Xứ phật huyền bí - Chương 01

Lời Mở Đầu

Quyển
Hồi Kí này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những
tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ, không phải được viết ra
bởi một kí giả hay văn sĩ ngoại quốc, mà bởi một tác giả nòi giống và cùng một
nền giáo dục tâm linh với những người mà ông diễn tả. Nói tóm lại, đây là một
quyển sách của một người Yogi viết về những người Yogi.

Dưới
hình thức một truyện trường thuật của một nhân vật tiết lộ cho chúng ta biết
cuộc đời và những quyền năng lạ lùng của những bậc hiền giả của xứ Ấn. Quyển
sách này có một tầm quan trọng rất lớn trong thời gian và ngoài không gian...

Chương 1

Phương Pháp Môn Kriyâ Yoga

Pháp
môn Kriyâ Yoga, thường được đề cập đến trong quyển sách này, đã từng được phổ
biến rộng rãi ở xứ Ấn Độ nhờ bởi đức Lahiri Mahasaya, vị tôn sư của thầy tôi.
Danh từ Kriyâ do Phạm Ngữ Kri, có nghĩa là hành động, và cùng một gốc rễ với
danh từ Karma, nguyên lí tự nhiên về nhân quả. Kriyâ Yoga có nghĩa là “Hợp nhất
với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động.” Người Yogi
thực hành đúng đắn pháp môn này sẽ lần lần tự giải thoát khỏi sự trói buộc của
nghiệp quả.

Theo
một nguyên tắc cổ xưa có tự nghìn đời về trước, tôi không thể tiết lộ trọn cả
pháp môn Kriyâ Yoga trong một quyển sách dành cho đại chúng. Chỉ có người đạo
sĩ Kriyâ Yogi mới có thẩm quyền truyền dạy pháp môn này, mà tôi sẽ trình bày
dưới những nét đại cương.

Pháp
môn Kriyâ Yoga là một phương pháp giản dị về cả hai mặt tâm linh và thể chất,
giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm
dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng
sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ phận kinh tủy não. (Bác sĩ George W. Crile, nhà Bác học Mỹ nổi tiếng, năm 1940 có trình
bày trong một phiên họp của Hội Phát Triển Khoa Học Mỹ, những cuộc thí nghiệm
đã giúp cho ông chứng minh rằng tất cả những tế bào trong cơ thể con người đều
chứa âm điện, trừ ra những tế bào của óc và thần kinh hệ chứa dương điện bởi vì
những tế bào này tiêu thụ chất dưỡng khí mau lẹ hơn.)

[Chúc
bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Người
Yogi có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn
chặn sự tích tụ của máu đen, những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các
tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Elie, Jesus, Kabir và các nhà tiên
tri khác đều biết rõ pháp môn Kriyâ hay một pháp môn tương tự có thể giúp các
ngài biến thể hay tàng hình tùy theo ý muốn.

Kriya
Yoga là một pháp môn rất cổ, mà Lahiri Mahasaya đã thụ giáo của tôn sư Babaji,
vị này đã phát hiện và chấn chỉnh lại pháp môn ấy sau nhiều thế kỉ bị đắm chìm
trong quên lãng. Babaji đã nói với Lahiri Mahaysaya.

- Pháp
môn Kriya Yoga mà thầy dùng con làm trung gian để truyền bá cho đời vào giữa
thế kỉ mười chín này, chính là cái pháp môn mà cách đây nhiều ngàn năm, đức
Krishna đã truyền dạy cho Arjuna. Đạo sư Pantanjali, đấng Christ, thánh Jean,
thánh Paul và những vị thánh tông đồ khác cũng đã từng biết rõ pháp môn ấy.
Krishna, đấng tiên tri lớn nhất Ấn Độ, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong
một câu thánh kinh Bhhagavad Gita: “Những người khác vận chuyển luồng sinh khí
bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công Pranâyama.”

Câu ấy
có nghĩa là: “Người Yogi ngăn chặn sự già nua của thể xác bằng cách tiếp thêm
luồng sinh khí, và ngăn sự trưởng thành bằng phương tiện bài tiết. Bằng cách
hóa giải sự già nua và trưởng thành của thể xác, và điều hòa nhịp độ của quả
tim, người Yogi nắm vững cái bí quyết của vấn đề sanh tử.”

Krishna
cũng nói rằng trong một tiền kiếp, ngài đã truyền dạy pháp môn Yoga bất tử này
cho Vivasvat, bậc giác ngộ của thời đại cổ, việc này truyền lại cho đức Manu,
nhà sáng lập nên luật pháp Ấn Độ. Đức Manu truyền lại cho Ixvâku, nhà sáng lập
nên triều đại vương tướng của Ấn Độ. Được truyền khẩu từ thể kỉ này qua thế kỉ
khác, pháp môn Yoga này được các đấng Chân Sư gìn giữ trải qua thời gian cho
đến kỉ nguyên duy vật. Nhưng vì các vị tăng lữ thời xưa bao trùm nó trong một
bức màn bí mật và cũng do bởi sự thản nhiên của người đời, nên rốt cuộc khoa
pháp môn thiêng liêng này đã lần lần biến mất.

Đạo sư
Pâtanjali viết như sau: “Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: Kỉ luật của xác thân, kiểm
soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM.” Pâtanjali cho rằng Thượng Đế,
tức là sự rung động trong vũ trụ của tháng ngữ AUM mà người hành giả nghe được
trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ.
Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh
ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự
khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi
thiêng liêng.

Trong
trạng thái tiếp xúc sơ khởi với Thiêng Liêng như vừa kể trên (Savikalpa
Samâdkhi), tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn
sinh lực thoát ra khỏi xác thân y, làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ,
bất động. Người Yogi hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi
y đạt tới trạng thái cao siêu hơn (Nirvikalpa samâdlhi), tâm thức của y hòa hợp
với Thiêng Liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy
ra chung quanh mình.

Sri
Yukteswar giảng giải cho các đệ tử như sau:

- Pháp
môn Kriyâ Yôga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời
cổ xưa, các nhà đạo sĩ Yogi đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ
được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở, đó là sự góp phần bất hủ và
độc đáo của Ấn Độ vào cái kho tàng kiến thức của nhân loại. Nguồn sinh lực của
con người, lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được
gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hiện
hành pháp Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở.

Người
Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí
huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống
họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông), rồi đi ngược trở lên, để khép một
vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Đạo, tượng trưng vũ trụ trong con
người (Tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh
xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ
bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường.

Một lần
phép công phu Kriyâ thực hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một sự
tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên, và công phu
của một năm tu luyện sẽ đưa kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriyâ
Yoga giúp cho người hành giả thực hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự
tiến bộ vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến 10.000 thế kỉ.
Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những người
Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó
học chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái
quyền năng pháp triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.

Người
sơ cơ mới tập luyện pháp môn Kriyâ chỉ nên tu luyện từ 14 đến hai mươi 28 vào
mỗi thời công phu, mỗi ngày hai thời. Thường thì các nhà đạo sĩ Yogi chỉ hoàn
tất công phu tu luyện của học trong sáu năm, mười hai năm, hai mươi bốn năm,
hay bốn mươi tám năm. Người Yogi chết trước khi đạt được mục đích tối cao sẽ
đem theo một căn quả tốt do nơi công phu tu luyện trong quá khứ, và trong kiếp
sau, y sẽ có điều kiện tốt để tiếp tục tu luyện cho đến lúc thành công.

Thể xác
của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 Watt, không thể chịu nổi một
điện thế một triệu volt gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp mô Kriyâ Yoga. Sự
gia tăng một cách tuần tự và hợp lí số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi
xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mãnh mẽ của vũ trụ, tức là
sự biểu lộ đầu tiên của Tinh Thần.

Sự bồi
dưỡng sinh lực trong giấc ngủ là do bởi sự kiện rằng con người tạm thời mất đi
cái ý thức xác thân và hơi thở của mình. Trong khi ngủ, người ta vô tình trở
nên một người Yogi; mỗi đêm, vô tình và không hề hay biết y thực hiện pháp môn
Yoga là thoát ra ngoài mọi ý thứ về xác thân, và để cho nguyồn sinh lực thấm
nhuần vào bộ óc và sáu trung tâm bí yếu phụ thuộc trong tủy xương sống. Như
vậy, trong giấc ngủ, người ta đắm chìm một các vô ý thức trong cái kho dự trữ
tinh lực của vụ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn.

Trái
hẳn với người ngủ, người Yogi áp dụng có ý thúc một phương pháp giản dị và tự
nhiên cùng một loại. Người Yogi dùng pháp môn Kriyâ Yoga để đem Ánh Sáng bất
diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác, và duy trì chúng trong
một trạng thái thấm nhuần từ điển một các thường xuyên. Y khiến cho sự hô hấp
trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa giấc ngủ hay sự hôn mê
bất tỉnh.

Nhờ
luyện pháp môn Kriyâ, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng
phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên
tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà
thể xác và những tế bào trong óc của người Yogi được truyền vào một sức mạnh
tâm linh nó tăng cường sự sống. Khi đó, người Yogi không còn phải tuân theo
chặt chẽ những định luật thiên nhiên, như là ăn uống thanh đạm, sống gần thiên
nhiên, với ánh nắng và khí trời, nuôi tư tưởng tốt lành... là những phương tiện
quanh co nó chỉ có thể đưa y đến mục đích trong một thời kì lâu dài là mười
ngàn thế kỉ. Một người thường, có sức khỏe tốt, phải mất mười hai năm tu luyện
mới gây nên một sự thay đổi khả quan trong cơ cấu của bộ óc, và cần đến một
triệu năm để tinh luyện bộ óc cho đến mức có thể khai triển tâm thức vũ trụ
(Consicience cosmique).

Cuộc
đời của người đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của
quá khứ, mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, người hành
động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô
sơ của con ốc, không còn phù hợp với đôi cánh bay xa của con chim phụng
hoàng.

Một
phương pháp sinh hoạt tâm linh rất cao siêu giúp cho người Yogi thoát ra khỏi
các ngục tù của bản ngã để thở bầu không khí tự do của trạng thái siêu thức.
Cuộc đời thế gian, trái lại, đưa con người vào một ngõ bí không có lối thoát.
Dẫu cho con người noi theo con đường tiến hóa, y cũng phải chịu lệ thuộc những
định luật thiên nhiên, dù cho y không vi phạm một định luật nào về vật chất hay
tinh thần, y cũng không khỏi mắc kẹt trong vòng luân hồi sinh tử trải qua một
thời gian mười ngàn thế kỉ trước khi đạt tới sự giải thoát cuối cùng.

Để
thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó, pháp môn Kriyâ Yoga là cái bí quyết để trả
lời cho những người nào bất mãn với cái chu kì một triệu năm. Cái chu kì đó còn
kéo dài hơn nữa đối với những người, tuy có thức tỉnh đổi chút để nghĩ đến sự
sống tâm linh, nhưng hãy còn theo đuổi những thú vui phàm tục, và làm tổn
thương đến tính chất thiêng liêng của họ bằng hành động và tư tưởng. Đối với
họ, thì hai triệu năm cũng còn chưa đủ để tự giải thoát!

Con
người tự lầm lộn mình với cái phàm ngũ, y tưởng rằng chính y suy tư, cảm xúc,
mong muốn, ước vọng, hay hành động việc nọ việc kia, chứ không biết rằng trong
cuộc đời hằng ngày, y chỉ là một kẻ bù nhìn bị cai quản bởi những nghiệp quả
của quá khứ, và bởi hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, những khả năng trí thực,
những khuynh hướng, tập quán, thói quen... đều tùy thuộc một các chặt chẽ nơi
những nguyên nhân trong quá khứ mà nguồn gốc có thể truy ra hoặc trong kiếp
này, hoặc ở một tiền kiếp. Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ đó, chỉ có linh hồn,
một thực thể bất biến mà pháp môn Kriyâ Yoga có sứ mạng giải thoát bằng cách xé
tan bức màn vô minh, nguồn gốc của mọi sự chướng ngại và trái buộc Linh hồn vào
vòng luân hồi sinh tử.

Đức
Giáo Chủ Shankara viết trong quyển sách bất hủ "Những thế kỉ"
(Centuries) của ngài như sau:

“Những
nghi thức lễ bái bề ngoài không thể dẹp tan sự vô minh, hai điều đó có khi lại
còn đi đôi với nhau. Chỉ có sự hiểu biết mới có thể dẹp tan được sự vô minh. Sự
hiểu biết hay kiến thức, chỉ có thể đạt tới được bằng sự tìm tòi, tọc mạch về lí
trí. Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Vũ trụ từ đâu mà có? Ai sáng tạo ra nó? Nguồn
gốc nó do đâu mà ra?... Đó là sự tọc mạch tìm tòi mà tôi muốn nói đến.”

Trí óc
con người đành chịu bất lực không thể giải đáp những câu hỏi đó. Bởi đó, các
đấng Chân Sư thời cổ mới đem đến cho chúng ta pháp môn Yoga để làm cho ta thỏa
mãn sự khát khao hiểu biết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3