pháp xã nói rằng: “Hòa giải cho bà con nông dân
thì dễ, còn hòa giải cho những người ăn học cao hơn mình rất khó, cuối cùng
chúng tôi phải chuyển hồ sơ lên Tòa án huyện, xử sơ thẩm không xong, huyện chuyển
hồ sơ lên cấp phúc thẩm, chưa biết kết quả ra sao, nhưng dù có ra sao đi nữa
thì mình cũng không ngờ nỗi những điều như vậy có thể xảy ra ở những người mệnh
danh là kỷ sư, nhà giáo”.
Chúng tôi tìm đến nhà của ông Nguyễn Quốc Hưng theo tờ đơn
ông tố cáo người con trai út của ông, anh Nguyễn Quốc Khang. Ở xứ Bà Điểm này,
ông Hưng từng nổi tiếng là một người giàu có, nhiều ruộng nhiều vườn. Theo ông
trình bày, ông có bốn người con, hai thửa đất ở xa lộ Đại Hàn và Trung Chánh
ông chia cho ba người con lớn. Khang là con trai Út nên ông ở với Khang trên phần
đất hương quả 2500 mét vuông cùng với ngôi nhà ngói ba gian thờ cúng ông bà. Thế
nhưng vợ chồng Khang bất hiếu, ngược đãi ông, thậm chí đánh đuổi ông ra khỏi
nhà để giành đất. Tức giận, ông cắt cho Khang chín trăm mét vuông ra ở riêng
nhưng Khang vẫn không chịu, đòi giành trọn phần đất của ông.
Câu chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Ngồi đối diện với tôi
là một ông già lẩm cẩm trên tám mươi tuổi và anh con trai hiền lành bốn mươi
sáu tuổi. Khang nói: “Tôi là con trai út, nhận nuôi cha trên đất hương quả là
chuyện bình thường. Nhưng từ khi đất đai lên giá, ổng cứ phân lô bán nền liên tục
để lấy tiền cung phụng cho bà bán vé số ở xóm trên. Ông nói rằng ổng có con với
bà ấy. Thử hỏi anh, ổng tám mươi hai tuổi rồi mà có con trai năm tuổi, liệu có
tin được không?”. Ông già quát: “Tổ cha mày, không phải con tao sao nó thương
tao, thỉnh thoảng nó tới ngủ với tao?” Khang thở dài: “Tôi ngăn cản không cho ổng
bán đất, ổng đuổi tôi ra khỏi nhà, tôi cất nhà bên cạnh, ổng rào lại không cho
tôi qua để ở một mình cho dễ bề quan hệ với bà kia”. Ai đúng ai sai trong câu
chuyện giữa hai người chưa phân giải. Nhưng nhìn những tấm mê bồ, những cây tre
và những sợi kẽm gai ngăn cách tình cha con, ai cũng thấy não lòng.
Chị Cúc Hương, cán bộ tư pháp xã Bà Điểm nói rằng, ông bà xưa
chia đất cho con cháu không phải đo đạc phân lô, có khi chỉ nói đại khái miếng
A, miếng B nào đó, hoặc lấy cái bờ, con mương làm ranh giới. Nhưng rồi khi giá
đất vọt lên một mét vuông năm bảy triệu đồng thì một vài tấc ranh cũng làm cho
gia đình tan nát. Có những ranh đất chỉ đôi ba tấc thôi mà cán bộ tư pháp xã hòa
giải suốt năm sáu năm vẫn không thành, anh em ruột thịt lại kéo nhau lên Tòa án
huyện. Về pháp lý, cái ranh giới đất thì đã khó xác lập, còn cái tình thì đến đời
con cháu họ cũng chưa chắc gì xóa được sự cách ngăn. Đất Hóc Môn là đất vốn có
truyền thống dòng tộc lâu đời. Bởi vậy xưa nay ngày giỗ ở đây luôn được coi là
quan trọng, là ngày tề tựu họ hàng thân tộc, cháu con, chòm xóm. Nhưng bây giờ,
sau những vụ tranh chấp đất đai, có nhiều gia đình đến ngày giỗ ông bà thì mạnh
ai nấy cúng, ngôi nhà thờ trở nên vắng vẻ, lạnh lùng.
Anh Thanh Hà, cán bộ thi hành án huyện Hóc Môn nói với tôi:
“Nếu có dịp, anh đến ngồi dự các phiên Tòa dân sự về những vụ tranh chấp đất
đai trong họ hàng thân tộc, anh sẽ thấy rằng, đất càng lên giá bao nhiêu thì
tình người càng xuống giá bấy nhiêu”.