Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 49 - 50 - 51
Chương bốn mươi chín
Một khi mặt trời
đã lặn, nhiệt độ hạ xuống rất nhanh, đồng thời cơn gió vút mạnh qua vình San
Francisco nghe thật rét buốt và đượm nồng mùi muối. Từ chỗ của mình trong tháp
canh bên bến tàu, Perenelle chồm người xuống hòn đảo. Mặc dù bà đang mặc mấy lớp
quần áo và đã gom hết tất cả mấy tấm mền trong các xà-lim để quấn quanh người,
bà vẫn thấy lạnh cóng. Những ngón tay và ngón chân tê cứng đến nỗi bà mất hết cảm
giác, và thật sự là bà đang cắn chặt vào một cái mền đầy nấm mốc để giữ cho hai
hàm răng không gõ lập cập vào nhau.
Bà không dám sử
dụng luồng điện của mình để sưởi ấm - con nhân sư đã thoát ra khỏi hầm mộ băng
giá của nó và đang đi lảng vảng trên hòn đảo.
Perenelle đang đứng
trước cái kén của Areop-Enap tìm kiếm xem có dấu hiệu cử động nào không vì bà
ngửi thấy mùi hương đặc trưng của sinh vật này trong bầu không khí đầy muối, một
sự pha trộn giữa mùi xạ rắn và sư tử cùng với một lớp lông ẩm mốc. Một tích tắc
sau, de Ayala nhấp nháy hiện ra trước mắt bà.
“Tôi biết,” bà
nói trước cả khi ông ta kịp cất tiếng. “Tất cả đã sẵn sàng rồi phải không?”
“Vâng,” hồn ma nói ngắn gọn. “Nhưng chúng ta đã thử trước khi...”
Nụ cười
Perenelle bừng sáng. “Con nhân sư mạnh mẽ, và kinh khủng... nhưng không thông
minh sáng dạ lắm đâu.” Bà quấn tấm mền quanh vai chặt hơn và rùng mình vì cơn
giá lạnh. “Bây giờ nó đang ở đâu?”
“Đi tới đi lui khắp mấy bờ tường trong Khu
nhà ở của Cai ngục. Có lẽ thoáng mùi hương của bà còn phảng phất quanh đó. Xin
lỗi tôi không có ý bất nhã đâu, thưa quý bà,” ông ta nói thêm liền.
“Không hề gì. Đó
là một trong những lý do tôi đã chọn ở ngoài trời tối nay. Tôi hy vọng rằng cơn
gió mạnh này sẽ thổi mọi mùi hương của tôi đi.”
“Đó là một kế hoạch hay,” de Ayala tán
thành.
“Và sinh vật ấy
trông như thế nào?” Nữ Phù thủy băn khoăn thốt lên. Bà vỗ nhẹ vào cái kén của
Areop-Enap, rồi quày quả bước đi.
Hồn ma mỉm cười
hài lòng. “Không được vui lắm.”
Con nhân sư nhấc
một bàn chân to tương lên và cẩn thận đặt nó xuống, co rúm người lại khi một cảm
giác lạ lùng nhất - sự đau đớn - bắn vọt lên cẳng chân nó. Nó chưa hề bị thương
trong ba thế kỷ nay. Bất kỳ vết thương nào cũng lành ngay, những vết đứt và vết
bầm tím đều nhanh chóng nhạt đi, nhưng ký ức về một lòng kiêu hãnh bị tổn
thương sẽ không bao giờ phai mờ.
Nó đã bị thua. Bởi
một giống người.
Ngoái cổ thon thả
ra phía sau, nó hít một hơi thật sâu và cái lưỡi chẽ đầu dài nhằng đen láy thè
ra khỏi đôi môi như của người. Cái lưỡi đong đưa, nếm nếm không khí. Và kìa có
rồi: một thoáng thôi, một lượng rất nhỏ của một nòi giống người. Nhưng tòa nhà
này không có mái và mở thẳng ra ngoài trời, những cơn gió biển ào vào gột tẩy
liên miên, mà dấu vết lại rất mờ nhạt. Một giống người thuộc phái nữ đã ở chỗ
này. Sinh vật ấy đập vào một cánh cửa sổ. Ngay ở đây nhưng không phải mới tức
thì. Một cái lưỡi chẽ đầu nếm nếm vào mấy viên gạch. Đúng là ả đã đặt bàn tay
vào đây. Cái đầu nó quay về phía một lỗ hổng thật lớn trong bức tường. Và rồi
cái giống người kia biến mất vào ban đêm.
Khuôn mặt người
xinh đẹp của con nhân sư nhăn nhó có vẻ khó chịu. Xếp đôi cánh đại bàng rách
bươm sát vào người, mụ ta chui qua ngôi nhà đổ nát và bước vào bóng đêm mát lạnh.
Nó không sao cảm
nhận được luồng điện của giống người này. Mà cũng không ngửi thấy mùi da thịt của
ả.
Song Nữ Phù thủy
chắc chắn phải còn trên hòn đảo này; hẳn bà ta không thể trốn thoát đi đâu được.
Con nhân sư đã trông thấy các Nữ thần Biển trong làn nước và đã ngửi thấy mùi
tanh tửi của Ông Già Biển vương vấn trong không khí. Nó đã bắt gặp Nữ thần Quạ
đậu trên nóc ngọn hải đăng như một thứ dụng cụ chỉ hướng gió gớm ghiết, và mặc
dầu con nhân sư đã gọi to mụ ta bằng mọi thứ ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ đã không
còn dùng của Danu Talis, sinh vật kia cũng không trả lời. Con nhân sư vô tình
không biết; một số Thế hệ Kế tiếp, như bản thân nó, thích bóng đêm; một số khác
thích sống dưới ánh mặt trời. Nữ thần Quạ khi ấy có lẽ đang ngủ.
Mặc cho tầm vóc
to lớn, con nhân sư vẫn đi rất nhanh xuống bến tàu, những cái móng vuốt gõ lách
cách trên nền đá. Và ở đây nó bắt được thoang thoảng một chút mùi hương rất mờ
nhạt của nòi giống người, mùi của muối và thịt.
Và rồi mụ trông
thấy ả ta.
Một cử động, một
dáng dấp, một thoáng tóc dài và một chiếc áo đầm đang bay dập dờn.
Từ một điểm thuận
lợi ở trên cao trong tháp canh, Perenelle quan sát con nhân sư lao theo bóng ma
của vợ người cai ngục đã chết lâu lắm rồi.
Khuôn mặt thoáng
gợn lên của de Ayala hiện ra trong đêm, chỉ nhỉnh hơn sự nhiễu loạn trong không
khí một chút. “Những bóng ma của Atcatraz
đều đã ở đúng chỗ. Họ sẽ dẫn con nhân sư đi xa mút qua đầu bên kia của hòn đảo
và giữ cho nó luôn bận rộn ở đó từ giờ cho đến hết đêm. Bây giờ hãy nghỉ ngơi
đi, thưa quý bà; nếu được, xin cứ nghỉ. Ai biết ngày mai sẽ mang đến điều gì
kia chứ?”
Chương năm mươi
“Anh đang đưa
chúng ta đi đâu đây?” Nicholas hỏi nhẹ nhàng. “Tại sao lại rời đường chính?”
“Có rắc rối,”
Palamedes thản nhiên nói. Anh ta nghiêng kính chiếu hậu để nhìn vào băng ghế
sau của chiếc taxi.
Chỉ mình Nhà Giả
kim còn thức. Cặp sinh đôi đổ người ra phía trước, được dây đai an toàn giữ vào
chỗ, trong khi Gilgamesh nằm cuộn tròn dưới sàn, co quắp và nói lầm bầm bằng tiếng
của người Sumer. Nicholas nhìn vào đôi mắt sâu có màu nâu in trong chiếc gương.
“Tôi biết có gì
đó không ổn khi xe cộ đông nghẹt,” hiệp sĩ nói tiếp. “Rồi tôi nghĩ có lẽ là một
tai nạn chăng.”
Họ đang chạy
theo những vòng rẽ ngoặt có vẻ tùy tiện, hướng xuống những con đường nhỏ vùng
nông thôn, những hàng rào xanh um tươi tốt quệt vào hông xe. “Tất cả những đường
lớn đều bị chặn; cảnh sát khám xét từng chiếc xe một.”
“Dee đó,” Flamel
thì thào. Không bấm đai an toàn của mình, ông trượt người vào ghế xếp ngay sau
tài xế, vặn mình để nhìn vào chàng hiệp sĩ qua tấm chắn bằng kính. “Chúng ta phải
đến được Stonehenge,” ông nói. “Đó là con đường duy nhất của chúng ta để ra khỏi
đất nước này.”
“Có những cổng
tuyến khác nữa mà. Tôi có thể đưa ông đến Holyhead ở xứ Wales, và ông có thể đi
phà đến Ireland. Newgrange vẫn còn kích hoạt được,” Palamedes gợi ý.
“Không ai biết
Newgrange dẫn đến đâu,” Nicholas nói dứt khoát. “Còn đường tuyến ở Salisbury sẽ
đưa tôi đến ngay phía bắc San Francisco.”
Chàng hiệp sĩ rẽ
xuống một con đường có ghi chữ ĐẤT RIÊNG và dừng lại trước một cánh cổng bằng gỗ
có năm thanh. Cứ để máy xe nổ, anh ta bước ra khỏi xe và đẩy then cổng. Flamel
bước xuống phụ với anh ta, và cả hai người dồn sức đẩy cánh cổng mở ra. Còn đường
mòn có nhiều vết lún dẫn xuống một nhà kho bằng gỗ thô sơ xiêu vẹo. “Tôi biết
người chủ đấy này,” Palamedes nói gọn lỏn. “Chúng ta sẽ nấp tạm ở đây cho tới
khi mọi thứ lắng xuống chút đã.”
Flamel giơ tay nắm
lấy cánh tay của Palamedes. Thoáng mùi đinh hương ùa đến bất chợt và Nhà Giả
kim rụt mạnh mấy ngón tay ra khỏi da thịt của chàng hiệp sĩ giờ đã cứng lại và
trông hệt như kim loại. “Chúng ta cần phải đến được Stonehenge.” Nhà Giả kim
phác một cử chỉ hướng về phía con đường họ vừa rời khỏi. “Có thể chúng ta còn
cách đó chưa đầy hai ba cây số.”
“Chúng ta đang ở
rất gần,” Palamedes đồng ý. “Tại sao phải vội vã, Nhà Giả kim?”
“Tôi phải trở về
với Perenelle.” Ông bước ra trước mặt chàng hiệp sĩ, buộc anh ta phải dừng lại.
Nhìn tôi đây Saracen. Anh thấy gì? Ông giơ hai bàn tay mình cao lên; những đường
gân xanh giờ thấy thật rõ, và có những đốm nâu của tuổi già rải rác khắp da thịt
ông. Ngửa đầu phía sau, ông phơi ra cái cổ nhăn gấp nếp của mình. “Tôi đang gần
kề cái chết lắm rồi, Palamedes,” Nhà Giả kim nói một cách đơn giản. “Tôi không
còn bao nhiêu thời gian nữa, và khi tôi chết, tôi muốn ở bên cạnh Perenelle yêu
dấu của tôi. Anh đã yêu một lần rồi, Palamedes. Anh phải hiểu điều đó.”
Chàng hiệp sĩ thở
dài rồi gật đầu. “Hãy đánh thức hai đứa nhỏ sinh đôi cùng với Gilgamesh dậy và
đi vào nhà kho. Ông ấy đã đồng ý huấn luyện bọn trẻ Pháp thuật Nước. Nếu ông ấy
nhớ và nếu ông ấy chịu làm điều đó, xong rồi thì chúng ta sẽ tiếp tục đi về
phía Stonehenge. Chắc chắn tôi có thể tìm ra một con đường bằng GSP* mà.” Anh
ta giơ tay nắm lấy cánh tay Flamel. “Hãy nhớ, Nicholas. Một khi ông ấy khởi sự
quá trình này, luồng điện của cặp song sinh sẽ sáng rực lên, và rồi mọi người -
và mọi thứ - đều sẽ biết hai đứa đang ở đâu.”
*Global Positioning System: Hệ thống Định vị
Toàn cầu.
Chương năm mươi mốt
Đúng 10 giờ 20
phút sáng, trễ năm phút so với giờ khởi hành đã lên lịch, chiếc máy bay Boeing
747 của hãng Air France cất cánh rời khỏi phi trường Charles de Galle, hướng đến
San Francisco.
Niccolò
Machiavelli ổn định trong ghế ngồi và chỉnh chiếc đồng hồ đeo tay lùi lại chín
tiếng trở về 1 giờ 20 phút sáng, đan hai bàn tay vào nhau đặt trên vùng dạ dày,
nhắm mắt lại và tận hưởng niềm khoái trá hiếm có của một thời gian không bị ai
quấy rầy. Trong mười một tiếng và mười lăm phút sắp tới, y sẽ không nhận điện
thoại, e-mail, hoặc fax của ai cả. Bất kể có cơn khủng hoảng nào phát sinh, chắc
hẳn sẽ có một ai khác xử lý. Miệng y nở nụ cười: chuyện này giống như một đợt
nghỉ ngơi ngắn vậy, và đã rất lâu rồi - thật vậy, dễ có đến hơn hai thế kỷ - kể
từ khi y có một kỳ nghỉ ngơi đúng đắn. Đợt đi nghỉ gần đây nhất của y, ở Ai Cập
vào năm 1798, đã bị hỏng mất khi bị Napoléon đahs chiếm. Nụ cười của
Machiavelli nhạt đi trong lúc y nhè nhẹ lắc đầu. Y đã làm quân sư cho kế hoạch
của Napoléon về một “liên bang những dân tộc tự do” cùng Bột luật Napoléon, và
cuối cùng nếu những người trên hòn đảo Corisca chịu tiếp tục nghe lời ông ta,
thì nước Pháp chắc hẳn đã thống trị toàn châu Âu, Bắc Phi và vùng Trung Đông rồi.
Machiavelli thậm chí còn lập kế hoạch chi tiết cho một cuộc xâm chiếm châu Mỹ bằng
đường biển và tràn xuống qua ngả Canada.
“Mời dùng thức uống,
thưa ông?”
Machiavelli mở bừng
mắt và thấy một người phục vụ trên chuyến bay trông có vẻ buồn tẻ mỉm cười với
y. Y lắc đầu. “Cảm ơn. Không. Và xin đừng quấy rầy tôi nữa trong suốt chuyến
bay này.”
Người phụ nữ gật
đầu. “Ông có muốn được đánh thức để dùng bữa trưa hoặc tối không ạ?”
“Không, cám ơn.
Tôi đang có chế độ ăn kiêng đặc biệt,” y nói.
“Nếu ông cho
chúng tôi biết trước, hẳn chúng tôi có thể chuẩn bị cho ông một bữa ăn thích hợp...”
Machiavelli giơ
đứng một bàn tay với những ngón thuôn dài. “Tôi hoàn toàn khỏe. Cám ơn,” y nói
dứt khoát, đôi mắt rời khỏi khuôn mặt người phụ nữ, bỏ qua không quan tâm đến
cô ta nữa.
“Tôi sẽ báo cho
những người khác biêt.” Người phục vụ bước đi để chăm sóc ba hành khách ngồi
trong khoang doanh nhân. Mùi đậm đặc của cà-phê mới pha và bánh mì mới nướng
tràn ngập không khí, và tay người Ý nhắm mắt cố nhớ lại xem thức ăn thật sự -
đúng ra là thức ăn tươi - có vị như thế nào. Một trong những tác dụng phụ của
món quà bất tử là cảm giác ngon bị giảm rõ rệt. Những người bất tử vẫn cần phải
ăn, nhưng chỉ với mục đích để nạp năng lượng như một nguồn nhiên liệu thôi. Hầu
hết thức ăn đều vô vị trừ những món có nhiều gia vị quá nồng hoặc quá ngọt. Y tự
hỏi không biết Flamel, đã trở nên bất tử nhờ vào chính mình chứ không phải qua
tay một Elder, có phải chịu cùng một tác dụng phụ này không.
Và việc liên tưởng
đến Nicholas khiến y tập trung vào Perenelle.
Elder của Dee đã
nói khá rõ: “Đừng cố gắng bắt giữ hoặc bỏ
tù Perenelle làm gì. Không được chuyện trò, không được mặc cả hoặc cố tranh luận
đàm phán với bà ta. Phải giết chết bà ta ngay khi vừa trông thấy. Hãy nhớ Nữ
Phù thủy còn nguy hiểm hơn Nhà Giả kim gấp bội.”
Machiavelli đã tự
học để trở thành bậc thầy của cả hai loại ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cơ thể. Y biết
khi nào người ta đang nói dối; y có thể đọc được điều đó được đôi mắt họ; những
cử động nhỏ nhất của đôi bàn tay nắm chặt của họ, những ngón tay vặn vẹo và bàn
chân gõ nhịp. Cho dù y không thể nhìn thấy họ được, cả mấy cuộc đời lắng nghe
các vị hoàng đế, nhà vua, hoàng thân quốc thích, các chính trị gia và bọn trộm
cắp đã dạy y rằng thường thường không phải những gì người ta nói ra, mà chính
là những gì người ta không nói mới tiết lộ được sự thật.
Các Elder của
Dee đã cảnh báo rằng Nữ Phù thủy còn nguy hiểm hơn Nhà Giả kim gấp bội. Họ
không chỉ ra chính xác như thế nào... nhưng như thế là họ đã tiết lộ rằng họ sợ bà ta. Mà tại sao? Y băn khoăn tự hỏi. Bà ta
là một người bất tử: mạnh mẽ, đúng; nguy hiểm, chắc chắn; nhưng tại sao lại khiến
cho các Elder phải e dè sợ hãi?
Nghiêng đầu,
Machiavelli nhìn qua khung cửa sổ hình bầu dục. Chiếc 747 đã vượt lên khỏi những
đám mây và bay vào bầu trời xanh ngắt trông thật đẹp mắt và y để cho ý nghĩ của
mình đi lang thang, hồi tưởng lại những nhà lãnh đạo y đã từng phục vụ và từng
thao túng qua các thời kỳ. Không như Dee, hắn trở nên nổi tiếng là người của Nữ
hoàng Elizabeth và là người cố vấn rất công khai, y lại luôn hoạt động phía sau
sân khấu nói bóng gió xa gần, gợi ý, để cho những người khác hưởng công trạng từ
những ý tưởng của hắn. Hành động đó lúc nào cũng tốt hơn - đúng ra là an toàn
hơn - thoát khỏi mọi giám sát. Có một câu nói của người Celt mà y đặc biệt ưa
thích: Đối với luật pháp, tốt hơn là nên
tồn tại mà không ai biết. Y luôn hình dung rằng Perenelle có chút gì giống
y, vui vẻ tránh mặt và để chồng bà ta hưởng tất cả công trạng. Mọi người ở châu
Âu đều biết đến cái tên Nicholas Flamel. Mà thậm chí ít ai biết có sự tồn tại của
Perenelle. Tay người Ý bất giác gật đầu; bà ta là sức mạnh ẩn sau chồng.
Machiavelli đã
lưu giữ một hồ sơ về gia đình Flamel trong nhiều thế kỷ. Những ghi chú xưa nhất
được ghi trên giấy da với những bức vẽ được tô màu rất đẹp; rồi đến loại giấy
dày làm bằng tay với những phác họa vẽ bằng bút mực, và sau đó một chút, là giấy
với những hình chụp được tô màu. Những hồ sơ gần đây nhất là những tấm hình và
những đoạn băng kỹ thuật số có độ phân giải cao. Y đã cất giữ tất cả những ghi
chú từ trước đến nay về Nhà Giả kim và vợ ông ta, nhưng mọi thông tin cũng đã
được đưa vào máy chuyên dụng để quét lại và nhập vào cơ sở dữ liệu đã được mã
hóa của y. Thông tin về Nicholas ít ỏi đến nản lòng, và một phần rất, rất ít được
dành cho Nữ Phù thủy. Quá nhiều điều về bà là ẩn số. Thậm chí còn có ý kiến nêu
trong một báo cáo của người Pháp vào thế kỷ thứ mười bốn cho rằng bà ta đã là một
bà góa trước khi cưới Nicholas. Và khi Nhà Giả kim mất, trong di chúc của mình,
ông đã để lại mọi thứ cho cháu trai của Perenelle, một người đàn ông có tên là
Perrier. Machiavelli ngờ rằng - dù y không có chứng cớ gì để củng cố giả thuyết
của mình - có thể Perrier là một người con trong cuộc hôn nhân lần thứ nhất của
bà. Perrier nhận quyền sở hữu tất cả mọi giấy tờ và của cải của Nhà Giả kim...
và biến mất một cách đơn giản khỏi lịch sử. Nhiều thế kỷ sau, có hai người tự
cho là con cháu của gia đình Perrier xuất hiện ở Paris, họ liền bị Hồng y Giáo
chỉ Richelieu bắt giữ ngay. Đức Hồng y đã buộc phải thả họ khi ông nhận ra rằng
họ không biết chút gì về bậc tiền bối nổi tiếng của mình và chẳng sở hữu cuốn
sách hoặc văn bản nào của ông ta cả.
Perenelle là một
điều bí ẩn.
Machiavelli đã
tiêu cả một gia tài để chi trả cho các tay gián điệp, nhân viên thư viện, sử
gia, và những nhà nghiên cứu để tra cứu về người phụ nữ bí ẩn này, nhưng những
thông tin về bà mà người ta tìm ra được thậm chí lại ít ỏi đến mức đáng ngạc
nhiên. Và khi y chiến đấu mặt đối mặt với bà ở Sicily năm 1669, thì y mới khám
phá ra rằng bà đã đạt đến một sức mạnh phi thường - hầu như siêu phàm. Nhờ vào
hơn một thế kỷ học hỏi, y đã chiến đấu với bà ta bằng cách dùng một sự kết hợp
giữa ma thuật với các câu thần chú trong thuật giả kim từ khắp mọi nơi trên địa
cầu. Còn bà đã chống trả tất cả những thứ ấy bằng một màn trình diễn thuật phù
thủy khiến y phải hoang mang ngơ ngác. Đến buổi chiều, y đã mệt lử, luồng điện
của y đã cạn kiệt đến mức nguy hiểm, nhưng Perenelle trông vẫn tươi tỉnh và
đĩnh đạc. Nếu ngọn Mount Etna không phun trào làm trận chiến phải ngưng lại, y
tin rằng chắc bà ta phải tiêu diệt y mất, hoặc là làm cho luồng điện của y bốc
cháy tự phát và thiêu rụi thân mình y. Chỉ sau đó y mới biết được rằng chính
năng lượng cả hai phóng thích ra hẳn đã khiến ngọn núi lửa ấy phun trào.
Niccolò
Machiavelli đắp một tấm mền len mềm mại quanh hai vai và nhấn nút để nhẹ nhàng
chuyển chỗ ngồi thoải mái của y thành một chiếc giường dài một mét tám. Nằm trở
lại, y nhắm mắt và hít thở sâu. Y sẽ xem xét vấn đề về Nữ Phù thủy trong vài giờ
tới, nhưng có một điều đã rõ như ban ngày: Perenelle làm cho các Elder Đen tối
sợ hãi. Và người ta thường chỉ sợ những ai có thể tiêu diệt được họ. Một ý nghĩ
cuối cùng lởn vởn nơi bờ rìa tâm thức y: Perenelle Flamel là ai - hay đúng hơn,
là cái gì - vậy cà?