Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 11) - Lời mở đầu

“SAN FRANCISCO, THÀNH PHỐ THÂN YÊU CỦA TOÀN THẾ GIỚI”

Khách viếng thăm yêu thích San Francisco, Thành Phố Ưu
Ái của Mọi Người, từ thời Cơn Sốt Vàng năm 1849. Hai cạnh của khu bán đảo rộng
bốn mươi bốn dặm vuông được vịnh San Francisco khuôn kín trong đó một
cạnh là những hải cảng thiên nhiên tuyệt đẹp của thế giới và cạnh thứ ba nằm
bên biển Thái Bình Dương mà những người da đỏ địa phương Costanoan vẫn gọi là
Biển Mặt Trời Lặn. Thuở sinh thời Laura Ingalls Wilder, phần lớn cạnh thứ tư là
rừng Sutro, một vùng rộng lớn gồm toàn cây khuynh diệp do học trò trồng.

Rồi, như ngày nay, những ngôi nhà củaSan Francisco tràn
lan khắp bốn mươi hai ngọn đồi tựa hồ chen nhau tắm nắng. Về đêm, hoặc là sương
mù bao quanh ánh đèn đường, hoặc là bầu trời sáng trong đến nỗi một thi sĩ
đương thời là George Sterling đã viết “Cuối những con phố nhà nàng là các
vì sao”. Đó là một thành phố trẻ trung nồng nhiệt đầy sức sống, đã tự chứng tỏ
mình bằng sự tái tạo chỉ trong vòng sáu năm sau cơn tàn phá của trận Động đất
và hỏa hoạn năm 1906.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Thêm vào kiểu mẫu hoàn hảo của các ngôi nhà là một thế giới
kỳ lạ gồm những ngọn tháp, lâu đài, cột đá, sân trống, vườn hoa, công trình
điêu khắc và các vòi phun nước dọc theo khu bến cảng bằng phẳng kéo dài suốt
hai dặm. Đây là “Thành Phố Trong Mơ” với cuộc Hội Chợ Triển Lãm Quốc
Tế Panama - Pacific. Cuộc hội chợ tổ chức nhân dịp hoàn thành kênh đào Panama mở
ra một thời kỳ kinh doanh trên toàn thế giới cho miền Tây. Cửa hàng trưng bày
phong phú của hai mươi tám quốc gia được dựng lên. Các công trình nghệ thuật
trên khắp thế giới được gom tụ lại. Ba mươi trong số bốn mươi tám tiểu bang tái
tạo những công trình kiến trúc tự hào nhất của mình trên khu đất triển lãm.

Illinois và Ohio xây các phiên bản viện dân
biểu. Texas dựng lại căn cứ Alamo. New Jersey tái tạo
doanh trại Trenton Barrack, nơi đặt đại bản doanh của George
Washington. Oregon không thua kém với phiên bản đền Parthenon của
người Athens làm bằng những khúc gỗ thông Douglas. Mười tòa lâu
đài vĩ đại, sự cống hiến phong phú nhất cho mỹ nghệ. Ngọn Tháp Đá Quý hình
thành bằng 135.000 lăng kính cắt thật đặc biệt ghép với nhau. Ban ngày, tháp
chiếu long lánh tất cả những màu đá quí và về đêm bùng lên rực rỡ với ánh sáng
của hai trăm ngọn đèn pha đặt kín đáo. Còn có những thính phòng, những đạo sảnh
và những khu vườn khó tin nổi sáng tạo bởi John McLaren, người nổi tiếng với
công trình nghệ thuật trên công viên Golden Gate. Và một vùng giải trí bao
quanh mười sáu khu phố cung cấp đủ thứ thú vui, cưỡi ngựa và các trò chơi.

Jules Guérin, người sử dụng màu hoàn hảo nhất giữa các họa sĩ
đương thời, được trao việc tuyển lựa màu sắc cho Hội Chợ. Ông ta đã tô điểm vẻ
lãng mạn cho các tòa nhà bằng các gam màu trời biển, núi non “thay đổi từ màu
xanh rêu đậm tới màu vàng nâu và từ màu ánh sáng sớm mai đến màu chiều”. Theo
báo cáo chính thức ghi nhận, “ông ta đã làm việc cật lực để đạt hiệu quả cho
nguồn sáng tạo một cảnh tượng thần tiên vào ban đêm thậm chí vận dụng cả màu
sắc sương mù”. Điện vẫn còn là một thứ rất mới đối với cuộc sống. Mọi người đều
lạ lùng khi Tổng Thống Woodrow Wilson bật nhẹ chiếc nút điện tại Washington để
thắp sáng lần đầu những bóng đèn điện tại Hội Chợ. Điều này hình như là một kỳ
công nhỏ so với quang cảnh sáng rực hàng đêm của Hội Chợ. Những ánh đèn sáng ở
đây không khác những dải sáng đậm màu của trời đêm Bắc Cực. Những vũ điệu ánh
sáng và những trái pháo hoa không phun lửa vụt đến từ chiếc máy phát đặt trong
Vịnh. Trước những ánh sáng lấp lánh, những tòa nhà nối tiếp nhau, sau nửa đêm
ngày 4 tháng Mười Một 1915, mười tám triệu khách viếng thăm tuôn chảy qua những
khung cửa. (Con số dự báo lạc quan nhất là mười triệu).

Giữa số người này có Laura, đang viếng thăm con
gái, Rose Wilder Lane, cây bút đang nổi trên tờ báo hàng ngày
của Fremont Older, nhật báo The Bulletin. Laura đến vào cuối tháng
Tám để sống hai tháng trên ngọn đồi Russian Hill, vùng nghỉ ngơi dành cho
các nhà văn, họa sĩ, kiến trúc sư.

Từ đây, bà có thể nhìn và thả bộ tới khu Chinatown, trung tâm
thành phố, bãi biển Bắc, cầu tàu Fisherman, đồi Nob, tòa nhà Ferry và sự vươn
lên mà Will Irwin gọi là “sự tinh khôn điên dại của đồi Tellygraft”.

Ngôi nhà mà Rose đang cư ngụ nằm tại phố Vallejo, thiết
kế bởi Willis Polk, giám đốc kiến trúc của Hội Chợ. Từ đây có thể đi bộ một
trăm thước tới hàng lan can để ngắm các chiếc phà Oakland và Berkeley đang kéo
dài những chiếc đuôi công sáng trắng lui tới khu Hội Chợ. Cũng tại góc cạnh
này, Laura có thể ngắm phi công Art Smith khi ông ta liệng quanh các tòa nhà Hội
Chợ và sà xuống giữa chùm tia sáng lấp lánh của Tháp Đá Quí. Phía sau ngôi nhà,
tất cả là những hàng cây tạo thành chiếc khung mái vòm lộng lẫy của Lâu Đài Mỹ
Nghệ. Bernard Maybeck đã sáng tạo ngôi nhà này, hình ảnh nổi bật nhất của khu
Hội Chợ trong bức tranh kỳ ảo của Brooklin, “Đảo Tử Thần”. (Công trình kiến
trúc lãng mạn này với một hồ nước phản chiếu rất được người San
Francisco yêu mến và không chịu để cho nó hoang tàn biến dạng. Trong thập
niên 1960, một người ngưỡng mộ tòa nhà là Walter Johnson đã bỏ tiền riêng của
mình để lo tu trì tốn 2,3 triệu đô Laura. Hiện nay tòa nhà là một nhà bảo tàng,
The Exploratium).

Không ngạc nhiên chút nào khi việc làm đầu tiên của Laura
cùng con gái là đi dạo. Thuở đó và ngày nay, đi bộ quanh thành phố San
Francisco vẫn là một niềm vui. Đúng thế, yếu tố quyết định trong việc chọn
địa điểm tổ chức Hội Chợ là “phải dễ dàng cho việc đi bộ tới mọi nơi trong
thành phố”.

Ngày khai mạc, dân San Francisco dậy sớm “đi bộ
tới, đứng ngoài cổng chờ tham dự chen chúc nhau như một trận tuyết lở” theo sự
tả lại của Inez Haynes Irwin, một cây bút rất nổi danh. Trong số những người đó
có Thị trưởng “Sunny Jim” Rolph, một chàng trai của thị trường miền Nam,
luôn luôn là con người của đám đông.

Hướng dẫn chính thức cho Hội Chợ đề nghị “đi bộ dọc theo
khoảng đất trống dài bên bờ vịnh, khiến máu lưu thông mạnh hơn bằng sự hít thở
nhiều khí biển, nghỉ ngơi trong ánh nắng êm dịu của những khuôn sân khuất, vượt
qua nhiều dặm lối đi thú vị nối tiếp giữa các khu lâu đài hội chợ với tiện nghi
vật chất hoàn hảo là một trong những kinh nghiệm vui thích khi viếng thăm Hội
Chợ Triển Lãm Quốc Tế Panama-Pacific”.

Đi bộ đã mang lại một trong những thành công ban đầu
cho Rose Wilder Lane trong nghề làm báo. (Loạt bài phỏng vấn những
người trồng mận và mơ trên những khu vườn ngày nay không còn nữa ở thung
lũng Santa Clara). Đi bộ là việc cần làm. Hơi đáng ngạc nhiên là Rose và
mẹ thường đi bộ quanh Land’s End, rừng Sutro và bãi biển. Nhiều tuần lễ,
hai chục ngàn cư dân đã đưa những chiếc phà nhỏ và đường sắt CliffHouse tới Land’s
End để thoải mái đi bộ trong vùng đất đẹp đẽ này.

Khi Laura có mặt tại đây, bà đã nhìn vào phía dưới bộ mặt nổi
để tự hỏi thành phố có thực sự thịnh vượng không. Rải rác đó đây, xương cốt của
thành phố cũ-cái thành phố từng có-vẫn bày ra khắp nơi sau cơn đổ vỡ khủng
khiếp là trận động đất và hỏa hoạn năm 1906. Nhiều nơi vẫn còn những khu đất
trống nằm giữa các hàng rào sắt hoen rỉ. Vài nơi ở đó những bậc đá hoa nằm trơ
dẫn lên những khoảng không. Inez Irwin đã diễn tả những thứ đó “giống như một
bóng hình ma quái giữa phố phường đông đúc”. Các di tích của nỗi gian khó đó có
thể khiến Laura đắn đo cân nhắc, dù có động đất hay không, trong ý
nghĩ, San Franciscohiện là thành phố giàu có nhất của duyên hải phía Tây
và là thành phố giàu có thứ năm trong nước. Sự cân nhắc này cũng do tác động từ
các mỏ bạc Comstock. Sự suy nghĩ của Laura cũng có thể chịu ảnh hưởng cuộc sống
khắc khổ do cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Cuộc chiến này đã đe dọa chính Hội Chợ cho
tới khi có những người mạo hiểm tới tận Âu châu mang về những nghệ phẩm quý giá
để trưng bày. Nỗ lực của những người đó vô cùng giá trị. Những người tới tham
dự Hội Chợ đều say mê các họa phẩm và những công trình điêu khắc.

Hai tác phẩm của Mỹ từng nổi tiếng khắp thế giới là Cuối Nẻo
Đường Mòn và Bà Mẹ Mạo Hiểm. Nhưng trong năm 1916, những tác phẩm này đã diễn
tả hai điều - sự thừa nhận thành quả của những chuyến xe lửa Conestoga hướng về
miền Tây từ sáu mươi lăm năm trước và nỗi khát khao ánh sáng văn hóa của miền
Tây. Đó là sự hòa trộn khả ái của những ý tưởng hiện hình thành sự nhận thức về
sức sống, long dũng cảm và tính táo bạo.

Chính tinh thần này đã thấm nhập toàn thành phố trong đêm bế
mạc Hội Chợ như lời thuật của Inez Irwin: “ở lại cho tới nửa đêm với những nghi
thức chấm dứt và sau đó không ngắt một đóa hoa tràn ngập, mọi người lặng lẽ tản
bộ trở về trong nỗi luyến tiếc”.

Margot
Patterson Doss

Russian
Hill, San Francisco

LỜI MỞ ĐẦU

Xô bồ trong chiếc hộp các-tông giữa những công thức nấu
nướng, những tấm hình cũ nhòa nhạt, những mẩu báo nói về các nhân vật hoặc các
biến cố đã qua, tôi tìm thấy những lá thư này và những tấm bưu thiếp do Laura
gửi về cho chồng, Almanzo. Một số thư đầu viết bằng bút chì, đề gửi ông
A.J.Wilder, Mansfield, Missouri với những con tem giá hai xu của Bưu
Điện Mỹ dán trên bao thư.

Những lá thư sau hầu hết nằm trong các bao thư có địa chỉ gửi
là “Báo The Bulletin, San Francisco”, bao thư đánh máy và dán tem riêng.

Laura lúc nào cũng chi li tiết kiệm. Giấy viết Laura dùng là
loại rẻ tiền và không có đường kẻ. Không có sẵn mực nên bà dùng bút chì mềm.
Tại San Francisco, thỉnh thoảng bà đánh máy trên loại giấy đánh máy rẻ
tiền màu vàng mà con gái bà, Rose, dùng viết bài cho tờ báo. Tất cả bó thư được
buộc với một sợi dây buộc hàng ngắn màu trắng và đã bị sợi dây cứa đứt các mép
bao thư sau nhiều năm. Hoặc Manly hoặc Laura đã thu góp tất cả những lá thư
này, cất giữ để có thể đọc lại vào những năm sau.

Sau khi Laura qua đời năm 1957, Rose trong nỗi đau buồn của
mình đã gom hết giấy tờ của mẹ và bỏ vào những chiếc hộp với ý nghĩ sẽ có lúc
xem lại về sau. Nhưng không bao giờ Rose có thể làm nổi việc này. Rồi khi Rose
từ trần năm 1968, tôi, với tư cách là bạn và là người thi hành di chúc, có bổn
phận phải kiểm tra lại mọi thứ giấy tờ. Tôi đã có cùng một cảm giác và đã gạt tất
cả số giấy tờ này sang bên cho tới những ngày gần đây mới thực sự muốn nhìn
tới. Lúc đó tôi đã mở chiếc hộp ra.

Như bạn đọc của bộ sách Ngôi Nhà Nhỏ đã biết, Laura
là một cô gái mạo hiểm từng đi khắp miền Trung Tây trong thời gian mới lớn. Bà
đã kết hôn năm 1885 với Almanzo và họ dựng nhà gần De Smet trong vùng Dakota.
Giông bão, hỏa hoạn, nạn châu chấu và khô hạn cuối cùng đã buộc họ phải bước
vào một chuyến đi mới tới Mansfield, Missouri - Vùng Trái Táo
Lớn Màu Đỏ như những người bảo trợ cho vùng này thường gọi.

Cuộc sống trên trang trại mới là một sự cào cấu khó khăn.
Trong những năm đầu, đất đai không thể nuôi nổi một gia đình nhỏ nên Almanzo
làm công việc bán xăng dầu cho công ty Waters Pierce Oil Company. Laura phải
sắp xếp các phiếu thanh toán của khách hàng, tính toán các khoản tiền chi phí
để Almanzo có thời gian rảnh làm những công việc cần thiết ở trong trại. Dĩ
nhiên, trại bắt đầu khá lên và cuộc sống của họ càng trở nên hạnh phúc. Người
con duy nhất của họ, Rose, đã kể lại một cảnh tượng gia đình như sau:

Về đêm, tôi mang một cuốn sách từ trường về nhà và sau bữa ăn
tối, cha tôi rang một chảo bắp lớn, còn mẹ Bess (tên đệm của Laura
là Elizabeth nên trong gia đình gọi như thế để tránh lẫn lộn với
người chị gái của Almanzo cũng có tên là Elizabeth) lớn tiếng đọc cuốn
sách trong lúc hai cha con tôi ngồi ăn. Mẹ ngồi bên chiếc bàn trên đó có một
cây đèn. Mái tóc mẹ chải về phía sau thật mượt và kết thành một bím nặng trịch
lóng lánh phản chiếu ánh đèn.

Cha (người mà Laura gọi là Manly) ngồi bên một chiếc bàn khác
với chảo bắp rang đặt giữa hai đầu gối chậm chạp nhấm nháp từng hạt một. Cha
thích ngắm hình dáng từng người và thường bảo hai mẹ con tôi không giống nhau
nhưng cả hai đều hoàn toàn đẹp. Đó là những giờ thoải mái an vui với tất cả
chúng tôi. Bữa tối đã ăn xong, gian phòng ấm áp, chúng tôi quây quần riêng với
nhau, những con ngựa cũng đã ăn no đang ngủ trong chuồng, không có việc gì cần
ưu tư cho tới ngày mai và mẹ Bess đang đọc sách. Thật là không gì sánh bằng.

Sau này, sự thành công của Rose - trở thành cây bút nổi tiếng
trên thế giới từ trước khi Laura được biết đến ở ngoài vùng Ozarks - đã có sự
góp phần không nhỏ của cá tính và sự thông minh hưởng từ cha mẹ. Rose bắt đầu
vào đời với tư cách một nhân viên dây thép của Western Union, rồi với tư cách
nữ nhân viên mậu dịch đầu tiên ở California và năm 1914 là người
chuyên viết đặc ký cho tờ Bulletin tại Cựu Kim Sơn do nhà báo nổi danh nhất tại
Mỹ là Fremont Older chủ trương.

Đây là thời gian Rose lập gia đình, tràn đầy thành công ban
đầu và nôn nóng chia sẻ niềm vui của mình với mẹ. Từ trước, Rose đã hối thúc mẹ
về miền tây, tới San Francisco nhưng các dự tính chưa được thực hiện.

Bây giờ, năm 1915, cuộc Triển Lãm Thế Giới vĩ đại, Hội Chợ
Quốc Tế Panama-Pacific, đã được trù liệu khai mạc tại San Francisco để
chào mừng việc hoàn thành thông kênh đào Panama.

Đây là quang cảnh huy hoàng chứng tỏ
rằng California thực sự gia nhập đời sống thế giới bằng mọi cách
riêng của mình.

Rose nôn nóng mong mẹ tới viếng vùng này hơn bất cứ thời gian
nào khác. Lá thư của Rose mời mẹ không ghi rõ ngày tháng nhưng có những chi
tiết về các sự việc đã qua có thể nêu rõ tương quan với lá thư thứ nhất của
Laura. Một vấn đề đặt ra cho cả Laura và Manly Laura là ai sẽ đi - vì một người
phải ở lại trông nom nhà cửa. Luôn luôn hào hiệp và có lẽ luôn là người có máu
nông dân hơn là người thích đi lại đó đây như Laura nên Manly đề nghị vợ đi và
Laura đã làm theo. Nhưng không hẳn không có gì hứa hẹn là bà sẽ nhìn khắp miền
tây và cuộc Hội Chợ thay cho những con mắt của Manly không thua gì những con
mắt từng nhìn thay cho người chị bị mù, Mary, thuở nhỏ.

Chính nhờ sự sắp xếp đó mà chúng ta có thể trở lui khá nhiều
với một kỷ nguyên lẽ ra đã bị chìm khuất mãi mãi. Chúng ta chia phần du ngoạn
trên chuyến xe lửa xuyên lục địa với người con gái mạo hiểm từng là người đầu
tiên vượt qua những thảo nguyên trong một cỗ xe ngựa buông kín mui; thưởng thức
những phản ứng của bà đối với những sở thích của Henry Ford và Charlie Chaplin;
cùng bà than phục đại dương, khu Chianatown tại San Francisco, những cuộc nhào
lộn của máy bay trên không trung và trên hết thảy là cuộc Triển Lãm vĩ đại.

Nắng lại chiếu sáng trong mùa hè năm 1915 và tại đây, Laura
bước vào tuổi bốn mươi tám cùng với người con gái hai mươi chin tuổi bước vào
một cuộc phiêu lưu mới cho riêng họ, và cho cả chúng ta.

Roger
Lea MacBride

Miami
Beach, Florida

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3