Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 11) - Chương 2 phần 4
BƯU THIẾP
(Hình những ngọn đồi thấp gần San Jose, Calif)
San 24 |
Manly thân yêu,
Đây là vài cảnh
nông thôn mà em được thấy trong chuyến đi San Jose, lúc này chỉ là những
vườn cây chưa trổ bông. Địa chỉ nhận thư của em là 1019
B. Vallejo St., San Francisco.
BESSIE |
*
San 28 |
Manly thân yêu,
Em không nhận được
thư của Wihelm nên em cho rằng cũng bị thất lạc một lá thư của anh. Em nghĩ là
những lá thư gửi về sở không được chú ý nên tốt hơn là anh gửi thư về nhà. Địa
chỉ nhận thư cho tới khi có thông báo thêm là 1019 B. Vallejo St., San
Francisco.
Chiều Chủ nhật em
tới Berkeley bằng phà máy chạy hơi nước qua bảy dặm ngang vịnh. Tụi
em mang theo bữa trưa và ngồi ăn trên đỉnh một ngọn đồi Berkeley. Băng
ngang vịnh thật là dễ chịu.
Em luôn đứng phía
trước thuyền và ở khoang dưới cho được gần mặt nước hơn. Lúc đó em đứng nắm sợi
dây để thuyền nâng cao lên, đu đưa dưới chân mặc cho bụi nước cùng với gió đập
vào mặt trong khi ngắm những con mòng biển. Sau khi qua vịnh tụi em đáp xe điện
ra khỏi đoạn cuối của cầu tàu dài dặc.
Em phải kể cho anh
nghe về phần cầu tàu vươn dài ra vịnh này. Phía bờ này nước cạn và người ta nạo
vét khỏi đáy vịnh các thứ đất đá để cây vươn ra khỏi bờ. Nó tạo thành một bến
đậu dài một dặm nơi có những trụ chống chạy dài và giữa những trụ chống này
được lấp đầy. Có rất nhiều cầu tàu. Ôi, em không biết là bao nhiêu nhưng đoán
phải có hàng tá. Các thành phốOakland và Berkeley đang lo xây
dựng và người ta đã dành ra 10 triệu đô la để xây cầu tàu thật xa ngoài đảo
Goat, thêm khoảng một dặm nữa để có một bến đậu dài tổng cộng hai dặm. Người ta
làm việc này để tiết kiệm năm phút di chuyển
từ Oakland và Berkeley tới San
Francisco.Oakland lớn gấp rưỡi thành
phố Kansas vàBerkeley ngang với Oakland, nhưng cả hai trên
thực tế là những ngoại ô của San Francisco và nếu không có vịnh, cả
hai đã hoàn toàn là một thành phố. Mọi hàng kinh doanh của họ trong trung tâm
thành phố (San Francisco) và để tiết kiệm được năm phút di chuyển cho mỗi
chuyến đi hàng ngày của những người này đã phải chi ra số tiền 10 triệu đô la.
Berkeley là
“thành phố tư gia” và là một nơi tuyệt đẹp cả về cảnh thiên nhiên lẫn cấu trúc
xây dựng. Không có những dãy nhà đồng bộ, từng đường phố nối nhau với những
ngôi nhà xinh xắn, những khu vườn dễ thương và Viện Đại
Học California với những tòa nhà lớn, những đường xe thênh thang,
những lối đi dạo bộ thật đẹp. Em đi khắp các ngả rồi tới xem Giảng Đường Greek.
Đây là một giảng đường ở ngoài trời xây trên sườn đồi làm thành một giảng đường
tự nhiên. Giảng đường được xây dựng giống hệt một hí viện Hy Lạp thời cổ và chỉ
là một bản sao vào thời điểm này. Diễn trường và các phòng thay áo là tòa nhà
đá ở chân đồi hoặc đúng hơn, những phòng thay áo là một tòa nhà còn diễn trường
là một nền tráng xi măng không có mái che. Có những cột đá lớn ở trước dãy
phòng thay áo ngăn cách với phần mở trống trên diễn trường. Vòng tròn trung tâm
trước diễn trường là một vòng mạt cưa dành cho các cuộc đấu vật… và những hàng
ghế nối nhau cao hơn như một đại khan đài hình bán nguyệt trên các sườn đồi.
Sườn đồi bao quanh kín phía sau hàng ghế cao nhất như một tường thành bọc tròn
tất cả các ghế ngồi với những hàng thông cao vút trên đỉnh. Không có mái che
ngoại trừ bầu trời xanh và mọi thứ đều kỳ diệu tuyệt vời lại thêm nổi danh trên
thế giới.
Tụi em leo lên đồi
phía sau giảng đường Greek và ăn bữa trưa với Oakland, Berkeley, vịnh
nước xanh và thành phố San Francisco trải dài dưới bàn chân, với cả những ngọn
đồi, những dãy núi vươn cao sau lưng và một vùng trời xanh, xanh ngắt trên đầu.
Và đó là Berkeley dễ thương, “thành phố tư gia”.
Sau bữa ăn trưa,
tụi em lang thang xuống những lối đi trên sân Viện Đại Học và cứ đi như thế tới
chuyến đường xe đưa tụi em về Oakland và về nhà băng qua vịnh từ một cầu tàu
khác trên một con tàu chạy hơi nước khác. Từ Berkeley
tới Oakland luôn có những bờ vịnh bọc quanh dù tụi em không nhìn thấy
hết do bị nhà cửa che khuất. Không có một khoảng trống ngăn cách nào giữa hai
nơi này – cả hai thực sự như một thành phố vì không thể nói nơi này chấm dứt ở
đâu và nơi kia bắt đầu ở đâu. Qua vịnh vào ban đêm quả là điều kỳ thú. Em đứng
phía trước thuyền gần mé nước và nhìn không biết mệt ánh đèn San
Francisco khi con thuyền vào bến. Tháp bến phà cao vút và là một chùm ánh
sáng điện với hàng chữ điện nổi bật ngang tháp “San Francisco kính mời tới
Hội Chợ Thế Giới Panama-Pacific 1915”. Và còn có tất cả những ánh đèn
khác, những bảng hiệu khác. Em đang thu thập thêm nên đi theo đường vòng một
chút, thậm chí băng qua phố Market giữa những chiếc xe buýt nhỏ mà không thấy
sợ hãi.
Rose tổ chức một
tiệc trà nhỏ cho em vào hôm qua với mấy cô gái và đám phụ nữ làm việc và viết
bài cho báo Bulletin. Nếu anh thấy trang báo Bên Lề Cuộc Sống một loạt truyện
nho nhỏ với tựa đề “Người Trong Căn Hộ Của Chúng Tôi”, anh có thể đọc và biết
rằng đó là những điều thực.
Rose viết loạt bài
đó và “cô bé họa sĩ sống trong tầng hầm”(8) vẽ những bức tranh.
Em rất thích đám bạn gái của Rose. Em có kể cho anh nghe về Pelkie, một họa sĩ
làm trong tờ báo đã đột ngột biến mất vào hôm em ở nhà và đang có dư luận nghi
ngờ anh ta có liên hệ theo cách nào đó với một hệ thống gián điệp Đức không?
Hôm qua, sau bữa
tiệc trà 4 giờ chiều, tụi em xuống bến phà đón anh trai của Gillette là Edson.
Anh ta xuất hiện bất ngờ và ở lại thành phố chỉ vỏn vẹn một ngày do công việc
kinh doanh nên tụi em chỉ gặp anh ta một lát ở bến phà.
Em thích đi xe điện
về đêm và tới bến phà qua bãi biển Barbary nổi tiếng. Lúc này hầu hết
những tòa nhà trên phố đều đóng cửa và trời tối, nhưng một nơi ở gần bến được
gọi là “khu bờ sông” thì mỗi tòa nhà trên phố đều là một quán rượu. Gillette bảo
đám thủy thủ lên bộ ở đó với tất cả tiền lương của chuyến đi dài sáu tháng và
họ phải có một nơi nào đó để trút tiền ra. Nó nói nếu họ không xoay xở để
tiêu tất cả số tiền thì khoảng hai ba giờ sáng sẽ có một kẻ nào đó bắt buộc
phải nện lên đầu họ và lấy số tiền đi.
Em mừng là ông Nall
đã trở lại và anh sẽ tráng xi măng để xua lũ chuột đi. Thật khủng khiếp với
lượng mưa mà anh phải chịu. Em nghĩ là điều này sẽ làm cho đất tốt vào mùa thu.
Ở đây mỗi buổi sáng sương mù dày đặc tựa hồ sắp mưa nhưng tới trưa sương tan
hết và nắng chiếu bình thường cho tới tối khi sương mù lại phủ kín trên biển
giống như khói và mọi thứ lại u ám và xám xịt. Rose đang viết túi bụi thiên
truyện của nó và em thì bận rộn từ việc này qua việc khác. Nó trù tíhn viết
xong hoàn toàn trong tuần này để sau đó có khả năng rỗi rãi vài ngày và tụi em
sẽ đi thăm thung lũng Mill, tàu chiến và có một ngày ở Hội Chợ. Dĩ nhiên em rất
vui với cuộc viếng thăm nhưng em rất mong gặp lại anh và Inky.
BESSIE |
(8) Sau này là họa sĩ nổi tiếng Berta Hader chuyên minh học
truyện nhi đồng
BƯU THIẾP
(Lâu đài Triển lãm, Xưởng chế sữa đặc, Triển lãm Quốc tế
Pacific, San Francisco 1915)
Manly thân yêu,
Em sẽ kể cho anh
nghe tất cả cách thức cô đặc sữa ra sao khi em trở về. Sẽ nói rõ hết về công
việc rất đặc biệt này.
BESSIE |
*
San 29 |
Manly thân yêu,
Trọn buổi chiều hôm
qua em đi xem Triển lãm. Rose tới gặp một kỹ sư ở gian hàng triển lãm Southern
Pacific để thu thập thêm một số dữ liệu cho câu chuyện về đường sắt của nó và
vì Gillette có một ngày nghỉ nên hai người tụi em tiếp tục đi quanh quẩn trong
lúc Rose nói chuyện.
Tụi em nhìn thấy cả
hai loại chuột túi kangaroo và wallaby ở gian hàng Úc. Một con kangaroo đang
ngủ trưa trong chỗ nằm do nó khoét trong cát. Nắng chói chang và rất nóng trên
chỗ nằm của nó ở ngay giữa khu sân rào dây kẽm và nó nằm ngửa thẳng lưng đưa
tất cả chân lên, ngủ. Một con kangaroo cái đang bới cát làm chỗ nằm và một con
khác nữa đang ăn bùn. Một con wallaby đang nhảy quanh. Nó giống như kangaroo
nhưng nhỏ hơn và lông màu xám thay vì màu nâu vàng. Các chân trước của chúng
nhỏ hơn rất nhiều và mất hẳn cân đối so với các chân sau có vẻ xấu xí và hình
như vụng về khi chúng nhảy.
Gian hàng Úc trưng
bày hầu hết là hàng len và nước khoáng. Tòa nhà New Zealand ở gần bên.
Hàng trưng bày của họ là các hàng gỗ, len và phim ảnh về các cảnh mùa gặt, câu
cá, lướt sóng, những tàu chất đầy sò hến, dầu gai, len và phô mai xuất cảng.
Cũng có một chương trình giới thiệu về gia súc gồm trâu bò và ngựa, mà qua hình
ảnh em đã từng nghĩ, và quả là chúng rất hoàn hảo. Anh còn nhớ khi tụi mình nói
về việc đi New Zealand không? Em thích những hình ảnh của xứ sở này
nhiều lắm.
Tụi em đã đi qua
tòa nhà Pháp và tòa nhà Bỉ, nhưng thời gian của tụi em rất hạn chế. Rose và em
sẽ trở lại và lúc đó sẽ viết kỹ hơn về các nơi này. Cả hai đều tuyệt vời.
Tụi em gặp lại Rose
tại khu vườn Hạ Uy Di Hawaiin Gardens trong tòa nhà vườn
trạiHorticultural Building. Các khu vườn đều là sự phối hợp hài hòa các
khóm hoa với các bụi cây và một gian hàng thênh thang bán cà phê Hạ Uy Di, nước
táo và hỗn hợp táo với nhiều thứ khác trên những chiếc bàn nhỏ. Giữa vườn có
một vòi phun nước với các dây len, các bụi cây và các khóm hoa xung quanh. Vòi
phun nước và một khoảng nhỏ được bao quanh với những sợi dây bằng vàng và bên
trong có những bệ đá hoa đặt những chiếc lồng chim hoàng yến. Một phía là ban
công dành cho một ban nhạc Hạ Uy Di đang trình tấu và ca những bài ca địa
phương rất dễ thương. Lũ chim hoàng yến đã nghe những bản nhạc nhiều đến nỗi ở
một số góc chúng cất tiếng tiếp tục điệu nhạc và hót phụ họa theo. Thật là
thích thú. Nam nữ hầu bàn đều là người Hạ Uy Di và chỗ này đúng là
một nơi tuyệt diệu để ngồi lại nghỉ ngơi, lắng nghe âm nhạc trong lúc nhấm nháp
từng hớp cà phê hoặc thưởng thức hương vị nước táo ngọt ngào. Trong các khu
vườn là mọi loại kỳ hoa dị thảo và những con cá vàng tung tăng giữa các hồ cá
cảnh bằng đá. Có những cây dương xỉ xum xuê, những cây dương xỉ với cọng cành
lớn ngang thân cây, vươn cao như những cây chà là và đủ thứ lạ lùng khác.
Từ đây tụi em đi
tới tòa nhà thực phẩm Food Products Building trưng bày mọi thức
ăn được chế biến để bán ra. Chuyện quá dài không thể viết hết trong một lá thư.
Em sẽ kể lại về chỗ này cho anh sau.
Rồi tụi em tới tòa
nhà của các ngành công nghiệp Manufucturerso Building và tại đó
em đã nhìn thấy thứ mà em tin là sẽ cuốn hút anh. Đó là khu trưng bày Keen
Kutter. Ở giữa một khoảng trống khoảng gần hai trăm bộ vuông là một con sông và
một thác nước. Nhưng đợt sóng là các chuỗi xích, thác nước là các chuỗi xích. Mọi
thứ trưng bày đều được làm bằng điện. Những lớp sóng xô gọn và xối tràn qua
thác. Nước đang đảo lộn dưới chân thác và một con tàu mà thân tàu bằng thép là
một con dao khổng lồ di chuyển ngang sông phía trên các thác nước và một con
rắn vĩ đại làm bằng một thứ dao ăn tỏa sáng trườn ở dưới chân màn hình. Phía
trên khung cảnh này là một vòm cuốn làm bằng những chiếc muỗng lấp lánh đủ kích
cỡ. Ở góc tay phải phía trên là một con dao nhíp khổng lồ với bốn lưỡi đang mở
ra, đóng lại và ở góc tay trái phía trên là một hàng bảy người thợ rèn đang
đứng bên một chiếc đe, mỗi người nắm trong tay một thứ dụng cụ. Vào những thời
điểm đã được định sẵn, một người rồi tới một người khác lần lượt đập lên vật
đặt trên chiếc đe bằng chiếc búa của mình có vẻ như làm cho vật kia mỏng thành
sắc. Trên đỉnh cao chính giữa hai chiếc cối xay gió làm bằng những lưỡi rìu
đang tiếp tục quay. Ở mỗi bên của trung tâm (trung tâm là thác nước) đều có một
vòi phun nước với những tia bụi nước làm bằng dây kẽm và nước làm bằng những
mũi khoan theo cách hệt như khi anh dùng chiếc kẹp của anh. Phần trên của nước
chỉ là những mũi khoan cỡ trung bình rồi tới một đường riềm quanh vòi nước và
sau đó là một vòng tròn những mũi khoan lớn hơn. Tất cả đều chuyển động theo
hướng khoan tới nên có vẻ như nước đang chảy xuôi, trút xuống riềm rồi lại chảy
xuống. Ảo giác thật là hay. Tên “Dao nĩa Keen Kutter” được viết trên toàn thể
món đồ bằng những khóa móc sáng bóng và tất cả đều chuyển động bằng điện.
Thật hết sức thú vị
và lạ lùng được nhìn thấy con dao nhíp khổng lồ mở và đóng, rồi mở và đóng
giống như nó là một vật sống và tự chuyển động.
Cuối ngày, khi tụi
em trở về trên xe điện, một người đàn ông ngồi bên cạnh đang nhai kẹo cao su.
Ông ta đội một chiếc nón cứng ngắc bó sát đầu và mỗi lần ông ta nhai, chiếc mũ
lại đưa lên, hạ xuống tới hai inch, lên rồi xuống, lên rồi xuống với một nhịp
thật đều tựa hồ ông ta đang được chuyển động bằng điện.
Gửi lời em hỏi thăm
ông Nall.
Thương BESSIE |
*
San 1 |
Manly thân yêu,
Tối qua Rose cho em
một đồng tiền vàng mười đô la. Thế là nó đã cho em 20 đô la và biến số tiền em
sẽ mang về nhà thành 30 đô la tiền vàng. Em đã đổi sẵn 5 đô la là số tiền em
tính sẽ phải tiêu trên đường về cho các khoản thuê giường ngủ trên xe, mua thức
ăn… Em bàn chuyện trở về với Rose và nó ráng sức năn nỉ em ở lại cho tới khi
hết hạn về là ngày 15 tháng Mười Một. Nó nói nó sẽ lo liệu ổn thỏa mọi việc
trong thời gian em ở lại và em chỉ cần chịu ở lại thôi. Anh biết đó, nó đã cho
em đều đặn mỗi tuần 5 đô la từ khi em tới đây.
Em đang tự hỏi có
phải em đã kiếm ít hơn để góp vào việc trả nợ nếu em ở lại đây theo cách đó và
liệu anh có thể làm xong công việc mùa thu và mọi chuyện sẽ tiến triển trong
mùa đông. Thực tế như thế nào? Nếu em ở lại qua hết tháng Mười, như anh đã
biết, em sẽ có 60 đô la để mang về nhà nếu không có gì xảy ra cho công việc của
Rose và số tiền đó cũng giúp ích khá nhiều. Nhưng dĩ nhiên nó chẳng trang trải
được bao nhiêu nếu anh bị mất mùa khoai tây hoặc các mùa vụ khác hoặc gặp một
điều gì tương tự. Anh là người duy nhất có thể lên tiếng vì anh đang phải chịu
khó nhọc và anh nắm vững mọi việc ở đó ra sao.
Gillette vừa lỡ cơ
hội có một việc làm tốt trong tuần này do chậm khoảng một giờ. Hôm nay nó đã đi
coi có thể lo liệu được một điều gì đó trong việc mua bán đất. Nếu làm xong, nó
sẽ có 150 hoặc 200 đô la. Ngược lại, nó sẽ lỗ sở phí. Ở đây có rất nhiều nhà
báo đang không có việc làm.
Gillette nghĩ rằng
điều đó có lẽ do có quá nhiều người kéo đến ở lại cả năm để chờ coi Hội Chợ. Nó
nói nếu nó kiếm khá hơn một chút, khoảng hai trăm đô la, nó sẽ cố giành lấy một
việc làm ở St. Louis hoặc thành phố Kansas. Rose bảo nó thích
việc ở St. Louis nhưng nó đã có một công việc rất tốt ở đây nên nó
không thể từ bỏ cho tới khi nó đã khá hơn hoặc có một việc làm tốt bảo đảm lâu
dài ở đó.
Mỗi tuần nó đang
trích một phần lương bỏ vào ngân khoản tiết kiệm, ngoài ra là trang trải chi
phí trong nhà, cho em và Gillette tiêu vặt trong khi đi kiếm việc. Nó kiếm việc
làm thêm từng lúc và khi nhận tiền công nó trao hết cho Rose rồi mỗi ngày lấy
lại vừa đủ chi các khoản tiền xe điện, ăn trưa và mua thuốc hút.
Thương BESSIE |
*
BƯU THIẾP
(Trại gia súc Carnation, một trong những trại cung cấp sữa
tươi cho các hãng làm sữa đặc)
Thương yêu BESSIE |
Tối qua tới coi rạp
“chiếu phim” trị giá 600.000 đô la, 4000 ghế ngồi. Lớn nhất nước Mỹ.
*
San 4 |
Manly thân yêu,
Hôm nay, em từ
trung tâm thành phố trở về nhà một mình. Ông chủ của Rose, người tổng biên tập,
gọi nó tới văn phòng vào lúc 12 giờ. Như anh biết, nó làm việc ở nhà và đang
làm việc khá vất vả cho loạt bài về đường sắt sẽ khởi đăng trên số báo ra ngày
thứ Năm. Nó sắp hoàn thành loạt bài này. Em đi cùng với nó coi người ta cần gì
và nó nghĩ có khả năng ông tổng biên tập muốn thay đổi câu chuyện nó viết một
chút.
Điều ông ta muốn nó
làm là tới phỏng vấn một nhạc sĩ Áo đang tới hòa nhạc ở đây. Ông ấy là một nhân
vật quốc tế và là một danh tài tuyệt diệu về vĩ cầm. Ông ấy đã phục vụ bốn tuần lễ trong quân đội Áo
chống lại quân Nga và bị thương nên họ thải ra không dùng nữa. Ông ấy đã đưa ra
một số lời tuyên bố trên báo chí về cái hậu quả không một thứ giá trị nào tồn
tại nổi ở Âu châu khi mà chiến tranh lan tràn qua mà không có một điều gì được
thực hiện để cứu vãn một chút cỏn con khỏi cảnh tàn phá.
Ông ấy dành hết số
tiền kiếm được nhờ các buổi trình diễn cho các nghệ sĩ ở Âu châu (mang mọi quốc
tịch) đang cần được cứu giúp để có thể sống sót. Ông ấy nói những người đó đang
chết đói sau khi bị đẩy ra khỏi quân đội giống như trường hợp của ông ấy. hai vợ
chồng ông ấy nhận nuôi bốn mươi ba đứa trẻ mồ côi, vốn là con của các binh sĩ,
được cung cấp thực phẩm, quần áo và lo dạy dỗ chúng giống như con đẻ thực sự
của họ.
Ông chủ của Rose đã
nhắc nó tới gặp và viết một câu chuyện về cuộc đời của ông ấy để sẵn sàng khởi
đăng vào thứ Năm thay chỗ cho cái bài mà nó đang viết. Bài kia sẽ được in sau.
Điều này có nghĩa là nó phải viết gấp để kịp đi trước các báo.
Thế là nó chạy đi
làm phỏng vấn còn em trở về nhà.
Có một phần ngôi
nhà là lối đi xuống ngọn đồi tụi em ở được xây dựng bằng những vật liệu lấy ở
Horn về từ lâu rồi. Người đàn ông dựng ngôi nhà này và vợ ông ta sống tại đó
cho tới già. Lúc đó hai người cãi cọ với nhau và người đàn ông làm giấy tờ hợp
pháp hóa cho vợ một nửa ngôi nhà cùng một nửa lô đất. Ngôi nhà bị cắt thẳng ở
chính giữa. Ông ta rời về sống trong nửa ngôi nhà cùng nửa lô đất của mình và
họ sống như thế ở đó cho tới khi qua đời. Ngôi nhà dựng trên lô đất từ phố kéo
ngược lên đồi.
Một bức tường đá
cao chạy dọc theo đường phố và có một cổng lớn bằng sắt dẫn vào phía trong.
Bước qua lớp cổng sắt này, người ta sẽ leo bốn bậc đá rồi quẹo sang bên, leo
lên một dãy bậc đá khác. Tất cả những bậc đá đều nằm ở phía trong bức tường.
Hai bên những bậc đá và cao vượt lên khỏi đầu là đá cứng. Tận cùng những bậc đá
này ở trên cao, người ta tới một khoảng trống do một lối đi bằng đá. Từ đây,
người ta có thể đi vòng trên đầu những bậc đá trên các cột lan can nhỏ bằng đá
tới một hành lang nhỏ bằng đá nhô ra phía trên đường phố hoặc quẹo theo hướng
khác leo một vài bậc đá tới một lối đi nhỏ, leo tiếp vài bậc đá nữa rồi tới
những bậc thang bằng gỗ tới trước cửa của ngôi nhà. Từ cửa trước ngôi nhà có
thể nhìn qua nóc những ngôi nhà ở phía dưới và nhìn ra vịnh. Cô bé họa sĩ
Berta, người đã minh họa một ít câu thơ của em thuê phần trước của ngôi nhà và
đang chuyển tới.
Em thích đi theo
lối đó vì cảm thấy an toàn khi leo lên những bậc đá ở phía sau bức tường.
Tối thứ Bảy ở đây
có một cơn động đất nhẹ hoặc ít nhất là báo chí đã nói thế vào sáng hôm sau. Phần em chẳng
cảm thấy có gì cả. Động đất suốt dải bờ biển và nặng nhất là ở Nevada.
Lúc này chắc hẳn
anh đã nhận được lá thư của em nói về việc em đi tàu ra ngoài khơi để ngắm cảnh
hoàng hôn nhưng anh phải chịu nghe nói lại nữa. Đó là một con tàu nhỏ sơn trắng
với phí tổn năm mươi xu mỗi người. Tụi em đi trong một giờ. Tàu khởi hành từ
chỗ cắm neo trong bãi đậu thuộc khu vực hội chợ hướng thẳng tới Golden
Gate, phía mặt trời đang xuống. Rose và em đứng trên boong ngay phía mũi tàu là
nơi mà tụi em chỉ nhìn thấy hàng lan can và vài bộ boong tàu phía trước ngoài
ra là nước. Tụi em nắm chặt một sợi dây và đứng hơi dang rộng hai bàn chân. Ôi,
tuyệt làm sao khi tụi em bắt gặp đại dương dâng lên mở lớn gần Gate.
Tụi em đi ngang khu
Hội Chợ, qua mũi đất Presidio tới Golden Gate và có mặt ở đó đúng vào
lúc mặt trời chìm xuống khỏi tầm nhìn. Sau đó tụi em quay lại đi vòng trở về
theo bờ vịnh bên kia, lướt qua dưới pháo đài cao nhất thế giới mà tụi em đã
biêt có những họng súng khổng lồ đang ẩn khuất, qua các tòa nhà của pháo đài
quanh chân núi và qua dưới ngọn hải đăng trên một mỏm đá, qua đảo Angel là nơi
đặt trạm kiểm dịch, rồi băng thẳng qua vịnh trở về chỗ cắm neo. Sương mù bao
kín xung quanh khiến tụi em không nhìn thấy đất liền trong lúc lướt trên mặt
biển màu xám như đang bị nuốt trôi vào lớp sương mù màu xám. Gió thổi tạt sương
mù và bụi nước vào mặt tụi em và con thuyền trồi lên, chúi xuống dưới chân với
vẻ tự hào. Đi trên tàu phà không thú vị nhiều như thế vì tàu phà lớn nên lướt
đi vững vàng hơn.
Em mừng là ông Nall
ở bên anh và mừng là anh đang thu hoạch bắp còn đậu đã được lo cẩn thận cùng
hàng loạt những việc khác đã làm xong. Cho em gửi lời thăm hỏi tới ông Nall.
Thương BESSIE |
*