01. Xê dịch - Phần 1
“Thằng Thụy sến, nhưng cái sến của nó mang cả một bầu trời của hoài niệm
về những ngày xưa cũ. Văn thằng Thụy cũng như con người nó, đầy chất tự sự, đầy
chất hoài niệm và đầy chất thơ. Thằng Thụy viết ngày hai mươi, nhưng đọc của
nó, lại cứ thấy giống của một người ngoài năm mươi đang ngồi dẫm trà, nhớ về kỉ
niệm xưa. Mà kỉ niệm, thì lúc nào chẳng đẹp, vì người ta không bao giờ tìm lại
được cảm giác như kỉ niệm lần nào nữa trong đời. Vì vậy, đọc văn thằng Thụy
cũng thấy cái vẻ đẹp phảng phất mùi kỉ niệm đó”.
(Nguyễn Ngọc Thạch)
Lời tựa
Tôi gọi đây là tập biên chép của những kỉ niệm.
Là hành trình và những chuyến đi.
Là bản ngã tự vấn tự đáp, như một tiếng kêu.
Là một mối trắc ẩn kể lể chuyện xưa, chuyện nay.
Là một mảnh hồn say đắm trong yêu đương.
Là một người rong ruổi ngồi sắp những con chữ.
Tôi nghĩ, đời sống có nhiều thứ diễm lệ và khí chất hơn việc chỉ khư khư
sầu đau mỗi chuyện ái tình.
Từ đó, tôi viếtÐộc thoại hai mươi.
(Mạc Thụy)
Xê dịch
Khi người ta trẻ, cái trẻ không chỉ về thể xác, người ta thích đi lại.
Thời các vị như Nguyễn Tuân, sự đi lại đạt thành đỉnh cao đến mức tạo
thành chủ nghĩa xê dịch. Xê dịch như một cách thoát li thời cuộc, để tìm kiếm
và khám phá những điều mới và đẹp.
Người trẻ hôm nay cũng ham mê sự xê dịch.
Chưa bao giờ người ta chứng kiến phong trào đi lại mạnh mẽ gọi nên tên
thành “phượt”như hiện nay.
Người trẻ ngày nay có cách đi riêng của họ. Với họ, đi là để trải nghiệm
và mở mang. Ði không phải để trốn tránh. Ði là để lớn lên.
ChoÐộc thoại hai mươi, tôi viếtXê dịchtừ những thứ
nhặt nhạnh đó đây trong từng góc hồn, nơi những miền đất tôi được dịp đặt chân
đến và vấn vương nhiều mối tình cảm.
VớiXê dịch, tôi muốn ghi dấu sự xê dịch như một gam màu sắc ấm nóng và hiện hữu của
đời sống.
Nhớ con sông quê hương[1]
[1]Tên một bài
thơ của nhà thơ Tế Hanh.
Trong dòng đời sống của mỗi con người, ai cũng có một thứ gắn liền với
mảnh đất nơi họ từ đó bước ra đi, để nhớ nhung về, để thương yêu và thổn thức về.
Với mảnh đất ấy, trong tôi là một con sông.
Có những đêm Sài Gòn sương xuống trở lạnh, việc của đời, tôi tạm gác lại,
và ngồi thở khó nhọc vì sự ngột ngạt của căn gác trọ. Những lúc ấy, tôi thường
mở toang cửa sổ, mong tìm kiếm một cơn gió đi lạc vào chốn nhà len chặt nhà,
mong tìm thấy một ánh trăng bàng bạc lọt qua khung trời dần kín mít những tầng
là tầng cao. Những lúc vận may mỉm cười, tôi vẫn tìm được sự cứu rỗi trong phút
chốc.
Có đôi khi, tiếng rao lạc lõng giữa đêm hun hút, lại cồn cào trong tôi
nỗi nhớ: về con sông quê hương. Về những đêm bên này bờ nhìn bên kia bờ dưới
ánh đèn vàng vọt. Về những người xa và vài mảnh tình con con êm ái.
Dân vùng gọi nó là Cà Ty. Tôi gọi nó là sông Mong. Mong chờ.
Một điều lí thú là, có khá ít những con sông chảy băng ngang qua giữa
trung tâm thành phố. Nhưng, hễ có con sông nào ngạo nghễ cắt thành phố ra đôi bờ
bên này bên kia thì hẳn thể nào cũng nên thơ, nên văn.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tạiwww.gacsach.com- gác nhỏ cho người yêu sách.]
Có thể kể ra trên đầu ngón tay sơ sơ vài cái tên nổi tiếng, được vào
thi ca. Bên Tây có dòng La Seine, đằm thắm dạo chơi qua Paris, êm ái và kiêu kì
như một nàng tiểu thư đài các. Giữa những đêm huyền diệu bên dòng La Seine, nhạc
sĩ tài danh Matthieu Chedid đã cảm tác nên bàiLa Seinelàm
rúng động con tim bao thế hệ. Bản này, nàng “chanteuse” Bạch Yến của Việt Nam
cũng từng ca qua và nhận được nhiều sự yêu mến từ cả dân Paris lẫn dân Việt.
Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ của Việt Nam khi sang đây du học hoặc định cư đều không
thoát khỏi vẻ đẹp mê đắm của dòng sông Seine, để rồi viết nên những lời thơ, ý
nhạc trở thành bất hủ, như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Anh Bằng, Lam Phương…
Rồi nhiều nữa những dòng Thames của Anh Quốc sương mù vương vấn, hay
dòng Danube với nhạc phẩm huyền thoạiLe Beau Danube Bleu(tên
tiếng Việt làDòng sông Xanhgắn liền với tiếng hát của đại
danh ca Thái Thanh).
Ở ta thì không thể không nhắc đến dòng Hương Giang. Nàng Hương Giang sầu
mộng đi vào không biết bao nhiêu lời văn, ý thơ, tứ nhạc của các tài danh xứ Việt.
Biết bao cuộc tình thơ mộng và biến động thời cuộc bên dòng xanh thẳm này. Ấy vậy
mà người ta vẫn nghêu ngao hoài:“Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc buồn,
điệu nhạc quê hương…” (Hương ca vô tận -Trầm Tử Thiêng), rồi
thì:“Dòng sông Hương vẫn mơ, thời gian trôi chưa xóa màu xanh mơ hồ…”
(Trở về Huế -Văn Phụng),để rồi tự vấn hoài câu hỏi mãi
chẳng có lời đáp:Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Dòng Cà Ty của Phan Thiết - dòng Mong Chờ của tôi - thì chẳng chảy dài
trong từng áng thi văn như thế. Dòng Mong Chờ chỉ tuôn mãi trong hoài niệm và
kí ức của những con người dung dị nơi phố biển này mà thôi, trong đó có cả tôi,
qua những câu chuyện má kể, qua những sớm tối rong ruổi dưới ánh đèn màu…
Dòng sông chảy dài qua Phan Thiết êm êm một màu phù sa từ thượng nguồn.
Mạn đầu lúc mới vào thành phố, hai bên bờ len kín những nhà là nhà của bà con
làng chài. Từng manh lưới, cái thúng đến nong khô cá được dân chài phơi phóng
giữa ngày ngư nhàn tạo nên một bức tranh miền biển rộn rã, yên bình và mặn mòi.
Nhà cửa hai bên bờ thường xây theo kiểu dã chiến, nửa nhà sàn vươn ra phía
sông, hoặc ai khấm khá thì đôn nền thật cao để tránh khi nước lớn.
Ở mạn cuối trước khi dòng sông đổ ra cửa biển, và cũng là trung tâm
thành phố, hai bên bờ dần được cải tạo thành hành lang ven sông, khá tươm tất
và đẹp mắt. Ðoạn gần cảng biển, tàu bè đậu nhiều lắm. Những con tàu đánh cá bằng
gỗ ván, dày dạn sóng gió.
Ngày ấy, tôi thường cưỡi trên chiếc xe đạp sườn ngang của mình, đi dọc
con sông đến cảng biển. Những chiều lộng gió, tôi đứng dưới ngọn hải đăng, nhìn
theo dòng Mong Chờ chảy trôi, ra đi, hòa nhịp vào con sóng ngoài xa khơi kia,
lòng thầm tiêng tiếc như tiễn đưa một cái gì thân thuộc. Nhưng thủa ấy, đầu óc
non nớt của tôi còn chưa kịp định hình nên cái gì thật rõ ràng.
Ði ngang qua phố biển nắng gió chỉ một đoạn ngắn ngủi mà Cà Ty có tới
ba cây cầu. Dục Thanh là cây cầu cao nhất, sát cạnh là mái trường cùng tên, nơi
năm nào cùng phong trào chấn hưng dân trí, nguyện lời thề cải cách giống nòi.
Tiếp theo là Lê Hồng Phong, cây cầu dây văng thứ hai của Việt Nam. Xưa kia, nó
vốn là một cây cầu được làm từ gỗ và sắt, tôi vẫn hay gọi đùa là “cầu Long Biên
của Phan Thiết”. Ngày còn nhỏ, tôi sợ lắm mỗi khi được ba má chở qua cây cầu
này. Tiếng rít liên hồi của kim loại chịu lực cộng với cảm giác bập bà bập bềnh
làm tôi nổi hết da gà, bất cứ lúc nào cũng tưởng như cầu sẽ đổ sập xuống dòng
nước đục ngầu phù sa dưới kia.
Trần Hưng Ðạo là cây cầu cuối cùng trên khúc Cà Ty chảy qua phố, nằm
sát cảng biển, cạnh bên là tượng của ngài Hưng Ðạo Vương uy dũng chỉ tay xuống
dòng sông đang nhẹ nhõm trôi xuôi ra cửa biển.
Kể về những cây cầu, tôi lại nhớ nhiều mẩu chuyện được nghe về một thời
người ta thương nhau bằng nụ cười và nước mắt, vượt nắng, vượt gió, vượt mưa
sa. Tôi đã từng suýt xoa ngưỡng mộ người con gái năm nào bụng dạ trĩu nặng
trong lúc đợi chờ con triều xuống để lội qua dòng nước tưởng chừng êm ái, sang
bên kia bờ, tìm bóng người thương đang cuốn mình vào cuộc mưu sinh. Tôi đã từng
buồn hiu tiếc hoài cho đôi bóng muôn đời lẻ bóng, người bên này sông khóc kẻ
bên kia sông, cách một dòng mà tình xa xôi bởi đời thăm thẳm. Có những con chiều
xập xệ, người đàn bà hai màu tóc ngồi đan lưới khắc khoải, đành đoạn tặc lưỡi rồi
nhìn hun hút vào dòng sông mà mong chờ điều gì xa xăm không nói nên thành lời.
Dòng sông tưởng chừng êm đềm…
Có mùa nước lớn năm nào, nhà tôi không còn bóng đàn ông trưởng thành,
chỉ có má, nội và cô út của tôi. Năm đó, nước dòng Mong Chờ lên lớn lắm. Lớn gấp
nhiều, nhiều lần những chiều chiều bánh xe tôi lăn tròn, lăn tròn rong ruổi.
Dân chài ven sông lục tục rời bỏ căn nhà gỗ ván ọp ẹp của mình, gói ghém mấy thứ
quý giá, cột chặt mấy món nội thất trong nhà rồi kéo nhau lên chỗ cao ráo mà
chính quyền đã xếp sẵn cho họ tá túc qua cơn lũ chực chờ.
Nhà tôi, đúng ra là nhà nội tôi, cách con sông ba phút đi bộ. Tôi mon
men theo người lớn đi ra phía bờ sông, hoang mang nhìn con nước lớn dần, lớn dần.
Mấy người đàn bà trong nhà tôi tất tưởi về gói ghém đồ đạc quan trọng cất lên
căn gác gỗ, mệt nhọc nhất là mấy bao gạo to và nặng trình trịch (nội tôi buôn
bán thứ này). Lúc ấy, tôi ước ao mình lớn thật nhanh để khỏi phải líu ríu nhìn
những con người tay yếu, chân mềm mà tôi yêu hết mực này phải lấm tấm mồ hôi,
khuân vác trong lo âu.
Lúc bao gạo cuối cùng yên ắng trên căn gác, cũng là khi nước lũ lấp xấp
trước cửa nhà. Vài cành cây khô gẫy va vấp theo sóng nước, ì oạp vỗ vào thềm gạch
nghe chộn rộn. Lúc này, mẹ tôi phải lội con nước hãy còn ngang gối, sang nhà
hàng xóm để nhờ một anh thanh niên cắt giúp đoạn dây điện trước khi cả nhà dời
hết lên gác, trú ẩn qua con nước lớn này.
Năm đó, tôi chép lại trong nhật kí của mình một “sự kiện” - dòng Mong
Chờ tự mình phá bỏ cách biệt đôi bờ. Chẳng còn bờ bên này hay bờ bên kia để ai
ngóng trông ai, ai buồn thương ai cả. Mọi thứ đều chìm sâu dưới lòng nước êm êm
kia.
Ngay cả lũ lụt, cái dòng Mong Chờ này cũng kì quái lạ thường. Chẳng ào ạt,
dữ tợn như thường thấy ở những con lũ khác, Mong Chờ cứ nhẹ nhàng, từ tốn và
khoan thai dâng nước như người ta xả nước đầy bồn chứa vậy.
Trong đám người lúp xúp tị nạn đêm đó, bà già đan lưới nức nở nắm lấy
tay ông già còm cõi chiều chiều ngồi thổi sáo bên kia sông. Tôi tự hỏi, và chắc
Mong Chờ cũng tự hỏi, ba cây cầu mà điều chi ngăn cách?
Rồi, cũng chính Mong Chờ cho tôi câu trả lời…
Nước nhẹ nhõm lan dần khắp thành phố. Như gột rửa điều chi, kéo theo điều
chi ra biển khơi cuộn sóng.
Sáng hôm sau, lũ rút. Một lớp phù sa mới tinh ẩm ướt vương khắp nền nhà
tôi và các con đường trong thành phố. Người ta tươi cười dọn dẹp và bông đùa
cùng nhau. Giống như chưa từng có cơn lũ nào đi qua vậy.
Chẳng có sự trừng phạt nào xảy ra. Chỉ có sự chữa lành và gột rửa. Mong
Chờ nhẹ nhàng xoa dịu những nỗi đau của đời sống tù tội hai bên bờ.
Năm đó, là lần thứ hai dòng Mong Chờ trở mình. Lần đầu là năm tôi sinh
ra, như lời mẹ kể.
Nắng trời Nhật Bản
Tôi đáp chuyến bay đến Tokyo vào những ngày tháng Tám.
Ðây là chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi: đầy hồi hộp và bấn loạn. Phải
nói thêm là, tôi sống cách Sài Gòn khoảng hai trăm cây số về phía Bắc. Bởi vậy,
hành trình từ nhà đến phi trường Tân Sơn Nhất khiến tôi mệt lả đi và làm hao
mòn không ít hào khí“Cố lên Nhật Bản!”đang hừng hực. Ðã thế,
tôi còn bị “hăm dọa” về nhiều thứ, đại loại như “sốc mây”. Bây giờ, khi không
còn mấy xa lạ với phương tiện hàng không, ngẫm nghĩ lại tôi không khỏi phì cười.
Rốt cuộc thì tôi cũng ngủ ngon lành trên máy bay, bên cạnh một người
đàn ông Mĩ tốt tính vừa kịp chuyện trò vài câu lúc máy bay cất cánh.
Từ trên cao nhìn xuống, Tokyo gọn gàng và xanh mướt thành từng mảng
vuông vắn. Khí quyển của vùng này trong lắm. Trong vắt, đến nỗi có thể thấy rõ
từng chiếc xe tải của nông dân đi thăm đồng đang chuyển động, nom bé xíu. Tôi hồi
hộp dán mắt qua khung cửa máy bay, nhìn mây trôi lững lờ, mỏng tang và nắng
vàng óng, dịu nhẹ phủ khắp dải đất phía dưới.
Sắp rồi!
Lòng tôi chộn rộn bởi cảm giác sắp hòa vào dòng người ở xứ sở mộng ước
trong từng thước phim, trang truyện. Ðến nỗi, quên mất cảm giác hồi hộp, lo lắng.
Ðến nỗi, quên mất đang một mình giữa một xứ người lạ hoắc. Ðến nỗi, quên mất
năm ấy tôi mười bảy.
Tôi cảm thấy mình nhỏ xíu giữa phi trường Narita rộng lớn và chật ních
người. Ông chú người Mĩ vẫy tay chào tôi trìu mến rồi vội vã sang chuyến bay
chuyển tiếp để về nhà.
Tôi bắt đầu thấy hơi run. Run tới nỗi xếp nhầm vào hàng trình hộ chiếu
của dân Nhật. Anh nhân viên hải quan từ tốn đưa hộ chiếu lại cho tôi bằng hai
tay, rồi đưa bàn tay hướng về phía bàn cách đó vài hàng người và nói thứ tiếng
gì đó nghe dễ thương như trong những bộ phim hoạt hình Nhật tôi từng xem. Anh hải
quan mới, sau khi đóng cho tôi vài dấu mộc cũng trịnh trọng trao trả hộ chiếu
và không quên cúi đầu chào mừng tôi đến với đất nước của anh. Tôi tự hỏi, rất
ngô nghê, cả ngày, cả tháng, cả năm đều cúi chào như thế với nhiều thật nhiều
người, anh có mệt hay phát chán không nhỉ? Nhưng rồi, tôi cũng có câu trả lời.
Cúi chào là thói quen, và là nét văn hóa đẹp của dân Nhật rồi. Họ thấy trân quý
và hãnh diện khi thực hành nếp văn hóa trang nhã này của xứ sở mình.
Người của đoàn đón tôi với ánh nhìn trìu mến và nụ cười rất Nhật Bản.
Người Nhật, họ cười cả bằng môi và mắt. Lắm khi môi chưa kịp nhoẻn thì mắt đã
ánh lên nụ cười. Nắng trời Nhật Bản vàng óng ban nãy cũng chỉ ấm áp đến chừng
này mà thôi.
Ðợi chờ một lát, chuyến bay của vài người bạn đến từ các nước lân cận
cũng đáp tới, chúng tôi hồ hởi leo lên chuyến xe buýt về khách sạn: không gì trọn
vẹn, thú vị bằng ngắm nhìn cuộc sống của một nơi chốn qua cửa kính xe.
Tokyo vắng người quá, sao không sầm uất như tôi vẫn hằng tưởng nhỉ? Hỏi
han cô bạn bản xứ, được biết, thì ra đang là giờ hành chính, mà dân Nhật thì cực
kì nghiêm túc khi làm việc, nên đại đa số đang ở trong các cao ốc công sở cả.
Ðó là một lí do vì sao lúc này lại ít thấy người trên đường. Lí do khác nữa là
vì người ta đang… ở dưới lòng đất cả rồi. Là xe điện ngầm. Chằng chịt và đầy bí
ẩn với tôi.
Khi tôi nói rằng mình đến Nhật, ai cũng đinh ninh về việc được ngắm hoa
anh đào. Than ôi, nhưng vào mùa hè thì làm gì có hoa anh đào để mà ngắm. Song,
bù lại, tôi được chìm đắm trong một thứ “đặc sản” quý hiếm khác của xứ sở này.
Là nắng, nắng trời Nhật Bản.
Nắng ngày hè ở đây hãy còn dìu dịu, và đặc biệt là nắng rất trong. Dưới
ánh nắng trời, những đôi mắt lúng liếng đầy tình ý, những miệng cười e ấp, những
tiếng ríu rít trong trẻo của thiếu nữ như cùng hòa điệu với vẻ trong của nắng.
Ðắm mình. Say sưa. Phải các cô gái nhà mình thì sẽ che chắn rất kĩ càng, để
tránh cái nắng nhiệt đới chói chang thiêu đốt.
Cũng phải thôi. Mùa đông của Nhật lạnh lẽo và kéo dài, nắng ấm và trong
veo thế này hiếm hoi lắm mới chịu ló mặt, chẳng trách nó làm say lòng những thiếu
nữ thanh xuân rời rợi kia. Và nhất lại là nắng trong. Trong và tinh sạch lắm.
Ðêm buông xuống. Ngồi thừ bên bàn, tôi ngóng ra phía cửa sổ áp kính lặng
thinh, nhìn khoảng trời cao vút vằng vặc trăng soi. Hãy còn vương mệt mỏi sau
chuyến bay thẳng dài năm tiếng, mà cảm giác nhớ nhung bất giác vồ vập.
Lúc ấy, thưở mười bảy, tôi không nghĩ rằng mình có thể hoàn toàn thấu cảm
hết thảy những giai điệu của Trịnh Công Sơn. Nhưng thực sự rung động trong thời
khắc ấy là có thật. LàChiếc lá thu phai.
“Về đây đứng ngồi
Ðường xa quá ngại
Ðể lòng theo chút nắng bên ngoài
Mùa xuân quá vội
Mười năm tắm gội
Giật mình ôi chiếc lá thu phai…”
Cái tâm tư của một người lặn lội nơi đất khách quê người, kì diệu thay,
qua từng con chữ mà Lệ Thu hát lại thấm rõ mồn một trong tâm thức của tôi. Trăn
trở, mỏi mệt, bồn chồn. Và cả những mong ngóng, hoài vọng. Thoáng rùng mình,
tôi áp má vào khoảng trời bên ngoài, miên viễn dõi theo từng chiếc máy bay cất
cánh cao vút. Ðời người là những chuyến đi. Thôi thì, cứ đi đi, đến khi nào ta
vẫn còn có thể dấn bước.
Tôi thiếp đi trong tiếng nhạc êm đềm và ánh trăng se sắt qua rèm cửa.
Sáng hôm sau, cùng những người bạn mới quen, tôi di chuyển từ sớm ra
sân bay Haneda, một sân bay nội địa của Nhật, để bay sang tỉnh Okinawa, nơi hiện
đang có quân đội Mĩ đóng quân. Vùng đất này thời tiết từa tựa như miền Nam của
Việt Nam, là một địa danh du lịch đẹp của Nhật. Tôi chủ yếu ở đây trong suốt thời
gian lưu lại Nhật.
Mảnh đất Okinawa tràn đầy nắng ấm, bãi biển trải dài xanh ngan ngát. Những
cơn mưa chợt đến rồi chợt đi, trả lại khung trời hửng nắng. Cầu vồng là thứ tôi
gặp thường xuyên trên bãi biển nơi đây.
Tuần đầu tiên, chúng tôi dừng chân tại Itoman Youth House. Tại đây,
chúng tôi tập làm quen với cuộc sống tập thể, dần dà thích nghi với sự khác biệt
về văn hóa, những điều cấm kị về tôn giáo, sắc tộc. Ví dụ, bạn không được chạm
vào người một cô gái đạo Hồi, thay vì bắt tay thì chỉ được chắp tay chào. Hay,
người Lào thường dùng muỗng và nĩa, họ chỉ dùng đũa khi ăn mì. Ở đây, chúng tôi
học theo kiểupractice to learn(làm để hiểu), nhờ vậy mà nhớ
rất lâu và dai.
Tuần thứ hai, chúng tôi đi thuyền ra đảo Tokashiki, một thắng cảnh đẹp
của Okinawa. Khu chúng tôi ở lại là một trung tâm dã ngoại dành cho học sinh,
sinh viên. Các tòa nhà cách nhau khá xa nhưng việc đi lại giữa những thảm cỏ
xanh rì và hai hàng cây được tỉa cắt gọn gàng, dưới ánh chiều tà đỏ tía một góc
trời lại chẳng làm tôi mấy khó chịu hay mệt mỏi. Từ tầng thượng của tòa nhà hội
trường, có thể phóng một góc nhìn xa xăm ra biển Tokashiki và chân trời xanh mướt
một màu mây trắng xóa. Tôi vẫn thường cùng ngắm nghía từng ấy thứ với cô bạn
Fillipino.
Phần thời gian còn lại, chúng tôi được chuyển sang ở những nơi có không
gian riêng hơn sau khi trải qua giai đoạn huấn luyện đời sống tập thể. Lần lượt
là Yumeya Resort và Okinawa Hotel. Trên đường đi từ bến tàu về resort, chúng
tôi có đi ngang một chỗ đóng quân của quân đội Mĩ. Yên ắng và vắng lặng. Nhác
thấy bóng một hay hai anh binh sĩ Mĩ đang rảo bước đi ở hành lang bên ngoài,
nom có vẻ đang đi dạo hơn là đi hành quân hay thi hành một nhiệm vụ nào đó. Trừ
khi, thong dong đón gió cũng là một nhiệm vụ.
Tôi nghe kể, dân chúng Okinawa đã và đang đấu tranh về việc di dời căn
cứ quân sự Mĩ khỏi vùng đất này, vì nhiều lẽ. Chẳng hạn như, tiếng máy bay quân
sự gây ồn ào, hay các vụ rơi máy bay liên tục xảy ra khiến cho nguy hiểm lúc
nào cũng rập rình.
Trước khi về Yumeya Resort chuẩn bị cho bài báo cáo cuối khóa, chúng
tôi được ra đảo Ie để tham gia hoạt động “homestay”. So với lần ra đảo
Tokashiki, lần này tôi có vẻ quen hơn với việc đi lại trên tàu, không còn cảm
thấy nhờn nhợn, chóng mặt vì say sóng nữa.
Nhớ lần trước, tôi phải vạ vật trong khoang toilet để “chạy đi” nhanh
nhất có thể. Hết vạ vật ở đấy, tôi lại ngồi bệt trên sàn tàu, đón cái nắng âm ấm
và nghe sóng biển tạt nhẹ lớp hơi muối lên da lạnh buốt. Giá mà có vài con hải
âu chờn vờn bên cạnh cơn mệt lúc ấy, chắc tôi đã tự huyễn tưởng mình là gã
Robinson Crusoé mất rồi.
Lần ra đảo Ie này, tôi khấm khá hơn, có thể bỏ chỗ ngồi trong khoang
hành khách mà tung tăng đi lại vòng quanh, lên boong tàu chơi đùa, tận hưởng và
chụp thật nhiều hình ảnh với các bạn. Thi thoảng, vài ngọn sóng bạc đầu ham vui
ào lên sàn tàu làm cả bọn la lên đầy thích thú và khoái chí với cảm giác lạnh
tê buốt và ẩm ướt của nước biển. Tôi và cô bạn người Úc vẫn kịp hài hước diễn lại
hình ảnh huyền thoại của nàng Rose và chàng Jack trong kinh điểnTitanic.
Tình yêu và điện ảnh là một cây cầu nối kết những trái tim, bất kể dân tộc, tôn
giáo.
Chúng tôi mải mê chơi đùa, nghịch sóng, nghịch nắng cùng nhau cho đến
lúc tiếng còi tàu rúc từng hồi dài rền vang và đất liền hiện ra ngay trong tầm mắt.
Tất cả vội vã quay lại khoang hành khách, chuẩn bị chờ tàu cập cảng.
Tôi quay lại chỗ ngồi của mình, cạnh bên các vị khách bản xứ, thay vì
ngồi theo cả nhóm với các bạn trong đoàn. Một phụ nữ trung niên ngồi bên tay
trái vừa nhác thấy dáng tôi, đôi mắt đã sáng lên ánh mừng rỡ với nụ cười ái ngại.
Cô chỉ tay vào cái ba lô bên cạnh tôi và cúi đầu ra hiệu rằng:“Này, của
cậu này”.
Tôi hoàn toàn bất ngờ với hành động và cử chỉ của cô ấy. Thực ra, trong
ba lô chỉ toàn giấy tờ học tập, nên tôi đã chẳng mảy may để ý hay lo lắng khi để
lại ghế ngồi và bỏ đi tung tăng cùng các bạn. Vậy mà, một phụ nữ Nhật Bản chẳng
quen biết lại tự nguyện coi chừng nó mãi cho đến lúc tôi quay trở lại để dùng
ánh mắt trao tận tay. Bất ngờ và cảm động, tôi chỉ còn biết cúi chào cô thật
sâu theo những gì đã học được. Cô cũng tươi cười cúi chào tôi và lắc lắc hai
bàn tay tỏ ý “không có gì đâu”. Dù không lời nói nào được cất lên, nhưng tôi vẫn
cảm nhận được sự vui vẻ và nhiệt tình của cô.
Ở chung một nhà với tôi là một bạn người Brunei và một bạn người Nhật,
dân vùng Aichi. Một bà mẹ Nhật dáng người thâm thấp, phốp pháp và gương mặt
phúc hậu đón chúng tôi. Chúng tôi gọi bà là “mama”.
Mama chở cả ba đứa tôi đi thăm đồng trên chiếc Toyota của bà.
Cánh đồng ở đây trải dài và rộng, ít bị chia cắt thành mảnh nhỏ, hệ thống
tưới tiêu rất vững chãi và dồi dào. Rải rác trên cánh đồng là các máy bán nước
tự động nạp tiền xu. Mama chậm rãi chỉ trỏ khắp nơi về các dự án mới mẻ của Ie,
còn cậu bạn đến từ Aichi liên tục dịch lại cho tôi và Baddhi (cậu bạn Brunei).
Tiếng máy lạnh của xe Toyota phả ra đều đều, và con đường trải nhựa phẳng lì
phía trước làm tôi thoắt nghĩ đến nụ cười móm mém của ông ngoại mỗi lần đi thăm
đồng về trên đường bờ ruộng nhỏ hẹp.
Mama đưa chúng tôi đi mua đồ ăn sau chuyến thăm đồng. Trong cửa hàng tiện
ích, bà hào hứng chỉ tay vào khu mì ăn liền, cười toe với tôi:“Betonamu
Pho!”(Phở Việt Nam nè con!). Tôi cũng phì cười và gật đầu thích thú.
Mama giơ ngón tay cái và nói bập bẹ:“Delicious!”(Ngon lắm!).
Tôi cười vang thành tiếng:“Arigatou, mama”(Con cảm ơn
mama!). Lòng thầm nghĩ, giá mà mama có dịp ăn phở - là phở tươi - thì hẳn bà sẽ
phải khen, trên cả “delicious” nữa kìa.
Ngủ với gia đình mama được hai đêm, chúng tôi phải quay lại Yumeya
Resort cho bài báo cáo.
Ngày chia tay, ba đứa con trai cứ dính lấy mama chẳng rời. Người ta
khóc khi buồn, có đôi khi vui quá cũng rơi nước mắt. Hôm ấy, mama khóc nhưng miệng
thì vẫn nhoẻn cười. Tàu bắt đầu rời cảng nhưng mama vẫn đứng ngay cầu tàu mà vẫy
tay hoài về phía ba đứa tôi cho đến khi bà chỉ còn là một chấm nhỏ trong mắt
tôi.
Những ngày cuối ở Yumeya Resort và Okinawa Hotel, mấy cô em Nhật Bản đã
bắt đầu tíu tít đi xin chữ kí lên áo thun, thật giống với học trò nhà mình mỗi
năm hè đến. Vài cô còn dễ thương hơn: viết thiệp gửi trao.
Ngày chia tay, cả đám học sinh quốc tế và học sinh Nhật ôm nhau sụt
sùi. Mấy anh trai người Nhật trong nhóm lần lượt đi cúi chào từng bạn quốc tế,
cảm ơn và tạ từ. Một phong thái rất chững chạc và khí phách.
Ðoàn học sinh quốc tế chúng tôi lại trở về Tokyo, ở trong khách sạn cũ.
Nghỉ ngơi một đêm, hôm sau, ai nấy sẽ lại theo những chuyến bay khác nhau trở về
đất nước của mình.
Ðó là một đêm trắng. Tất cả cùng ngồi bên nhau quanh một căn phòng, trò
chuyện rôm rả chẳng rời.
Ðến sáng, lần lượt, hễ ai phải ra sân bay là cả bọn đều ra trước cổng
khách sạn tiễn chân. Lại là những lưu luyến chẳng nói thành lời.
Chỉ còn lại năm người nằm trong tốp cuối cùng ra sân bay. Và trong số ấy,
tôi là người bay cuối cùng. Tiễn đưa các bạn chán chê, tôi lại một mình quây quần
với nỗi buồn người ở lại. Cảm giác tiễn đưa thật không dễ chịu gì.
Hai người đàn ông người Nhật, cũng là hai người trong đoàn đã đón tôi ở
sân bay ngày tới, tiễn tôi lên máy bay. Họ ân cần đưa tôi đi làm thủ tục và dẫn
tôi đến cửa hải quan. Trước khi từ giã, tôi không quên từ tốn cúi chào họ,“Arigatou
gozaimasu”(Xin cảm ơn rất nhiều).Họ đứng thẳng người lại rồi
cùng chào tôi,“Please be back to Japan”(Xin mời trở lại Nhật
Bản).
Tôi lẫn vào dòng người đi qua khu cách li, hai người đàn ông kia vẫn
dõi theo cho đến lúc tôi vẫy tay lần cuối cùng và nhận được cái cúi chào đầy
thân ái.
Tôi lặng đi giữa sảnh sân bay thênh thang, nghe sao buồn trên hai mi mắt.
Tâm trí đầy ắp những hình ảnh trong suốt một tháng qua, tôi đã thực sự sống và
hòa nhập trên mảnh đất dễ mến này. Từng ánh mắt, môi cười, cái ôm, cái siết
tay, cái cúi chào, giọng nói thỏ thẻ. Niềm vui và nước mắt. Nỗi buồn và nụ cười…
Bây giờ là đang buổi tối mà sao tôi vẫn thấy ánh nắng quanh mình.
Nắng trời Nhật Bản thật ấm áp.

