Xứ phật huyền bí - Chương 10

Chương 10

Nữ Thánh Thérèse Neumann

Hãy trở
về Ấn Độ, thầy đã kiên nhẫn đợi con trong mười lăm năm nay. Không bao lâu nữa, thầy
sẽ bỏ xác phàm để về cõi Tinh Thần. Về đi, con!

Giọng
nói của sư phụ tôi vang rền trong chỗ bí ẩn thâm sâu nhất của tâm hồn tôi,
trong khi tôi đang ngồi thiền tại trụ sở đạo viện trên sườn đồi ở vùng ngoại ô
Los Angeles. Trong chớp mắt thông điệp của sư phụ đã vượt qua mười nghìn dặm
đường để đến với tôi.

Mười
lăm năm! Đó là năm 1935 và tôi đã sống đúng mười lăm năm ở Mỹ Quốc để truyền bá
giáo lí của sư phụ tôi. Bây giờ, người gọi tôi trở về.

Ngày
hôm đó, tôi thuật lại cái kinh nghiệm thuần bí của tôi cho một người đệ tử đã
đạt tới một trình độ tiến hóa tâm linh khá cao nhờ pháp môn Kriya Yoga. Người
đệ tử này và nhiều người khác nữa tình nguyện đài thọ phí tổn cuộc hành trình.
Vấn đề tài chánh đã giải quyết xong, tôi mới sắp đặt mọi việc để trở về Ấn Độ
xuyên qua Âu Châu. Tháng ba năm 1935, đạo viện Yoga của tôi, mệnh danh là “Cơ
Quan Thực Hiện Chân Ngã,” được đăng bộ như một tổ chức không thương mại và hợp
pháp hóa theo luật của tiểu bang California, có tính cách một cơ quan giáo dục
được phép thu nhận tiền đóng góp của công chúng, tiền lợi tức phát hành sách
vở, tạp chí của tôi cùng những nguồn lợi tức khác. Tôi nói với các môn đệ Yoga
của tôi:

- Tôi
sẽ trở lại. Tôi không bao giờ quên Mỹ Quốc.

Tại
buổi tiệc tiễn hành do các bạn tôi tổ chức ở Los Angeles, tôi nhìn một cách
biết ơn những gương mặt thân hữu và nghĩ thầm rằng: “Người nào tôn thờ Thượng
Đế và nhìn nhận Ngài là đấng ban rải mọi phước lành, sẽ không bao giờ thiếu sót
sự ấm áp của tình bằng hữu.”

Tôi từ
giã New York ngày 9 tháng 6 năm 1935 do chuyến tàu Europa cùng với hai người
môn đệ là bạn Richard Wright, ông này tình nguyện làm bí thơ cho tôi, và một bà
đã lớn tuổi là bà Ettie Bletch. Chuyến đi trên tàu giúp cho chúng tôi được nghỉ
ngơi sau những tuần lễ cuối cùng rất bận rộn. Nhưng thời gian nhàn rỗi của tôi
rất ngắn ngủi, tốc lực của những chiếc tàu vượt đại dương tối tân đôi khi cũng
có một khía cạnh đáng tiếc!

Chúng
tôi lên bờ ngoạn cảnh khi tàu ghé bến Luân Đôn. Ngày hôm sau, tôi được mời
thuyết pháp tại giảng đường Caxton Hall, tại đây ông Francis Younghusband giới
thiệu tôi cho thính giả Anh Quốc.

Vài
ngày sau đó, chúng tôi vượt qua eo biển Manché lên lục địa Âu Châu, vì tôi muốn
đến Bavière bên Đức để viếng thăm vị nữ thánh Gia Tô Therese Neumann tại làng
Konnersreuth. Nhiều năm về trước, tôi có đọc một tài liệu báo chí lạ lùng về vị
nữ thánh này, trong đó có những chi tiết sau:


Therese sinh năm 1898, bị thương nặng trong một vụ tai nạn vào năm lên hai mươi
tuổi, làm cho cô bị mù mắt và bại liệt.

Năm
1923, cô được lành cặp mắt một cách màu nhiệm nhờ cầu nguyện thánh nữ Teresa,
và sau đó bịnh liệt bại tứ chi của cô cũng được chữa khỏi ngay tức khắc.

Từ năm
1925 trở về sau, cô Therese hoàn toàn tịch cốc, không ăn uống gì cả, cô chỉ
nuốt một miếng bánh thánh nhỏ sau khi đã được làm phép mỗi ngày.

Năm
1926, những vết thương của đấng Ki Tô bỗng nhiên xuất hiện trên đầu, trên ngực,
bàn tay và bàn chân của cô. Mỗi ngày thứ sáu, cô trải qua những kinh nghiệm
thương khó của đấng Ki Tô, trong khi thể xác cô chịu những sự đau đớn lịch sử
của Ngài khi bị đem đi hành hình.

Bình
thường, cô Therese chỉ biết nói tiếng Đức, nhưng trong những cơn xuất thần vào
ngày thứ sáu, cô thốt ra những câu nói mà các nhà học giả nhận ra là tiếng cổ
ngữ Aramaic. Vào những lúc khác, cô nói tiếng Do Thái hay tiếng Hy Lạp.


Therese đã nhiều lần được đặt dưới sự quan sát tỉ mỉ của khoa học, với sự cho
phép của giáo hội. Bác sĩ Fritz Gerlick, chủ bút một tờ báo của giáo hội tin
lành Đức, đã đích thân đến Konnersreuth để mưu toan “lật tẩy sự lừa bịp” của
giáo hội Ki Tô, nhưng sau cùng cũng đã chịu phép và kính cẩn viết tiểu sử của
cô.

Cũng
như bao giờ, dù ở đông phương hay tây phương tôi vẫn muốn gặp một vị chân tu.
Chúng tôi đến làng Konnersreuth vào ngày 16, nhưng thấy nhà cô Therese cửa đóng
then gài: cô đã đi vắng. Do sự chỉ dẫn của người làng, sáng hôm sau chúng tôi
đến nhà giáo sư Franz Wutz, dạy khoa sinh ngữ ở trường Đại học Eichstatt, cách
đó độ 80 dặm. Giáo sư Wutz đón tiếp chúng tôi rất niềm nở và nói:

- Thưa
vâng, cô Therese có ở đây.

Nói
xong, ông cho người nhà báo tin cho cô hay có khách đến. Độ một lát, người ấy
trở lại với câu trả lời của cô: - Tuy đức Giám Mục đã dặn tôi không nên tiếp ai
mà không có sự đồng ý của ngài, nhưng tôi sẽ dành một ngoại lệ cho vị tu sĩ Ấn
Độ.

Những
lời ấy làm tôi cảm động, tôi bèn cùng với giáo sư Wautz đi lên phòng khách ở
trên lầu. Cô Therese cũng bước vào ngay khi đó. Cô mặc một áo dài đen, đầu vấn
một chiếc khăn trắng tinh, người cô toát ra một niềm an lạc khác thường. Tuy
hồi đó, cô đã ba mươi bảy tuổi, nhưng cô trông trẻ hơn nhiều, vì cô có một vẻ
tươi tắn và hồn nhiên như trẻ thơ. Thân hình đầy đặn, tròn trĩnh sức khỏe tốt,
đôi má ửng hồng, đó tức là cái phong độ của vị nữ thánh cả đời tuyệt
thực!


Therese tiếp đón tôi bằng một cái bắt tay rất nhẹ nhàng, và một nụ cười xinh
xắn. Chúng tôi đã thầm có sự giao cảm tâm linh, và hiểu nhau như những người
bạn Đạo đồng thinh tương ứng.

Giáo sư
tự nguyện làm thông dịch cho chúng tôi. Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, tôi nhận
thấy Therese cũng nhìn tôi với một sự tò mò ngây thơ: một người Ấn Độ nước da
bánh mật, tóc dài hẳn là một vật lạ ở tỉnh Bavière miền nam nước Đức!

- Cô
không bao giờ ăn uống gì chứ?

Tôi hỏi
để được nghe lời xác nhận từ miệng của cô thốt ra.

-
Không, trừ ra một miếng bánh thánh lúc sáu giờ sáng mỗi ngày.

- Miếng
bánh thánh ấy độ bao lớn?

- Nó
mỏng như giấy và nhỏ chừng bằng một đồng xu. Tôi ăn nó vì lí do tâm linh. Nếu
nó không được làm phép bí tích, tôi không thể nào nuốt trôi qua cổ họng!

- Tất
nhiên cô không thể sống bằng bấy nhiêu đó, suốt mười hai năm trường?

- Tôi
sống trong ánh sáng của Chúa.

Câu trả
lời ấy thật đơn giản làm sao!

- Tôi
nghĩ chắc cô cũng biết rằng cơ thể cô hấp thụ khí lực của Trời Đất trong không
khí và ánh sáng thiên nhiên.

Một nụ
cười hiện trên khuôn mặt, cô đáp:

- Tôi
rất sung sướng mà thấy ông hiểu tôi sống bằng cách nào.

- Đời
sống thánh thiện của cô đã chứng minh cho lời dạy của Đức Ki Tô: “Con người
không phải chỉ sống bằng cơm gạo mà thôi, mà còn bằng mỗi lời nói của Chúa
Trời.”

Một lần
nữa, cô lại vui vẻ tán thưởng lời nói của tôi:

- Thật
vậy. Một trong những lí do sự có mặt của tôi trên thế gian hiện nay, là để
chứng minh rằng con người có thể sống bằng ánh sáng của Chúa, chứ không phải
sống bằng thực vật mà thôi.

- Cô có
thể dạy cho kẻ khác biết làm thế nào để sống mà không ăn uống được không?


Thérèse có vẻ hơi lúng túng:

- Tôi
không thể làm điều ấy, vì Chúa không muốn như vậy.

Thấy
tôi nhìn hai bàn tay chắc nịch và yểu điệu của cô, cô Therese chỉ cho tôi thấy
một vết thương vuông vức, mới lành da, trên lưng mỗi bàn tay. Trong lòng mỗi
bàn tay, cô chỉ cho thấy một vết thương nhỏ hơn hình lưỡi liềm, cũng vừa mới
lành. Các vết thương đều đâm thủng cả hai bàn tay, tôi mới nhớ rõ những cây
đinh lớn, vương bốn cạnh bằng sắt, đầu lưỡi liềm vẫn còn thông dụng ngày nay ở
các xứ Cận Đông.

Vị
thánh nữ nói cho tôi nghe vài điều về những cơn xuất thần hàng tuần của
cô:

- Tôi
đã chứng kiến tận mắt sự Thương Khó toàn diện của đấng Ki-Tô.

Mỗi
tuần từ nửa đêm thứ năm đến một giờ trưa ngày thứ sáu, những vết thương của cô
lại nứt ra và rỉ máu, cô sụt mất độ năm kí trong số 60 kí lúc bình thường. Tuy
rất đau đớn, trong cơn xuất thần, nhưng cô Therese lại vui sướng chờ mong đến
những ngày đó để có dịp chiêm ngưỡng đấng Cứu Thế.

Tôi
hiểu ngay rằng cuộc đời kì lạ của cô là dụng ý của Thiêng Liêng để nhắc nhở tất
cả mọi tín đồ Cơ Đốc giáo sự thật lịch sử của cuộc đời đấng Ki Tô và lúc đóng
đinh trên Thập Tự giá như được ghi chép trong Kinh Thánh, và để trình bày một
cách linh hoạt mối tương quan trường cửu giữa Ngài và các tín đồ.

Giáo sư
Wutz có thuật lại cho tôi nghe vài kinh nghiệm của ông về vị nữ thánh:

- Một
nhóm nhỏ gồm có chúng tôi và Therese thường đi du ngoạn suốt nhiều ngày vòng
quanh nước Đức. Thật là một sự tương phản rõ rệt: Therese không ăn uống gì cả,
còn chúng tôi ăn ba bữa mỗi ngày. Cô vẫn tươi tỉnh như thường, không hề biết
mệt nhọc. Mỗi khi nhìn thấy chúng tôi đói và đi tìm thức ăn ở các quán bên
đường. Therese còn cười lớn rất giòn giã, hồn nhiên.

Giáo sư
cho biết vài chi tiết lí thú về Therese:

- Vì cô
không ăn uống, nên bao tử cô đã teo lại. Cơ thể cô không bài tiết nữa: các
đường đại tiểu tiện đều ngưng, nhưng các hạch tiết mồ hôi vẫn còn hoạt động, da
thịt cô vẫn luôn luôn chắc nịch và mềm mại.

Vào lúc
từ biệt, tôi tỏ ý muốn chứng kiến một buổi xuất thần của cô. Therese nhã nhặn
đáp:

- Vâng,
mời đại đức hãy đến Konnersreuth vào ngày thứ sáu tới đây. Đức Giám Mục sẽ cấp
cho ông một giấy phép. Tôi rất sung sướng được gặp đại đức hôm nay.

Therese
bắt tay tôi rất nhẹ nhàng và đưa chúng tôi ra đến cổng. Ngày hôm sau, trong một
cuộc nói chuyện với hai người em trai của Therese, chúng tôi được biết rằng vị
nữ thánh chỉ ngủ có một hoặc hai giờ mỗi đêm. Tuy mang nhiều vết thương trên
thân mình, cô vẫn rất hoạt động và sinh lực dồi dào. Cô thích chơi chim, nuôi
bồn cá vàng để làm kiểng, và thường ra làm việc ngoài vườn. Cô nhận được rất
nhiều thơ từ do các tín đồ Ki Tô giáo gửi đến nhờ cô cầu nguyện giúp và ban ân
huệ để chữa bệnh. Nhiều người đã nhờ cô mà đã được chữa khỏi những chứng bệnh
hiểm nghèo.

Cậu
Ferdinand em trai cô, độ 23 tuổi, cho biết rằng bằng sự cầu nguyện, cô Therese
có quyền năng hứng chịu trên thân thể cô, những bệnh tật của kẻ khác. Sự tuyệt
thực của vị thánh nữ này bắt đầu kể từ ngày mà cô cầu nguyện cho chứng bệnh yết
hầu của một người thanh niên trong giáo khu của cô, lúc ấy đang chuẩn bị bước
vào dòng tu kín, được truyền sang cuống họng của cô.

Vào
trưa ngày thứ năm, chúng tôi lái xe đến nhà vị giám mục. Ông ta nhìn những lọn
tóc dài xõa xuống vai của tôi một các ngạc nhiên. Ông ta sẵn lòng cấp giấy phép
cho chúng tôi. Chúng tôi không phải đóng tiền lệ phí, luật ngăn cấm của giáo
hội chỉ là để bảo vệ vị thánh nữ khỏi bị sự quấy rầy của du khách qua đường, họ
đã lũ lượt kéo đến hàng nghìn người trong những năm vừa qua vào những ngày thứ
sáu.

Chúng
tôi đến nơi vào lúc chín giờ rưỡi sáng thứ sáu. Tôi nhận thấy nhà cô Therese có
một khoảnh lợp kiếng trên trần, làm cho trong nhà có đầy ánh sáng. Cửa nhà cô
mở rộng để đón khách thập phương đến viếng. Chúng tôi nối đuôi theo sau một
hàng độ chừng hai mươi người, tất cả đều có giấy phép. Nhiều người trong số đó
đến từ những nơi rất xa xôi để chiêm ngưỡng cơn xuất thần của vị nữ
thánh.

Therese
đã vượt qua sự thử thách đầu tiên của tôi tại nhà của giáo sư Wutz khi cô linh
cảm được rằng tôi muốn đến gặp cô vì những lí do tâm linh, chứ không phải để
thỏa mãn óc tò mò.

Cuộc
trắc nghiệm thứ nhì của tôi là ngay khi sắp bước lên lầu để vào phòng cô, tôi
tự đặt mình trong một trạng thái nhập định để đạt tới sự giao cảm tâm linh trực
tiếp với cô. Tôi bước vào phòng, lúc ấy đầy những khách hành hương, còn cô thì
mặc áo dài trắng nằm trên giường. Với bạn Richard đứng ngay sau lưng tôi, tôi
liền dừng chân trên ngưỡng cửa, kinh ngạc mà nhìn thấy một cảnh tưởng vô cùng kì
dị và rùng rợn.

Một
dòng máu rỉ xuống liên tục từ hai mí mắt dưới của Therese, mắt cô nhìn lên tập
trung vào bí huyệt ở giữa trán. Cái khăn ướt trên đầu cô đẫm máu ướt sũng chảy
ra từng những vết thương do cái Mão Gai Nhọn đặt lên đầu Chúa Ki Tô năm xưa.
Cái áo dài trắng bị đẫm máu ở trên chỗ quả tim do vết thương đâm qua bên hông
khi đấng Ki Tô bị ngọn giáo của người lính đao phủ hành quyết.

Gương
mặt của cô Therese biểu lộ những nét vừa đau đớn, vừa thiêng liêng. Cô có vẻ
gầy ốm hơn lúc thường và có nhiều nét thay đổi một cách tế nhị trên cả hai
phương diện nội tâm và sắc diện bên ngoài. Thỉnh thoảng, cô thì thầm thốt lên
những tiếng ngoại ngữ lạ lùng dường như để nói chuyện với những người khuất mặt
trong cõi vô hình.

Vì tôi
đã điều chỉnh tần số nhịp điệu rung động của tôi để có sự Giao Cảm Tâm Linh
Truyền Thanh và Truyền Hình với Nữ Thánh, nên tôi bắt đầu nhìn thấy những cảnh
tượng diễn ra trong cơn linh ảnh của cô. Cô đang chiêm ngưỡng đức Giê-Su khi
Ngài mang trên vai cây Thập Tự Giá bằng gỗ đi giữa đám đông la hét, nguyền rủa
và phỉ báng Ngài. (Trong những giờ trước
khi tôi đến, Therese đã thấy nhiều linh ảnh và những ngày cuối cùng của Chúa Ki
Tô. Cơn xuất thần của cô thường bắt đầu với những linh ảnh về những sự việc
diễn biến ngay sau Buổi Ăn Cuối Cùng (Le dernier Souper) và chấm dứt cuộc Pháp
Nạn của Chúa Giê-Su trên Thập Tự Giá, hoặc đôi khi với cuộc hạ huyệt thánh
thể.)

Thình
lình, cô ngẩng đầu lên trong cơn kinh hoàng tột độ: đức Chúa vừa ngã quỵ dưới
sự nặng tàn khốc của cây giá gỗ! Khi linh ảnh đã qua, bị kiệt sức vì cơn xúc
động quá mạnh. Therese lại rơi mình xuống gối một cách nặng nề.

Ngay
lúc đó tôi nghe một tiếng động lớn sau lưng tôi. Tôi quay đầu nhìn lại, thì
thấy hai người đang khiêng ra ngoài một cái xác người ngã quỵ. Nhưng vì lúc đó
tôi vừa mới thoát ra ngoài trạng thái siêu thức thâm trầm, nên tôi không nhìn
ra ngay người bị té ngã. Tôi lại tập trung nhãn lực vào gương mặt của Therese,
đã tái mét như xác chết vì máu ra quá nhiều, nhưng bây giờ thì đã hoàn toàn yên
lặng, và toát ra hào quang khiết bạch và thánh thiện. Sau đó, tôi quay lại nhìn
ra sau lưng thì thấy bạn Richard đang đứng đó với một bàn tay áp vào bên má
đang rỉ máu.

-
Rick,- tôi hỏi một cách băn khoăn-, anh vừa mới té ngã phải không?

- Vâng,
tôi bị ngất xỉu về quá xúc động.

Tôi nói
để an ủi y:

- Dầu
sao, anh đã có can đảm trở lại để chiêm ngưỡng Therese lần nữa.

Nhớ đến
những khách hành hương còn kiên nhẫn nối đuôi nhau đứng đợi phía ngoài, chúng
tôi âm thầm từ giã Therese và bước ra khỏi phòng.

Ngày
hôm sau, nhóm chúng tôi lên xe và bắt đầu đi du lịch vòng quanh các nước Đức,
Hòa Lan, Pháp, Thụy Sĩ, rồi sang Ý và Hy Lạp. Kế đó chúng tôi xuống tàu sang
Palestine để viếng Thánh địa. Đối với người nhạy cảm, tinh thần của Chúa Ki Tô,
vẫn còn tràn ngập xứ Palestine. Tôi kính cẩn chiêm ngưỡng hình ảnh của Ngài khi
tôi đi qua những nơi cổ tích Bethlehem,Gethsemane, Calvary, núi Ô Liu, bờ sông
Jordan và biển Galilée.

Chúng
tôi đã đến viếng Máng Cỏ, nơi lâm phàm của Ngài, xưởng thợ mộc của Joseph, ngôi
mộ của Thánh Lazare, ngôi nhà của Marthe và Marie, và phòng ăn của Bữa Ăn Cuối
Cùng. Những nơi cổ tích ấy đã gợi lại trong trí tôi những lớp lang của tấn
tuồng bi kịch lịch sử thiêng liêng mà Chúa Ki Tô đã có lần diễn xuất linh động
của hậu thế. Từ Thánh địa, chúng tôi đi sang Ai Cập viếng thủ đô Cairo và các
Kim Tự Tháp cổ kính. Kế đó chúng tôi xuống tàu từ hải cảng Suez đi dọc theo
biển Hồng Hải, ra biển Ả Rập và trở về Ấn Độ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3