Xứ phật huyền bí - Chương 05
Chương 5
Một Chuyện Hồi Sinh
Buổi
sáng đẹp trời, Sri Yukteswar bình luận Thánh kinh Gia Tô tại đạo viện ở
Serampore. Ngoài ra vài đệ tử khác, tôi cũng có mặt với một nhóm thiếu sinh của
tôi ở trường học Ranchi.
Sư phụ
bình luận đến đoạn phục sinh nhiệm màu của thánh Lazare. Xong rồi, người xếp
quyển thánh kinh đặt trên đầu gối và đắm chìm trong im lặng. Một lúc sau, sư phụ
nói một cách trịnh trọng:
- Thầy
cũng đã từng chứng kiến một phép màu tương tự, đức Lahiri Mahasaya đã làm cho
một người bạn của thầy sau khi đã chết rồi, được hồi sinh trở lại.
Sự tò
mò hiện trong đôi mắt của những thiếu sinh đứng chung quanh tôi. Phần tôi, tôi
luôn luôn thích thú được nghe những câu chuyện kinh nghiệm của Sri Yukteswar về
đức tôn sư của người. Sư phụ bắt đầu nói:
- Rama
với thầy là hai người bạn thân thiết không hề rời nhau. Nhút nhát và thích sống
cô đơn, y chỉ đến tịnh thất của sư phụ vào lúc sáng sớm, là những giờ ít có
những đệ tử ở gần bên. Vì thầy là người bạn thân nhất, nên Rama thường tâm sự
cho thầy biết những tiến bộ tâm linh của mình và nhờ đó thầy cũng hưởng thụ
được nhiều sự ích lợi.
Gương
mặt của Sri Yukteswar dịu hẳn lại vì kỉ niệm đó.
- Thình
lình, Rama bị một cơn thử thách rất nặng. Y mắc bệnh thời khí Á Châu. Vì sư phụ
thầy không bao giờ quên kêu gọi đến các bác sĩ trong mọi trường hợp trọng bệnh,
nên hai vị y sĩ chuyên khoa được mời đến một cách khẩn cấp. trong khi hai vị đang
săn sóc người bệnh, thầy hết lòng cầu nguyện Thượng Đế để cho sư phụ ra tay cứu
giúp. Thầy bèn hối hả đến gặp sư phụ và vừa khóc vừa thuật chuyện lại. Sư phụ
nói với một nụ cười khích lệ: “Các vị y sĩ đang lo chữa cho Rama. Nó sẽ hết bệnh”.
Thầy
vui mừng trở về giường bệnh của Rama, lúc ấy đang nằm trong cơn bất tỉnh! Một
trong hai vị y sĩ nói với thầy, với một cử chỉ thất vọng: “Y chỉ còn sống chừng
vài giờ nữa thôi.”
Thầy
lại chạy đến gặp sư phụ. Người vẫn vui vẻ nói: “Các y sĩ đều là những người có
lương tâm. Thầy chắc là Rama sẽ bình phục.”
Thầy
lại trở về chỗ cũ, thì các vị y sĩ không còn trực bên giường bịnh nữa, một vị để
lại cho thầy ít chữ: “Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình, nhưng trường hợp này
đã tuyệt vọng!”
Rama
dường như đã sắp trút hơi thở cuối cùng. Thầy không hề nghi ngờ lời nói của sư phụ,
tuy vậy nhìn thấy bịnh trạng của Rama mỗi lúc càng suy sụp dần, thầy đã nghĩ
rằng: “Thôi, thế là hết!” Thầy ráng săn sóc y với hết sức mình. Bỗng y mở mắt
kêu lên:
-
Yukteswar, anh hãy chạy mau cho sư phụ hay rằng tôi sắp chết. Yêu cầu người ban
ân huệ cho thể xác tôi trước khi làm lễ hỏa táng.
Nói vừa
dứt lời, Rama thở dài một tiếng và trút linh hồn.
Thầy
khóc trọn một giờ trên xác chết của Rama. Luôn luôn ôn hòa yên tịnh lúc sinh
thời, y đã đạt tới sự yên tĩnh hoàn toàn trong lúc chết. Một đệ tử vừa bước
vào, thầy yêu cầu y hãy trực tại đó cho đến khi thầy trở về. Hoàn toàn thất
vọng, thầy đi đến tịnh thất của sư phụ. Sư phụ vừa mỉm cười vừa hỏi:
- Rama
mạnh giỏi thế nào?
Thầy
đáp một cách run rẩy:
- Bạch sư
phụ, Sư Phụ sẽ thấy y trong giây lát! Trong vài giờ nữa, sư phụ sẽ có thể chiêm
ngưỡng xác chết của y trước khi đem đi hỏa táng ở nghĩa địa!
Nói đến
đó, thầy ngưng bặt và khóc sướt mướt. Sư phụ nói:
- Con
hãy bình tĩnh, Yukteswar. Hãy ngồi xuống để tham thiền.
Sư phụ
liền đắm chìm trong cơn đại định. Trong buổi tối và đêm hôm đó diễn ra trong sự
im lặng hoàn toàn, thầy cố gắng lấy sự bình tĩnh những vô hiệu quả. Đến sáng, sư
phụ nhìn thầy, an ủi:
- Ta
thấy con hãy còn xúc động. Tại sao hôm qua con không nói rõ là con ước mong
thầy cứu giúp cho Râma một cách cụ thể, dưới hình thức một phương thuốc nào đó
chẳng hạn?
Sư phụ
bèn chỉ một cái đèn dầu phộng, tim bấc để nằm trong một cái bình đựng dầu hình
giống như cái chén.
- Con
hãy rót dầu từ trong bình đó ra một cái lọ, rồi con hãy rót đúng bảy giọt vào
trong miệng của Rama.
Thầy
phản đối:
- Bạch sư
phụ, y đã chết từ trưa ngày hôm qua, dầu này nay còn dùng để làm gì?
- Không
sao! Con hãy làm như lời thầy dặn!
Sự vui
vẻ của sư phụ thật không hiểu nổi. Thầy lấy làm buồn bực vô cùng, tuy vậy thầy
cũng lấy một ít dầu và trở về nhà của Rama.
Thầy
thấy thân mình y đã cứng đơ trong trạng thái của xác chết. Tuy vậy, thầy cũng
lấy một ngón tay cậy miệng y và nhỏ dầu vào giữa hai hàm răng cắn chặt của
y.
Khi đã
nhỏ đủ bảy giọt dầu vào miệng y. Rama cử động mạnh. Những bắp thịt của y run
lên từ đầu đến chân, y liền ngồi nhỏm dậy và nói:
- Tôi
thấy sư phụ mình bao bọc hào quang sáng rỡ như mặt trời, chung quanh có những
tia chớp. Người ra lệnh cho tôi: “Con hãy ngồi dậy và hãy quên đi giấc ngủ của
con. Hãy cùng với Yukteswar đến đây với thầy!”
Thầy
còn chưa tin những gì đang diễn ra trước mắt, thì Rama đã ngồi dậy và tỏ ra có
đủ sức để cùng đi với thầy đến nhà sư phụ. Đi đến nơi, y cúi lạy dưới chân sư phụ
và vừa khóc vừa tạ ơn.
Sư phụ
không còn cảm thấy cái vui nào hơn. Đôi mắt người long lanh sáng nhìn thầy với
một cái nhìn có ý nghĩa. Người nói:
-
Yukteswat, thầy chắc rằng từ nay con sẽ không bao giờ rời khỏi chai dầu phộng!
Khi con vừa thấy một xác chết, con chỉ cần đổ bảy giọt dầu là có thể đẩy lui
được Thần Chết!
- Bạch sư
phụ, Sư phụ chế giễu con và con chưa hiểu tại sao, xin sư phụ giải thích rõ về
sự lầm lạc của con.
Đức
Lahiri Mahasaya bèn giải thích:
- Thầy
đã nói lập lại hai lần rằng Rama sẽ khỏi bịnh, nhưng con vẫn chưa hoàn toàn tin
lời thầy. Thầy không hề nói rằng các y sĩ sẽ cứu y khỏi chết, mà chỉ nói rằng
họ đang săn sóc y. Giữa hai điều đó, không hề có một sự liên hệ về nhân quả.
Thầy không muốn can thiệp vào việc làm của các y sĩ, họ cũng cần phải
sống!
Sư phụ
vui vẻ nói tiếp:
- Con
hãy biết rằng Chân Như Đại Ngã (Paramatman) có thể chữa khỏi bất cứ người bịnh
nào, dù rằng có hay không có thầy thuốc ở gần bên.
Thầy
thú nhận một cách bẽn lẽn:
- Bạch sư
phụ, con đã thấy lỗi của con. Kể từ nay con biết rằng lời nói của sư phụ cũng
đủ làm đảo lộn cả vũ trụ!
Khi Sri
Yukteswar vừa kể xong câu chuyện bi kịch lạ lùng ấy, một trong những thiếu sinh
của tôi đưa ra một câu hỏi thật ngây thơ:
- Bạch tôn
sư, tại sao đức sư tổ lại cho uống dầu phộng?
- Con
hỡi, chất dầu phộng không có quan hệ gì cả, vì ta trông mong ở sư phụ một hành
động cụ thể nào đó, nên người lấy bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, như một
tượng trưng để khêu gợi nơi ta một đức tin mãnh liệt. Sư phụ để cho Rama chết
bởi vì ta đã có sự nghi ngờ. Nhưng sư phụ biết rằng, khi người đã tuyên bố rằng
Rama sẽ khỏi bịnh, thì việc đó phải xảy ra đúng y như vậy, dẫu rằng phải làm
cho Rama hồi sinh sau khi đã chết, vì bịnh thời khí này thường làm chết
người!
Sri
Yukteswar cho nhóm thiếu sinh đi về, người bảo tôi ngồi trên nệm gần bên, và
nói với một giọng nghiêm trọng khác thường:
-
Yogananda con hỡi, từ thuở lọt lòng mẹ, con đã luôn luôn sống với những vị đệ
tử của đức Lahiri Mahasaya ở chung quanh con. Sư phụ ta đã sống cuộc đời siêu
việt của người trong sự ẩn dật, và nhiệt liệt từ chối không cho phép các đệ tử
thành lập một cơ quan tinh thần nào căn cứ trên những giáo lí của người. Tuy
nhiên, người đã đưa ra một lời tiên tri có ý nghĩa:
“Vào
khoảng năm chục năm sau khi thầy từ trần, cuộc đời thầy sẽ được ghi chép lại vì
pháp môn Yoga sẽ gây nên một sự thích thú sâu xa ở phương tây. Tiểu sử thầy sẽ
là một thông điệp Yoga lưu truyền đi khắp thế giới để giúp cho việc thiết lập
một nền thân hữu đại đồng trong nhân loại”.
Sri
Yukteswar nói:
-
Yogananda con hỡi, con phải thực hiện việc lưu truyền bức thông điệp đó bằng
cách viết tiểu sử của sư phụ ta.
Lahiri
Mahâsaya từ trần năm 1895 và quyển sách này được viết xong vào năm 1945. Tôi
phải lưu ý đến sự kiện này là năm 1945, lại trùng hợp với năm mở màn cho một kỉ
nguyên mới, đó là kỉ nguyên của nguyên tử lực. Hơn bất cứ lúc nào hết, vấn đề
hòa bình và tình thương trong nhân loại lại được nêu ra, vì nếu không có hai
điều này thì việc lạm dụng nguyên tử lực sẽ tiêu diệt nhân loại trên mặt quả
địa cầu, với tất cả những vấn đề khó khăn của họ.
Lòng
bác ái, tương trợ lẫn nhau, tức là những phương thuốc để hàn gắn những vết
thương của nhân loại, không thể nẩy sinh ra từ những sự tranh luận lí trí giữa
người đời, mà do sự ý thức được tính đồng nhất giữ mọi loài vạn vật, vì là cùng
xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất tức là Thượng Đế. Mong rằng pháp môn Yoga,
được phổ biến rộng rãi trên thế gian không phân biệt chủng tộc và tín ngưỡng,
sẽ là cái khí cụ để thể hiện lí tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại.
Ít có
sử gia nào đã vạch rõ sự kiện này, là sự tồn tại của nền văn minh Ấn Độ như một
quốc gia cổ nhất thế giới, không phải là một việc ngẫu nhiên tình cờ, mà là cái
hậu quả hợp lí của lòng sùng thượng của dân tộc Ấn đối với những chân lí trường
cửu muôn đời. Những chân lí này, nền văn minh cổ Ấn Độ đã từng nêu cao và làm
sáng tỏ trải qua các thời đại do bởi các bậc thánh nhân hiền triết. Chính điều
ấy đã làm cho nền văn minh Ấn Độ có thể thách thức thời gian, trong khi thời
gian đã tiêu diệt các nền văn minh khác.
Trong
Thánh kinh Bible có thuật chuyện Abraham cầu nguyện đấng Thiêng Liêng che chở
cho dân tộc Sodome, và được câu trả lời của đấng Vô Cùng: “Dân tộc ấy sẽ không
bị tiêu diệt, nhờ bởi mười bị hiền giả của họ.” Câu chuyện này gieo một tia ánh
sáng mới để giúp cho ta hiểu lí do vì sao xứ Ấn Độ đã thoát khỏi cái số phận
của Babylon, Ai Cập và những nước lớn khác của đấng Thiêng Liêng chỉ rõ ràng
một dân tộc được tồn tại không phải nhờ sự tiến bộ vật chất, mà là nhờ bởi sống
thuận theo đạo lí.
Mong
sao nhân loại ngày nay có thể nghe lời cảnh cáo thiêng liêng đó, trong một thế kỉ
đã từng trải qua hai cuộc Thế Chiến đẫm máu. Một quốc gia nào không đếm được ít
nhất là mười người hiền đức chắc chắn là sẽ đi vào con đường diệt vong. Xứ Ấn
Độ được che chở là nhờ bởi những bậc thánh nhân hiền triết của nó. Từ thế kỉ
này sang thế kỉ khác, những bậc sứ giả của Thiêng Liêng đã từng thánh hóa xứ Ấn
Độ. Những bậc hiền giả hiện kim như Lahiri Mahâsaya và vịđệ tử người là Sri
Yukteswar đã xuất hiện để tuyên bố rằng pháp môn Yoga là cần thiết cho nền hạnh
phúc và sự sinh tồn của một quốc gia, một dân tộc, hơn cả những thành quả tiến
bộ vật chất, kĩ thuật.
Cho đến
nay, chỉ có rất ít tài liệu được công bố về đời sống của đức Lahiri Mahssaya và
giáo lí của người. Trong khoảng ba mươi năm, tôi đã gặp ở Ấn Độ, Mỹ quốc và Âu
Châu một sự thích thú nồng nhiệt về pháp môn Yoga qua sự diễn đạt và phổ biến
của tôn sư. Do đó, ngày nay người ta cảm thấy cần công bố một bản tiểu sử của
đức tôn sư ở bên các nước tây phương, là nơi người ta chỉ biết rất ít về đời
sống của các nhà đạo sĩ Yogi hiện đại.
Lahiri
Mahasaya sinh ngày 30 tháng 9 năm 1828 tại làng Ghurni, quận Nadia, gần
Krishnagar, tỉnh Bengale, Ấn Độ. Sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn đạo
hạnh, ông là con út của bà Muktakashi, vợ kế Gaua Mohan Lahiri. Bà mẹ từ trần
từ ngày ông còn thơ ấu.
Người
thiếu niên tên gọi Shyama Charan Lahiri trải qua thời kì thơ ấu tại nhà cha mẹ
tại quận Nadia. Hồi mới lên ba bốn tuổi, Lahiri đã biết ngồi thiền theo tư thế
Yoga.
Tài sản
của gia đình Lahiri bị tàn phá vào mùa đông năm 1833, khi con sông Jalangi ở
gần nhà thình lình đổi dòng nước và đổ vào sông Hằng. Một ngôi đền thờ thần
Shiva do gia đình Lahiri dựng lên cùng với ngôi nhà đều bị dòng nước cuốn đi
mất.
Tôn ông
Gaur Mohan Lahiri và gia đình bèn rời khỏi Nadia và định cư tại Bénarès, tại
đây ông mới xây dựng một ngôi đền Shiva khác. Tôn ông điều khiển gia đình theo
giới luận Phệ Đà, gồm có những nghi thức lễ bái, thực hành hạnh bố thí, và học
thánh kinh. Tâm hồn ngay chính và khoáng đạt, Tôn ông vẫn không xa cách trào
lưu tư tưởng cận đại.
Thuở
nhỏ Lahiri theo học các môn Phạn ngữ và sinh ngữ, thánh kinh Phệ Đà, và từng
tham dự một cách say mê những cuộc thảo luận triết lí giữa các nhà bác học Bà
La Môn.
Lahiri
là một thanh niên tốt bụng, dễ thương và được các bạn hữu mến chuộng. Thân hình
cân đối và khỏe mạnh, chàng rất giỏi về môn bơi lội và các môn thể dục
khác.
Năm
1846, chàng Lahiri cưới Kashi Moni, con gái của một vị nhân sĩ khả kính trong
vùng. Là một hiền phụ gương mẫu, Kashi Moni đảm trách mọi việc nội trợ một cách
hoàn hảo theo truyền thống cổ Ấn Độ. Trong vài năm sau, gia đình Lahiri sinh
được hai người con trai, là Tincuri và Ducuri.
Năm
1851, vào năm 23 tuổi, Lahiri Mahasaya làm kế toán viên sở quản trị hành chính
trong quân đội Anh và đã được thăng chức nhiều lần trong thời gian phục vụ. Như
thế, Người không phải chỉ là một vị tôn sư có sứ mạng Thiêng Liêng mà còn làm
tròn những bổn phận thế gian trong đời sống hằng ngày mà người có một vai trò
phải đóng góp.
Khi các
công sở được chỉnh đốn lại, Lahiri Mahasaya được thuyên chuyển lần lượt đến
nhiều thị trấn khác nhau. Khi lệnh tôn qua đời, Lahiri phải hoàn toàn đảm lấy
trách nhiệm coi sóc gia đình, lúc ấy đang cư ngụ tại một khu vực yên tĩnh gần
Bénarès.
Chính
vào năm 33 tuổi là lúc mà Lahiri Mahasaya mới biết rõ cái định mệnh nó dắt dẫn
người đầu thai chuyển kiếp xuống thế gian. Ngọn lửa tàn âm ỉ dưới lớp tro thình
lình bốc cháy phừng lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ sáng chói. Một định luật
thiêng liêng, ẩn giấu đối với mắt phàm của người đời, hành động một cách bí mật
để biểu lệ mọi sự mọi việc vào đúng lúc, khi ngày giờ đã điểm. Lahiri đã gặp gỡ
sư phụ của người, đức Bajia, ở gần Ranikhet trên dãy Tuyết Sơn, và được thụ
giáo pháp môn Kriya Yoga...