Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 10) - Chương 2 phần 1
II.
17 tháng bảy 1894.
Khởi hành lúc 8 giờ 30. Ra khỏi ba dặm chỉ là những
cây kế Nga. Những người cắt lúa với mùa lúa mì èo uột. Vào ranh giới hạt Miner
lúc 2 giờ. Hạ trại bên một dòng suối cạn nhưng đủ lo cho lũ ngựa. Lúa cao khoảng
8 inch may ra sẽ đạt nổi sản lượng một giạ rưỡi mỗi mẫu. Trời nóng.
18 tháng bảy.
Nhiều nông dân cắt lúa làm cỏ khô. Lúc 11 giờ 30,
chúng tôi rời khỏi Howard một dặm về phía đông. Trồng trọt ở đây còn đỡ. Kéo lết
tới mùa tới là việc đã xong hết, không còn lo lắng về thu hoạch trong mùa này.
Tuy nhiên mùa vụ vẫn tệ hại chưa từng thấy. Cỏ không mọc nổi. Lúa cao chừng 3
inch héo úa và chết khô.
Đi ngang đường sắt Tây Bắc R.R lúc 2 giờ 25. Vào
ranh giới hạt McCook lúc 5 giờ, cho xe chạy thêm hai dặm rưỡi và hạ trại. Trong
buổi chiều có một đợt bão bụi nhỏ và chúng tôi phải kéo xe chụm chung lại vì
không thể thấy rõ những gì đang xảy ra. Gió nam nóng hực đổi thành gió bắc lạnh
lẽo, cả hai thứ đều gay. Dù vậy, nhiệt lượng kế trong xe đứng ở 102 độ.
19 tháng bảy.
Ban đêm trời đổ mưa nhưng không có gió. Không vật gì
trong thùng xe bị ướt ngoại trừ một tấm mền phủ lưng ngựa. Chúng tôi rán thịt
gà làm thức ăn điểm tâm và khởi hành lúc 9 giờ 15. Thời tiết lạnh và dễ chịu,
gió thổi từ phía bắc và bụi lắng dưới mưa. Những khu rừng nhỏ rậm rạp và có vẻ
rất tươi tốt nhưng nông dân đang cắt lúa phơi làm cỏ khô.
Chúng tôi kiếm được điểm cắm trại vừa ý trong một hẻm
núi khuất gió và khuất mọi tầm nhìn.
Bữa tối đã được nấu nướng và ăn xong. Khi chúng tôi
đang rửa chén đĩa, một người đàn ông đi tới và nói ông ta là chủ một khu đất và
thấy chúng tôi cần chỗ nghỉ nên tới làm rộn. Vì ông ta sống ngay phía bên kia đồi
nên chúng tôi nghĩ là chúng tôi có thể di chuyển qua con đường và tới ở yên ổn
tại đó. Thế là chúng tôi đóng ngựa vào xe lái đi. Đây là một nơi hạ trại rất tốt.
Buổi tối có thêm hai người đàn ông tới chuyện trò. Nhiệt lượng kế đứng ở 92 độ.
Bà Cooley và tôi đi vào một ngôi nhà để mua sữa.
Ngôi nhà xúm xít đầy trẻ con và heo, tất cả đều lem luốc y hệt nhau.
20 tháng bảy.
Khởi hành lúc 1 giờ 10. Một con ngựa của gia đình
Cooley bị cứa đứt một vết nhỏ trên chân do vướng phải hàng rào kẽm gai.
Chúng tôi rời khỏiBridgewaternửa dặm về
phía đông. Ông Cooley lái xe vào thị trấn nhưng tất cả chúng tôi tiếp tục đi về
phía nam và đến một khu lúa mạch đầu tiên tương đối có giá đang được cắt. Từ
khi rời De Smet lúc này chúng tôi mới thấy thu hoạch nhưng lúa không tốt lắm.
Chúng tôi cho ngựa uống nước tại một giếng nước công
cộng chạy bằng cánh quạt gió ngay bên đường. Nước trên khắp hạt McCook đều tốt.
Các giếng có độ sâu trung bình chừng một trăm hai mươi bộ và gần như giếng nào
cũng có cánh quạt gió. Đây là một hạt ổn định. Khắp hạt McCook, năm nay là năm
mất mùa đầu tiên kể từ mười sáu năm qua. Có rất nhiều rừng cây nhỏ, những
ngôi nhà xinh xắn, những vựa lúa lớn và rất nhiều dây leo, nhưng chúng tôi
không thấy có nhiều bò dù có một xưởng sản xuất bơ và phomai tạiBridgewater. Mọi
người nói mùa lúa quá xấu nhưng đây là mùa lúa tốt nhất mà chúng tôi được thấy
lần đầu trong năm.
Vào địa phận hạtHutchinsonlúc 10 giờ. Ở
đây người ta đang cắt cỏ để phơi khô. Chúng tôi đi ngang một đống đá khổng lồ
đã được dọn sạch khỏi một khu đất. Thấy một số lúa mì khá tốt. Ông Cooley bắt kịp
chúng tôi lúc 12 giờ khi chúng tôi tới một khu định cư của người Nga. Ông ấy
không kiếm nổi lúa mì hoặc thực phẩm gì ởBridgewatermặc dù có ba
nhà máy xay trong thị trấn.
Khu định cư người Nga là những căn nhà, những lán
kho xây bằng gạch sống, những khu chuồng gà và những đống than trữ để đốt.
Nhà đều lui xa khỏi đường cái và hầu hết đều dựng thật dài, một đầu là nhà ở
còn đầu kia là lán kho. Chúng tôi ngưng trước một nhà để kiếm nước. Ở đó có một
gã ngớ ngẩn, một người đàn ông, một kẻ khủng khiếp.
Chúng tôi có thể thấy rừng cây dọc sông Jim nằm cách
bên phải chúng tôi chỉ sáu dặm nhưng xa tới mười tám dặm ở phía trước mặt.
Đây là một vùng dễ thương, nhưng lại có một người Nga nói “Chẳng có gì tốt cho
năm nay, chẳng có gì tốt cho năm ngoái.” Chúng tôi mang nước lên xe và hạ trại
không có nước tại một nơi rất tốt ngoại trừ việc thiếu hụt trên. Nhiệt lượng kế
trong xe ghi 100 độ.
Đường đi gần như hoàn toàn bằng phẳng suốt hai ngày,
chỉ thỉnh thoảng có một hẻm núi nhỏ, không có đồi. Đất ở đấy giá từ hai nghìn
năm trăm đô la tới ba nghìn đô la cho một khu một trăm sáu mươi mẫu.
21 tháng bảy.
Chúng tôi tưởng là đương nhiên khởi hành sớm, nhưng
lại có sự cố. Hết bánh mì nên chúng tôi phải nướng bánh quy và làm nước sốt với
món thịt gà nấu trong đêm trước tưới lên bánh quy rồi đặt tên là bánh thịt gà hấp.
Khi đóng ngựa vào xe, chúng tôi dùng con ngựa Pet và nó phóng đi.
Manly đã bỏ cương cho con ngựa con Pet nhỏ nên nó
không thể chạy theo mẹ. Tôi kêu “oa” cho xe dừng lại và tiến về phía con ngựa
con. Ngay khi nhìn thấy tôi đi tới, nó vùng chạy. Tôi không thể chụp nó lại.
Ông Cooley cưỡi một con ngựa giống da đỏ rượt theo nó và khi sấn lên nổi để chặn
ngang đầu nó thì nó đã chạy một đoạn khá xa. Nó sắp đi tớiMissourikhông
chờ chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi khởi hành vào lúc 8 giờ 20.
Chúng tôi di chuyển dần dần về phía bờ sông chỉ còn
cách chúng tôi năm dặm về phía tây bắc. Dọc theo bờ sông rừng cây rậm rạp. Ở
đây mùa vụ đã thu hoạch xong và đang bắt đầu cày đất.
Đúng 10 giờ 30, những bờ đất phía bên kia sông Jim
đã nằm trong tầm mắt.
Chúng tôi vào địa phận hạt Yankton lúc 12 giờ và lúc
này, 2 giờ 15, chúng tôi đang ở trên bình nguyên sông Jim. Mặt đất phẳng lì
như mặt nền nhà với một vài khu ruộng lúa chen giữa các đồng cỏ.
Chúng tôi nhìn thấy lần đầu tiên những hàng cây mọc
tự nhiên hai bên đường và cũng là những bụi cây nhỏ.
Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi nhìn thấy một khu một
trăm sáu mươi mẫu trồng lúa nằm một bên đường và một khu khác tám mươi mẫu ở
mé đường bên kia.
Chúng tôi hạ trại bên sông Jim dưới những cây lớn gần
một nhà máy xay chạy bằng sức nước.
Đây là một địa điểm rất dễ chịu. Chúng tôi ở không
xa một gia đình hoặc một khu định cư người Nga.
Họ hình như là một gia đình nhưng Manly nói anh đếm
được ba mươi sáu đứa trẻ đủ các cỡ tuổi còn ông Cooley nói có cả thảy năm mươi
đứa nhỏ dưới mười lăm tuổi. Tất cả bọn họ kéo tới chỗ chúng tôi hạ trại, đứng
bao quanh ngắm chúng tôi.
Người đàn ông có vẻ là thủ lĩnh của bộ lạc, hoặc cộng
đồng hoặc là một thứ gì đó, nói họ tới đây từ năm năm trước và lúc này họ đã có
mười bảy lô đất. Họ có nhiều đàn gia súc, những con ngựa rất tốt và ba trăm
con ngỗng.
Vào lúc hoàng hôn, một đứa con trai mang tới một con
cá lớn và hỏi chúng tôi có muốn mua không. Những người đang ông đã đi hết nên
tôi và Emma Cooley không biết định giá con cá bao nhiêu.
Cậu bé nói chúng tôi có thể trả cho cậu ta một dime
nhưng Emma và tôi không thể moi đâu ra một dime. Chúng tôi chịu thua khi những
người đàn ông trở lại và mua con cá. Vài phút sau cậu bé lại tới với hai con cá
nhỏ hơn, đòi được trả mười lăm xu, nhưng cuối cùng chịu bán với giá mười xu.
Ban đêm chúng tôi ngủ trong tiếng nước chảy xuôi.
Manly đập chết một con rắn vào chiều hôm đó.
Chủ nhật 22 tháng bảy.
Sáng nay tất cả chúng tôi đều đi tắm. Ông Cooley
cùng lũ trẻ kéo nhau xuống sông.Paul và George quấn dây quanh người và tập
bơi. Rose đi với bà Cooley cũng có một sợi dây quanh người do tôi giữ đầu dây.
Cô bé ra tới chỗ nước sâu ngang người, lội nước loanh quanh rồi ngồi xuống cho
nước dâng lên tới cằm. Suốt ngày những người Nga, gồm cả người lớn và con nít,
không ngừng đeo theo chúng tôi. Họ không thể nói chuyện và chỉ hiểu rất ít. Họ
khá tử tế, mang tới tặng cho chúng tôi sữa và một thùng lớn bánh quy. Bánh quy
của họ xốp và rất ngon. Chúng tôi có cảm giác như đã quen biết với họ, nói cho
họ biết tên của từng người trong chúng tôi và hỏi tên của họ rồi để họ ngồi
đung đưa trên võng và trên những chiếc ghế. Họ hết sức tò mò, muốn xem xét mọi
thứ rồi bàn tán với nhau.
Họ mời chúng tôi tới thăm nhà họ và Manly cùng đi với
tôi. Họ chỉ cho chúng tôi những con ngỗng và những người đàn bà vắt sữa bò đang
vắt sữa. Những người này giống hệt như trong những bức hình vẽ các cô gái vắt sữa
và các nông dân Đức và Nga. Tóc họ vàng óng, chải thật mượt xuống hai bên má rồi
kết bím thả lỏng phía sau và mỗi người đều buộc khăn ở trên đầu. Tất cả đều mặc
cùng kiểu áo đầm. Đó là những chiếc áo dài bằng thứ vải màu xanh, không có ống
tay nhưng những chiếc sơ mi màu trắng phía trong của họ lại có những ống tay thật
dài. Đám đàn ông đều để râu quai nón dài và hoe vàng. Những người này đều mặc
áo choàng màu xanh dương dài gần tới đầu gối với đai lưng buộc quanh eo. Tất cả
đều lễ độ, tươi cười hình như đang cố cho thấy họ rất mừng vì chúng tôi tới
thăm. Họ cho thêm chúng tôi một thùng sữa tươi còn ấm và Manly tặng lại họ một
mồi lửa. Một người đàn ông có vẻ đã Mỹ hóa được Manly chậm rãi chỉ dẫn về chiếc
mồi lửa không thể bị cháy và ông ta nói ông ta hiểu. Nhưng ông ta không tin nó
lại không bị cháy cho tới khi Manly thử cho thấy.
Khi chúng tôi sắp đi, một người đàn bà tới mở phần
áo phía trước ngực lôi ra một bọc bánh quy đang áp ngay trên làn da trần của bà
và tặng cho tôi. Người đàn ông nhắc tôi nên cất vào trong áo nhưng tôi buộc lại
trong chiếc khăn tay sạch của Manly. Người đàn ông nói không dễ nướng bánh quy
với những người đang di chuyển. Đáng tiếc là phải hoang phí bánh quy nhưng
chúng tôi không thể ăn được.
Những người Nga có một con chó cực lớn. Nó cao hơn
thắt lưng tôi và đầu nó y hệt đầu một con chó sói nhưng to hơn. Tai nó được xén
tỉa để giống như tai chó sói và lông nó toàn bộ màu nâu sáng. Nó rất dễ thương,
cọ người vào Rose và tôi và chúng tôi vòng tay ôm quanh cổ nó. Có một con chó
con giống nó như đúc và Manly vật nài mua nhưng họ không chịu bán.
Họ có những nhà kho rất đẹp, những máng lúa lớn và một
chiếc cối xay gió. Đất đai của họ chạy dọc bờ sông. Mỗi người trồng trọt trên đất
riêng của mình nhưng lợi tức được gom chung lại hết.
Chúng tôi đã qua một ngàychủnhật thoải
mái nhất và được nghỉ ngơi.Paul leo lên lưng con Pet nhỏ và con ngựa con
không bận tâm về chuyện này, nó khá ngoan ngoãn.
23 tháng bảy.
Chúng tôi khởi hành lúc 8 giờ. Thấy ghét phải rời khỏi
chỗ hạ trại có vẻ như đã là nhà của mình. Chúng tôi qua sông James và chừng hai
mươi phút sau đã tới đỉnh của những bờ dốc thẳng đứng phía bên kia. Tất cả
chúng tôi đều dừng lại nhìn ngược về quang cảnh phía sau và tôi ao ước mình có
được bàn tay của một họa sĩ hay khối óc của một thi sĩ hoặc có khả năng kể lại
bằng những đoạn văn xuôi khúc chiết cảnh sắc tuyệt vời như thế nào. Nếu tôi là
người da đỏ, tôi sẽ lột da đầu thêm nhiều người da trắng nữa trước khi rời bỏ
nơi này.
Chúng tôi có thể nhìn thấy dòng sông uốn vòng dưới
thung lũng với mặt nước rạng ngời qua những hàng cây lớn mọc trên bờ. Bên kia
dòng sông, những vách đất vươn cao trần trụi nâu cháy trên màu xanh mượt mà của
cây cỏ và mặt nước lấp lánh. Phía bên này cũng lại những vách đất giống các đợt
sóng khổng lồ màu nâu dâng lên hỗn độn.
Phía bên này sông James, chúng tôi đi ngang những
cánh đồng lúa cao tám bộ. Dọc các vệ đường là những cây bông gòn lớn cỡ 10
inch và cao tới ba mươi lăm, bốn mươi bộ. Nhưng tất cả hình như đều cháy xém
và trơ trụi sau những vùng đất chúng tôi hạ trại.
Đã 10 giờ. Nhiệt độ là 101 độ trong bóng mát và
không khí ngột ngạt.
Lúc 11 giờ, còn cách Yankton chín dặm, chúng tôi ngừng
lại bên một cối xay gió cho ngựa uống nước. Ông chủ của căn nhà nói với chúng
tôi là ông phải tốn năm nghìn đô la suốt ba năm trong thập kỉ 80 không có
nhà.
Không xa Yankton, chúng tôi băng qua một trảng đất
khô với những vách đất trơ trụi ở hai bên. Khắp nơi chỉ có những tảng đá và những
cụm cỏ lúa khô giống như những đống cát lớn trôi dạt dồn tụ lại.
Chúng tôi tới Yankton lúc 4 giờ. Xe chạy ngang một
dưỡng trí viện. Những tòa nhà trông khá đẹp được dựng ở giữa một trang trại lớn
với nhiều mẫu bắp và khoai tây. Manly muốn ngưng lại vào dưỡng trí viện nhưng
tôi không chịu nên chúng tôi tiếp tục đi. Chúng tôi đi ngang trường Cao đẳng
Yankton cũng là những tòa nhà khá đẹp.
Nhưng tôi vô cùng thất vọng khi vào Yankton với
quang cảnh của một vùng bùn đất. Chúng tôi lái xe chạy khắp thị trấn tìm mua một
chút lương thực cho lũ ngựa, qua khắp các nhà máy xay, các kho hàng, cuối cùng
chỉ mua nổi vỏn vẹn hai bao hạt vụn và khắp thị trấn không có nổi một miếng cao
dán. Trong các cửa hàng bán thực phẩm không có rau tươi và cũng chẳng có một thứ
trái cây nào. Sẽ là một ân huệ lớn cho Yankton nếu cửa hàng Carpenter chuyển tới
đây hoặc các người dân ở thị trấn này được tới De Smet để kiếm những thứ cần
dùng. Thị trấn có hai vựa lúa, hai hoặc ba nhà máy xay, sáu kho thực phẩm,
nhưng chúng tôi chỉ kiếm nổi số thức ăn mang theo khoảng hai túi xách.
Tôi không phải đụng tới túi tiền dù đã bỏ rất nhiều
thời gian lùng mua thực phẩm khắp thị trấn đến nỗi ông Cooley qua phà trước. Bà
Cooley vàPaul qua sông rồi phà quay lại đón ông Cooley. 6 giờ, đúng lúc
phà sắp rời bến trở lại đón chúng tôi đang đợi ở mé sông bên này thì một cơn
bão nổi lên.
Không có mưa mà chỉ có gió và bụi.
Chúng tôi phải quay mặt ra phía sông ẩn sau xe để
tránh bị gió thổi đi. Gió nhấc bổng bánh xe sau lên hai lần trước khi Manly cột
chặt vào cọc. Người lái phà không dám qua sông trong lúc đang có bão. Ông ta chờ
ở phía bên kia cho tới khi bão tan và chúng tôi sợ rằng ông ta không chịu qua
trong đêm đó. Nhưng ông ta đã qua.(1)
(1) Khi những bánh sau của cỗ xe nhấc lên tựa hồ xe
lăn nhào xuống sông, cha tôi nhảy ra ngoài, đặt dây cương vào tay mẹ tôi. Trong
lúc mẹ tôi nắm dây cương và trấn an lũ ngựa đang căng thẳng, tôi vươn cổ ra
ngoài tấm vải che bên cạnh xe để nhìn xem cha tôi đang làm gì. Ông đang đóng những
cây cọc buộc sâu vào trong đất rồi dùng dây buộc chặt bánh xe vào đó. Ngay sau
chúng tôi là một cỗ xe phủ kín mít và sau cỗ xe đó là một cỗ xe khác rồi một cỗ
xe khác nữa. Xa hút tầm nhìn của tôi, các cỗ xe nối đuôi nhau đứng thành một
hàng dài. Sau một cỗ xe là một cỗ xe khác và phía sau những cỗ xe nhưng ở trên
cao là nửa vùng trời phủ trong lớp sóng bụi màu vàng đang cuồn cuộn kéo tới. Mẹ
tôi nói với tôi: “Đó là cái nhìn cuối cùng của con hướng về Dakota đó.”
Khúc sôngMissourimà chúng tôi băng qua rộng
khoảng một dặm và rất nhiều bùn lầy. Tôi không hề thắc mắc về việc chỗ này có
tên là Vũng Bùn Lớn và khi nhìn thấy bụi đất bị gió cuốn xuống đó, tôi đã nghĩ
không có gì ngạc nhiên khi chỗ này đầy bùn. SôngMissourichẳng có gì
đẹp như sông Jim.
Pet không bối rối chút nào ở trên phà mà chỉ kéo xe
lên một cách ngoan ngoãn rồi đứng yên tối đa trước khi lặng lẽ kéo xe rời khỏi
phà. Con ngựa con Pet nhỏ thong thả lên phà và đứng im bên cạnh mẹ như một con
chuột.
Đi khỏi sông chừng một dặm, chúng tôi hạ trại. Nhiệt
độ là 98 độ.
24 tháng bảy.
Ông Cooley dậy sớm đi câu
nhưng chẳng được gì. Tất cả chúng tôi đều mệt nhoài vì đêm trước thứ khuya nên
mãi 9 giờ mới khởi hành nổi. Do đi lạc đường chúng tôi phải quay về bờ sông để
bắt đầu khởi hành trở lại. Chúng tôi đi theo sông một đoạn đường ngắn và có thể
nhìn xuống một khoảng bốn năm dặm trên mặt nước trong dòng sông. Đó là một
quang cảnh thật tuyệt dù rằng cảnh sắc trên bờ chẳng có gì đáng kể. Điều gì khiến
mặt nước luôn gây xúc động cho người ta như vậy? Tôi chưa từng được thấy một
dòng sông hay một mặt hồ lớn nhưng tôi nghĩ là tôi vô cùng thích thú được nhìn
thấy một vùng chỉ có nước và thích thú được nhìn mặt nước qua mọi đổi thay của
nó.
Hai bờ
sôngMissouriđang bị xói mòn và trút đất lở xuống nước. Một khúc đường
đã trụt hết và trên dòng sông là những khoảng đất bằng. Trước khi tới sát các
vách đất, chúng tôi nhìn thấy một loạt hai mươi tư đống cỏ khô và việc cắt cỏ
chỉ mới bắt đầu. Bốn chiếc máy cắt cỏ đang hoạt động. Giá cỏ khô ở Yankton là
chín đô la một tấn.
Rồi, chúng tôi đã tới các
bờ vách. Trên bờ sông bên kia, các vách đất giống như bị xén bởi một nhát dao
nhấn thẳng từ trên xuống. Trên mặt vách không có một cọng cỏ. Dọc theo chân bờ
vách, cây lớn đang vươn lên thành một hàng rào chắn gió nam. Mận, nho, lí chua
đen, cỏ ba lá ngọt mọc hoang trong thung lũng. Cỏ ba lá cao tới tám bộ. Và,
chúng tôi đã nhìn thấy những cây sồi đầu tiên.
Chúng tôi đang đi qua những
vách đất, những ngọn đồi trơ trụi, không có nhà cửa, đồng lúa, cây lớn và một
ngọn cỏ. Manly nói không bao lâu nữa anh có thể làm chủ toàn bộ
vùngNebraska, nếu có thể rào bọc lại. Xét qua những gì được nhìn thấy,
vùng này vẫn có thể là một bãi chăn nuôi nếu không nuôi nhiều gia súc quá.
Nhưng trước mắt tôi thì vùng này chẳng có gì, chẳng có gì ở đây cả.
Chúng tôi gặp những cỗ xe
thùng đang đi về hướng bắc. Manly nói chuyện với hai người đàn ông đang đi từKansastớiNamDakota.
Họ nói tạiKansaskhông còn gì.
Nhưng lũ gà mái đang đẻ trứng.
Nhiệt độ là 110 độ.
25 tháng bảy.
Chúng tôi nghỉ đêm giữa những
ngọn đồiNebraska, dưới một trũng đất thấp, không nhìn thấy một mái nhà.
Buổi sáng, tôi thích ngắm những ngọn đồi nhưng không có gì quyến rũ trong sự
đơn điệu của chúng.
Chúng tôi khởi hành lúc 7
giờ 35. Buổi sáng se lạnh dễ chịu. Qua Hartington lúc 8 giờ 30. Thị trấn này
khá đẹp, tôi thích ở đây hơn hẳn Yankton dù nó nhỏ hơn. 12 giờ 30 quaColeridge,
một nơi không khá gì. Gió đang thổi và bụi bay mù mịt.Chuyện trò về những
con đường đất nên tại Dakota.
Cho tới lúc này, tôi chưa
hề nhìn thấy những con đường như thế. Càng thấy rõ Nebraskahơn, tôi càng
không thích vùng này. Suốt ngày chúng tôi leo trèo trên những vách đất.
Ngay phía
namColeridge có hai mươi hai gia đình sẽ lên đường
điMissouritrong vòng sáu tuần tới, dù vùng này rất thưa người định
cư. Một người đàn ông nói là ông ta đã sống tại đây sáu năm nhưng chưa lấy một
lần được mùa nào.
Chúng tôi hạ trại bên con
suối cách thị trấn Beldon một dặm về phía đông nhưng vẫn nhìn thấy thị trấn.
Không có ngay cả một bụi cây để ngắm. Manly bận làm các việc vặt nên ông Cooley
đi câu. Ông ấy câu được mười một con cá. Nhiệt độ là 109 độ.
Người đàn ông ở gần chỗ
chúng tôi hạ trại đang làm cho một người ở thị trấn Sioux là chủ cả thảy ba
nghìn mẫu đất ở đây trong đó có năm trăm mẫu bãi chăn nuôi và hai trăm năm
mươi mẫu đồng cỏ.