Xứ phật huyền bí - Chương 12
Chương 12
Cuộc Viếng Thăm Thánh Gandhi
Mahadev
Desai, bí thơ của thánh Gandhi, nghênh đón chúng tôi tại nhà ga Wardha một buổi
sáng sớm vào tháng 8, khi chúng tôi vừa rời khỏi toa xe lửa. Chúng tôi bước lên
một chiếc xe hơi mui trần với ông Desai và ba người nữa đi đón chúng tôi. Xe đi
qua vài con đường lầy lội ở vùng quê, và một lát sau đã đưa chúng tôi đến đạo
viện Maganvadi, nơi tịnh thất của thánh Gandhi.
Ông
Desai đưa chúng tôi vào thư phòng, tại đây thánh Gandhi ngồi xếp bằng trên
chiếu trải dưới đất. Một tay cầm cây bút và một tay cầm một tập giấy, ông tiếp
đón chúng tôi với một nụ cười nồng ấm. Ông viết trên tập giấy hai chữ: “Kính
chào!” bằng chữ Hindi. Hôm ấy là ngày thứ Hai, lại là ngày ông giữ tịnh khẩu
trong tuần.
Tuy đó
là cuộc gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi đã thông cảm ngay tức khắc. Năm 1925, Thánh
Gandhi đã viếng trường Ranchi và có ghi những cảm nghĩ của ngài trong quyển sổ
lưu niệm dành cho các quý khách.
Thánh
Gandhi tuy có vẻ gầy ốm, nhưng tinh thần rất tráng kiện, toàn thân ngài toát ra
một sức mạnh tâm linh và sức khỏe thể chất lành mạnh. Đôi mắt nâu dịu hiền chói
rạng sự thông minh, lòng thành thật và óc phân biệt. Không một nhà lãnh đạo
quần chúng nào đã từng thu phục lòng dân một cách chắc chắn, bền vững như thánh
Gandhi đối với hàng triệu dân Ấn Độ. Họ đã tặng cho ngài cái danh hiệu Mahatma
(bậc thánh) mà họ cảm thấy xuất phát tự đáy lòng. Vì họ, ngài đã tự nguyện chỉ
mặc quanh năm chỉ một cái khố ngắn, biểu tượng sự hợp nhất của ngài với quảng
đại quần chúng nghèo khổ, lầm than.
“Những
nhân viên lưu trú của đạo viện đều sẵn sàng phục dịch đại đức, vậy đại đức hãy
cứ tự nhiên mà tuỳ nghi sử dụng.” Thánh Gandhi nhã nhặn lịch sự cầm đưa cho tôi
mảnh giấy viết tay với những dòng chữ trên, khi ông Desai đưa chúng tôi ra khỏi
thư phòng để đến nơi nhà khách.
Chúng
tôi đi qua những khu vườn tược và đồng ruộng trổ hoa đến một ngôi nhà lợp ngói.
Trước sân có một cái giếng lớn, gần bên có một cối đá để xay lúa. Trong nhà
khách chia ra làm nhiều buồng ngủ nhỏ nhắn, mỗi buồng vừa một giường bố dệt
bằng tay. Nhà bếp quét vôi trắng có một vòi nước máy ở một góc và ở một góc
khác có một lò lửa đào dưới đất để nấu nướng. Chung quanh là những tiếng quạ
kêu, chim hót, vài tiếng bò rống và tiếng dùi mài giũa đá.
Nhìn
thấy tập Du Kí của bạn Richard. Ông Desai cầm lấy xem và viết trên một trang
giấy bảng liệt kê mười một điều giới răn của phong trào bất bạo động
(Satyagraha) mà tất cả những tín hữu và môn đệ nhiệt thành của thánh Gandhi đều
tự nguyện tuân theo:
* Bất
Bạo Hành (Ahimsa)
* Ngay
Thật
* Không
Trộm Cắp
* Khiết
Bạch
* Thanh
Bần
* Cần
Lao
* Tiết
Độ
* Vô
Úy
* Khoan
dung
* Dùng
nội hóa (Swadeshi)
* Bỏ Kì
Thị Gia Cấp (đối với kẻ cùng đinh.)
Những
điều giới răn này phải được tuân theo với một tinh thần nhỏ nhoi, khiêm
tốn.
Ngày
hôm sau, Thánh Gandhi đã đích thân duyệt lại và kí tên vào trang đó, đề ngày 27
tháng 8 năm 1935. Hai giờ sau khi chúng tôi đến, là đến giờ ăn trưa. Thánh
Gandhi và độ hai mươi lăm tín hữu ngồi xếp bằng trên sàn gạch, có lót những
manh chiếu nhỏ vuông vừa một người ngồi, trước mặt mỗi người có đặt những dĩa
chén bằng thau chùi sạch bóng. Sau một bài cầu nguyện tập thể, bữa ăn mới bắt
đầu. Bữa ăn gồm có Chapiti, một loại bánh nướng làm bằng bột mì có thoa bơ, các
món rau đậu xào nấu ngon lành, mứt và cam.
Thánh
Gandhi còn đặc biệt dùng thêm món rau luộc nhuyễn, quết thành cục, rất đắng,
được coi là có dược tính lọc máu rất tốt. Ngài lấy cái muỗng sớt lấy một phần
rồi để vào dĩa của tôi. Sợ đắng, tôi nuốt ực với nước lạnh, còn ngài chỉ từ từ
ăn từng miếng một cách thản nhiên.
Chỉ một
việc nhỏ nhặt ấy cũng đủ cho tôi nhận xét rằng Thánh Gandhi có khả năng tách
rời tâm thức ra khỏi giác quan tuỳ ý muốn. Tôi nhớ lại câu chuyện mổ ruột dư
của ngài cách đây mấy năm, đã được tường thuật trên mặt báo chí xa gần, với rất
nhiều lời bình phẩm, ca tụng. Nằm trên bàn mổ Thánh đã từ chối không chịu chụp
thuốc mê, và đã trò chuyện vui vẻ với các tín hữu đến thăm suốt cơn giải phẩu
với nụ cười bình tĩnh hồn nhiên, tỏ ra ngài không biết đau đớn chi cả!
Trưa
hôm ấy, tôi có dịp trò chuyện với một vị nữ đệ tử ưu tú của Thánh Gandhi, cô
Madeleine Slade, ái nữ của một vị Thủy Sư Đô Đốc trong Hải quân Hoàng Gia Anh
nay lấy tên Ấn Độ là Mirabai. Gương mặt bình tĩnh và cương nghị của cô chói
rạng với một niềm hứng khởi nhiệt thành, khi cô nói chuyện với tôi, bằng tiếng
Hindu rất thạo (thổ ngữ miền Bắc Ấn) về những hoạt động hằng ngày của cô.
- Công
việc tái thiết nông thôn rất là thích thú! Mỗi ngày lúc năm giờ sáng, một nhóm
tín hữu của tôi ra đi để phục vụ những dân làng kế cận và giáo dục học về vệ
sinh thường thức. Chúng tôi phải ra tay quét dọn những chòi tranh và chí đến
buồng vệ sinh của họ. Dân làng vốn thất học, họ không thể giáo hóa được, trừ
khi bằng cách làm gương!
Nói
xong, cô cười lớn thật giòn tan.
Tôi
nhìn mà thán phục người phụ nữ ấy, vốn thuộc dòng dõi cao sang quyền quý nước
Anh, mà đức khiêm tốn xứng đáng với chúa Ki Tô đã làm cho cô có thể hạ mình làm
những công việc nhỏ nhoi dơ bẩn, thường chỉ dành cho giai cấp cùng đinh hạ tiện
của xứ Ấn Độ. Cô nói tiếp:
- Tôi
đến Ấn Độ năm 1925. Ở xứ này tôi cảm thấy như tôi đã thực sự trở về quê hương
xứ sở. Bây giờ tôi không còn muốn trở về với nếp sống cũ và những thích thú
trước kia của tôi nữa.
Trong
giây lát, cô Mirabai đã bận rộn với công việc quay chỉ khi cô ngồi xuống trước
cái bánh xe quay (charka.) Do sự cố gắng của Thánh Gandhi, những bánh xe quay
chỉ ngày nay đã xuất hiện khắp nơi trong các vùng làng mạc thôn quê của xứ Ấn
Độ.
Thánh
Gandhi có những lí do lành mạnh và vững chắc để khuyến khích việc phục hồi
những ngành tiểu công nghệ và thủ công, nhưng ông không chủ trương tẩy chay một
cách cuồng tín tất cả mọi sự phát minh tiên tiến, máy móc cơ khí, xe hơi, tàu
hỏa, vô tuyến truyền thanh, đều có đóng góp những vai trò quan trọng trong cuộc
đời hoạt động vĩ đại của ngài! Một nửa thế kỉ hoạt động công ích, vào tù ra
khám, vật lộn hằng ngày với những vấn đề thực tế và những va chạm phũ phàng
trên trường chính trị, chỉ càng làm tăng cường thêm những đức tính quân bình,
cởi mở, sáng suốt, lành mạnh và xét đoán với một tinh thần hài hước cái trò bi
kịch lạ lùng trên sân khấu của cuộc đời.
Đúng 8
giờ tối hôm ấy, Thánh Gandhi chấm dứt cơn tịnh khẩu. Những công việc bề bộn của
đời ngài bắt buộc ngài phải sử dụng thời giờ một cách đúng đắn từng giây từng
phút.
- Kính
chào đại đức!
Lời
tiếp đón của Thánh Gandhi lần này không phải viết trên giấy! Chúng tôi vừa mới
bước vào phòng làm việc của ngài, chỉ trang bị đơn giản tối đa với những tấm
chiếu vuông nhỏ trải dưới đất, không có ghế, một cái bàn thấp với sách vở, giấy
má, vài cây bút mực thường (không phải bút máy) và một cái đồng hồ treo trên
vách. Giữa một bầu không khí an tịnh, thâm nghiêm, Thánh Gandhi nở một nụ cười
cởi mở và nói:
- Nhiều
năm trước đây, tôi bắt đầu giữ giới tịnh khẩu mỗi tuần một ngày để có thời giờ
coi sóc và trả lời thơ tín. Nhưng bây giờ thì tịnh khẩu đó đã trở thành một nhu
cầu tâm linh thiết yếu. Một kỉ niệm im lặng định kì không phải là một điều khổ
hạnh, mà là một ân huệ tốt lành.
Khi tôi
từ giã Thánh để sửa soạn đi ngủ và chúc ngài một đêm yên giấc, ngài cầm đưa cho
tôi một lọ dầu xả trừ muỗi và vừa cười vừa nói:
- Giống
muỗi ở Wardha không biết gì về Ahimsa (Bất Bạo hành) đâu nhé đại đức!
Trở về
nhà trọ, tôi lại lấy làm ngạc nhiên một lần nữa về sự đơn giản và những dấu
hiệu hi sinh biểu hiện ở khắp nơi.
Thánh
Gandhi đã phát nguyện giữ đức thanh bần ít lâu sau khi lập gia đình. Ngài đã từ
bỏ nghề luật sư với nhiều thân chủ đã từng đem đến cho Ngài những lợi tức mỗi
năm trên 20.000 đô la, và đã đem phân phát tất cả tài sản cho người
nghèo.
Sư phụ
tôi thường châm biếm nhẹ nhàng những quan niệm thiếu sót thông thường về sự dứt
bỏ, hay từ khước hạnh phúc trần gian. Sư phụ nói:
- Một
kẻ ăn mày không thể từ khước của cải, giàu sang. Hoặc có người nói: “Công việc
làm ăn của tôi thất bại, vợ bỏ tôi, tôi sẽ hi sinh và từ bỏ hết cả để xuất gia
tầm Đạo.” Nói vậy, thì người ấy từ bỏ hoặc hi sinh cái gì? Y không có từ bỏ của
cải và tình yêu mà những thứ đó từ bỏ y!
Những
bậc thánh như Gandhi, trái lại, không những đã hi sinh những tài sản vật chất
đáng kể, mà còn thực hiện điều khó khăn hơn nữa là dứt bỏ những tham vọng ích kỉ
và mục đích riêng tư, để hòa hợp tâm thức mình với lẽ sống chung của toàn thể
nhân loại.
Vị hiền
phụ của thánh Gandhi là bà Kasturrabai, không hề phản đối khi ngài đem bố thí
hết cả tài sản, không dành lại một phần nào cho bà và các con. Lập gia đình
sớm, Thánh Gankhi và phu nhân phát nguyện giữ tịnh khẩu sau khi sinh được bốn
người con.
Một nữ
anh hùng can đảm thầm lặng trong cuộc đời tranh đấu gay go gian khổ của thánh
Gandhi, bà Kasturrai đã theo chồng vào ngục thất, cùng chịu chung những cuộc
tuyệt thực kéo dài suốt ba tuần lễ với ông, và cùng chia sẻ những trách nhiệm
nặng nề lớn lao của ngài. Trong nhiều năm bà Kasturabai đảm nhiệm vụ thủ quỹ,
gìn giữ số công quỹ toàn lớn hàng bao nhiêu triệu bạc mà Thánh Gandhi đã quyên
góp được để dùng trong công tác xã hội. Nhiều chuyện có tính cách hài hước đã
được thuật lại rằng trong các gia đình Ấn Độ, các ông chồng đâm ra hoảng sợ mỗi
khi thấy các bà vợ nhà đeo vàng ngọc, nữ trang đi dự những cuộc hội họp của
Thánh Gandhi. Lời nói đanh thép, hùng hồn và truyền cảm của dân chúng lầm than
khốn khổ, dương như có ma lực quyến rũ rất mạnh, làm cho những chiếc neo vàng
và kiềng vàng nạm kim cương rời khỏi tay và cổ các bà mệnh phụ sang trọng, quý
phái để rơi vào những cái rổ quyên góp như một màn ảo thuật!
Một
hôm, bà Kasturabai trong khi kế toán sổ sách ngân quỹ, thấy thiếu mất bốn đồng
rupee mà bà không nhớ rõ đã chi tiêu vào việc gì. Thánh Gandhi bèn điềm nhiên
công bố một bản kết toán sổ chi thương trong đó ngài nêu lên một cách vô tư sự
sơ sót của Kasturabai trong việc chi tiêu mất bốn rupee mà không ghi vào
sổ.
Tôi
thường hay thuật lại câu chuyện ấy cho những học viên người Mỹ trong những lớp
dạy Yoga của tôi.
Một
hôm, một bà nọ nghe chuyện ấy bèn nổi điên lên và hét lớn:
- Thánh
hay phàm gì không biết, nếu ổng là chồng tôi thì tôi sẽ cho ông ấy lỗ mũi ăn
trầu vì làm nhục tôi trước mắt thiên hạ do một chuyện không đáng!
Sau một
cuộc thảo luận lí thú với các học viên về vấn đề tính chất của phụ nữ Mỹ và phụ
nữ Ấn, tôi đã giải thích thêm:
- Bà
Gandhi coi ông ấy không phải như một người chồng mà như một vị tôn sư, tức là
như một người có quyền sửa sai bà ta theo kỉ luật tâm linh, dẫu cho vì những
điều lầm lỗi không đáng kể.
Ít lâu
sau đó, Thánh Gandhi bị giam vì bị một án tù chính trị. Bà ấy cũng tình nguyện
xin vào sống trong tù để phục dịch cho chồng. Bà đã chết trong khám đường tại
Poona năm 1944. Thánh Gandhi thường nhật vẫn bình thản, ít khi lộ vẻ vui buồn
ra ngoài mặt, thế mà khi bà ấy qua đời, ngài đã sụt sùi khóc nức nở. Về sau,
những môn sinh của ngài đề nghị xây một đài kỉ niệm công đức của bà, lời kêu
gọi ấy được đáp ứng nhiệt liệt với mười hai triệu rưỡi rupee từ khắp nơi trên
toàn quốc gởi đến. Thánh Gandhi đã quyết định sử dụng ngân khoản đó vào công
việc cứu trợ xã hội để cải tiến sinh hoạt nông thôn trong các giới phụ nữ và
nhi đồng.
Ngày
nọ, tôi hỏi Thánh Gandhi:
- Thưa
đại nhân, xin ngài cho biết quan niệm của ngài về chủ trương Ahimsa?
- Đó là
Bất Bạo Hành, tức là không làm hại bất cứ một sinh vật nào, dù bằng tư tưởng
hay hành động.
- Đó
hẳn là một lí tưởng cao đẹp! Nhưng nếu có người hỏi: Ta có nên giết một con rắn
độc chăng để tự vệ, hoặc để bảo vệ kẻ khác?
- Tôi
không thể giết một con rắn mà không vi phạm hai điều giới răng này, là: Vô Úy
và Bất Sát. Trong trường hợp đó tôi sẽ cố gắng hóa giải con rắn bằng tình
thương. Những tiết điệu rung động của tình thương từ trong lòng tôi phát ra sẽ
có thể làm cho nó lắng dịu. Không thể hạ thấp những lí tưởng tâm linh của tôi
vì lợi ích cá nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Với sự
thành thật đáng yêu của ngài, Thánh Gandhi nói thêm:
- Tuy
nhiên tôi phải thú thật rằng tôi sẽ không thể bình tĩnh tiếp tục cuộc nói
chuyện này nếu thình lình tôi bị đứng trước một con rắn hổ mang.
Màn đêm
vẫn còn dày đặc khi tôi thức dậy lúc năm giờ sáng. Đời sống thôn quê đã bắt đầu
nhộn nhịp, trước hết là tiếng động của chiếc xe bò lăn bánh trên đường lộ ngang
qua trước cổng đạo viện, kế đó là những người nông dân quẩy gánh nặng trên đỉnh
đầu họ và lầm lũi đi trong đêm tối. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi đến từ giã
Thánh Gandhi. Ngài đã thức giấc từ bốn giờ để đọc kinh cầu nguyện mỗi buổi
sáng.
- Kính
chào đại nhân, chúng tôi xin từ biệt ngài!
Tôi quỳ
xuống khấu đầu hành lễ dưới chân ngài và nói:
- Dưới
sự điều khiển trông nom của ngài, Ấn Độ sẽ được an toàn.
Nhiều
năm đã trôi qua sau cuộc gặp gỡ Thánh Gandhi tại Wardha. Trận thế chiến thứ hai
đã bùng nổ khắp nơi. Trên không, trên đất liền và trên các đại dương đều rẫy
đầy sát khí. Trong số các nhà lãnh đạo thế giới, Thánh Gandhi là người duy nhất
đã áp dụng chiến thuật “Bất Bạo Động” để chống lại sức mạnh cường bạo của vũ
khí tối tân. Để giải quyết những nỗi bất công, hà khắc của chế độ thực dân,
Thánh Gandhi đã dùng những biện pháp ôn hòa, không dùng bạo lực. Những biện
pháp này đã luôn tỏ ra vô cùng hiệu quả.
Ngài
giải thích chủ thuyết ôn hòa ấy như sau:
- Tôi
đã nhận thấy rằng sự sống vẫn tồn tại giữa những cơn tàn phá, hủy diệt. Bởi
vậy, hẳn phải có một định luật cao cả hơn định luật hủy hại trong thiên nhiên.
Chỉ có định luật ấy mới đem lại một xã hội trật tự, điều hòa và mới làm cho
cuộc đời có ý nghĩa.
Nếu đó
là định luật của đời sống, chúng tôi phải thể hiện nó trong cuộc đời hằng ngày.
Trong mọi cuộc tranh chấp, xung đột, mỗi khi chúng tôi phải đương đầu với một
địch thủ, hãy chinh phục bằng tình thương. Tôi đã nhận thấy rằng định luật tình
thương đã tác động hữu hiệu trong cuộc đời tôi bằng một cách mà định luật hủy
hại không thể hiện được.
Ở Ấn Độ
chúng tôi đã chứng nghiệm sự tác động của định luật ấy trên một quy mô vĩ đại.
Tôi không nói rằng toàn thể bốn trăm triệu dân chúng Ấn đã thấm nhiễm được chủ
thuyết Bất Bạo Hành, nhưng tôi quả quyết rằng lí tưởng ấy đã thâm nhập một cách
sâu xa hơn bất cứ một chủ thuyết nào khác trong một thời gian rất ngắn ngoài
sức tưởng tượng.
Người
ta cần phải trải qua một thời kì luyện tập công phu ráo riết mới đạt tới lí
tưởng bất bạo hành. Đó là một đời sống có kỉ luật, cùng như đời sống của một
người lính chiến. Trạng thái tâm linh đó chỉ có thể sở đắc đến mức hoàn toàn
khi nào tư tưởng, lời nói và việc làm đều được kết hợp trong một hòa điệu thích
đáng nếu chúng tôi quyết định áp dụng sự chân thật và bất bạo động (hay lòng từ
ái) như một phương châm của đời sống hằng ngày.
Thánh
Gandhi đã huấn luyện hàng nghìn môn đệ tin theo chủ thuyết bất bạo động của
ngài, những người này đã phát nguyện mười một điều giới răn khắc khổ đã nói ở
phần trên. Đến lượt những vị này đi truyền bác ái lí tưởng đó khắp nơi trong
xứ, để giáo dục quần chúng Ấn làm cho họ hiểu những giá trị tâm linh và lợi ích
vật chất của chủ thuyết bất bạo hành. Ngài đã võ trang quần chúng Ấn Độ bằng
những khí giới bất bạo động là sự bất hợp tác với chế độ thống trị, sẵn sàng
chịu đựng những sự ngược đãi, bắt bớ giam cầm, và đến cả sự chết, thay vì sử
dụng vũ khí giết người. Lịch sử đã chứng minh rằng bằng những phương pháp ôn
hòa đó, Thánh Gandhi đã đạt được nhiều thành quả chính trị cho xứ sở của ông
hơn bất cứ một nhà lãnh đạo quốc gia nào khác đã được bằng vũ khí và bạo
lực.
Chính
sách bất bạo động của Thánh Gandhi được áp dụng một cách độc đáo không những
trên sân trường chính trị mà cũng trên những địa hạt tế nhị và phức tạp của vấn
đề tôn giáo và cải tạo xã hội. Chính sách ấy đã giải quyết êm thấm nhiều vụ
xung đột gay go nan giải trường kì giữa người Ấn Giáo và người Hồi Giáo. Hàng
trăm nghìn người Hội Giáo đã coi Thánh Gandhi như nhà lãnh đạo của họ. Những
người “bất khả tiếp xúc” (Intouchables), thuộc giai cấp cùng đinh mạt hạng
trong xã hội coi ngài như đấng cứu tinh của họ. Thánh Gandhi có nói: “Nếu tôi
phải luân hồi tái sinh trở lại, tôi ước mong đầu thai làm một người cùng đinh
trong giai cấp hà tiện, bởi vì như thế tôi sẽ phụng sự họ đắc lực hơn.”
Danh
hiệu “Mahatma” mà quần chúng Ấn dùng để gọi ngài, có nghĩa là “Đại Hồn”, hay
Đại Linh Căn. Ngài được toàn thể dân chúng mến yêu và trọng vọng như một đấng từ
phụ. Thánh Gandhi hoàn toàn tin tưởng nơi bản tính tốt lành tự nhiên thiên phú
của con người. Những khuyết điểm sai lầm đương nhiên không thể tránh khỏi của
người đời không làm cho ngài mất đi lòng tin tưởng đó. Ngài viết:
- Dầu
cho kẻ bị đối phương dối gạt lừa bịp đến hai mươi lần, người Satyagraha (tín
hữu môn phái bất bạo hành) cũng sẵn lòng tín nhiệm y lần thứ hai mươi mốt, bởi
vì sự tin tưởng toàn vẹn nơi thiện tính căn bản của con người vốn là tinh hoa
then chốt của môn phái Satyagraha (phong trào bất bạo động của Thánh
Gandhi).
Ngày
nọ, có người nói với Thánh Gandhi:
- Thưa
đại nhân, ngài là một nhân vật độc đáo, phi thường. Chắc ngài không nghĩ rằng
thế gian có thể hoạt động giống như ngài?
Thánh
Gandhi đáp:
- Thật
lạ thay mà thấy rằng con người luôn luôn tự dối mình. Họ tưởng rằng họ có thể
cải tiến được cái xác phàm, nhưng không thể nào khai thác những khả năng tiềm
ẩn của linh hồn. Tôi muốn chứng tỏ rằng nếu tôi có được ít nhiều khả năng đó,
tôi cũng chỉ là một người yếu kém bất toàn như tất cả mọi người. Tuy nhiên, tôi
có đủ sự khiêm tốn để thú nhận những điều lầm lạc, sai quấy của mình để sửa đổi
lại. Tôi chỉ có một đức tin vững chắc nơi Thượng Đế, mến yêu sự thật và cố gắng
thực hiện lòng từ ái. Nhưng phải chăng tất cả mọi người đều có sẵn tiềm tàng
những đức tính đó ở tự nơi mình?
Nếu con
người có thể thực hiện những phát minh mới mẻ tân kì trong cõi giới hiện tượng,
thì họ há phải đành thú nhận sự phá sản của địa hạt tâm linh? Họ há phải là
loài súc vật trước hết, rồi sau mới là người?
Tôi
tranh đấu không ngoài mục đích đem lại hòa bình thế giới. Nếu phong trào khởi
nghĩa của Ấn Độ được thành công trên căn bản chủ thuyết bất bạo động, điều đó
sẽ tăng thêm một ý nghĩa mới cho lòng yêu tổ quốc nói chung, và nếu tôi có thể
nói với tất cả tấm lòng khiêm tốn, cho chính đời sống con người vậy.
Sau khi
Thánh Gandhi bị ám sát tại New Delhi ngày 31 tháng 1 năm 1948, Thủ tướng Nehru
tuyên bố:
- Ngài
quả thật xứng đáng là người cha của dân tộc, và một thằng điên đã giết ngài.
Hàng triệu người dân Ấn đang thương khóc ngài bởi vì ánh sáng soi đường cho họ
đã tắt. Ngọn lửa thiêng chói rạng trên mảnh đất này không phải là thứ ánh sáng
tầm thường. Nó sẽ còn chói rạng trên xứ này đến muôn đời về sau, và cả thế giới
đều sẽ nhìn thấy.
Năm
tháng trước đó, Ấn Độ đã thực hiện nền độc lập quốc gia của mình trong sự hòa
bình. Công trình của Thánh Gandhi đã được thành tựu mĩ mãn. Khi Thánh Gandhi từ
từ ngã quỵ với ba viên đạn bắn vào mình ông, một thân hình mảnh khảnh của một
ông già đã 78 tuổi, ngài chắp hai tay trong cử chỉ vái chào theo phong tục Ấn
Độ, biểu lộ sự tha thứ trầm lặng của ngài đối với thủ phạm. Luôn luôn là một
người có tinh thần nghệ sĩ độc đáo tuyệt luân vào lúc chết. Tất cả hi sinh
trong cuộc đời vị tha vô kỉ của ngài đã kết thúc bằng cái cử chỉ cuối cùng biểu
lộ tình thương đối với kẻ sát nhân cuồng tín. Nhà bác học Albert Einstein đã
viết về Thánh Gandhi như sau:
- Những
thế hệ tương lai sẽ không ngờ rằng một người như ngài có thể xuất hiện bằng
xương bằng thịt để dẫm chân đi trên mặt đất.
Bức
điện tín từ Tòa Thánh La Mã gửi đến phân ưu:
- Việc
ám sát Thánh Gandhi đã gây nên xúc động bi ai tại Tòa Thánh. Ngài được tưởng
niệm như một bậc sứ đồ nêu cao những đức hạnh của chúa Ki Tô.
Cái
chết bi thảm của Thánh Gandhi vì chính nghĩa đem lại sự hòa hợp dân tộc cho xứ
Ấn Độ đã nêu cao thông điệp nhắn nhủ của ngài cho một thế giới đang bị giày xéo
bởi sự tranh chấp xung đột trên tất cả các vùng lục địa. Ngài đã tuyên bố bản
thông điệp đó với những lời lẽ đầy ý nghĩa tiên tri:
- Lí
tưởng bất bạo động đã đến với nhân loại và nó sẽ tồn tại với thời gian. Nó là
ngọn cờ tiên phong của nền hòa bình thế giới.