Tam sinh tam thế - Thập lý đào hoa - Chương 21 - Phần 1

Chương 21:

Cùng với tiếng rồng gầm trên Côn Luân, người đã quay về rồi

Ngày
mười lăm tháng tám chơi tết Trung thu, rượu hoa quế trong cung Quảng Hàn cất từ
năm ngoái đã xuống men, Thường Nga lệnh cho Ngô Cương ngoài lúc chặt cây ra thì
chọn ra mấy vò rượu, tặng mỗi cung thất một vò. Ta đem bình rượu ấm được tặng
cho Tẩy Ngô cung, cùng Dạ Hoa uống cạn hai chén, coi như là tiễn biệt chàng xuống
hạ giới.

Vốn
dĩ ta muốn ở bên cạnh chàng, chàng không chịu, bắt ta phải về Thanh Khâu chờ
chàng.

Dạ
Hoa không cho ta theo chàng, có lẽ sợ rằng khi ở trần gian, ta sẽ bảo vệ chàng
mọi lúc mọi nơi, phá giới mà làm phép, sẽ bị phản phệ lại bản thân. Nhưng ta cảm
thấy có thể để chàng chịu ít gian khổ, giày vò nhất, thì bị chính pháp thuật của
mình phản phệ một đôi lần cũng chẳng sao, nên tính sẽ giả vờ về Thanh Khâu trước,
để chàng an tâm, đợi sau khi chàng uống nước Vong Xuyên, đầu thai chuyển thế, rồi
ta lại mặt dày đi tìm chàng.

Yêu
một người là như thế đó, lúc nào cũng muốn người mình yêu được sống tốt, người
mình yêu được sống tốt, thì bản thân cũng vui vẻ. Đây chính là điều kỳ diệu của
tình yêu, cho dù chịu tội, chịu khổ, nếu như trong lòng đã có hình bóng một người,
thì nỗi khổ sánh ngang trời đấy cũng chỉ là sự giày vò ngọt ngào mà thôi.

Ti
Mệnh Tinh Quân lại chỉ cho ta nơi Dạ Hoa đầu thai.

Kiếp
này của Dạ Hoa được đầu thai vào một nhà danh gia vọng tộc, đời đời đèn sách ở
Giang Nam, thúc bá tổ phụ đều là làm quan cả.

Ti
Mệnh vui vẻ hào hứng, tặc lưỡi than, nói xét theo kinh nghiệm nhiều năm viết số
mệnh của hắn, đứa con sinh ra trong gia đình này hẳn sẽ nối nghiệp tổ tiên, nhờ
ngòi bút có thể hô mưa gọi gió, khuynh đảo thiên hạ, mà xưa nay Dạ Hoa lại rất
giỏi văn chương, được đầu sinh thế này vô cùng phù hợp.

Nhưng
ta biết rằng phàm các thế gia đại tộc chốn phàm trần trọng nhất là thể thống, dạy
dỗ con cháu cực kỳ nghiêm khắc, rất tẻ nhạt. Con cháu họ cũng rất nghiêm khắc,
rất tẻ nhạt, không hề hoạt bát đáng yêu giống những đứa trẻ bình thường trong
dân gian. Dạ Hoa vốn đã không hoạt bát cho lắm, ta không chỉ mong khi đầu thai
chàng có thể hoạt bát hơn, mà còn lo rằng chàng sẽ cô đơn quạnh quẽ suốt thời
niên thiếu trong gia đình danh gia này.

Gia
tộc Dạ Hoa đầu thai là họ Liễu, đại thiếu gia phu nhân nhà họ hạ sinh chàng là
cháu trưởng, đặt tên Liễu Ánh, tự là Chiếu Ca. Ta không thích cái tên này cho lắm,
cảm thấy hơi văn vẻ, không hề phù hợp với một Dạ Hoa anh tuấn dũng mãnh chút
nào.

Ta
trở về Thanh Khâu thu dọn lấy năm bộ xiêm y, gói vào tay nải, rồi lại rót trà
mát, nhấp cho ngọt họng, rồi tức tốc chạy đến rừng đào mười dặm của Chiết Nhan,
muốn mặt dày đi xin lão ít đan dược.

Nhưng
đi đến nửa đường thì nhìn thấy Chiết Nhan đang cưỡi mây bay tới, phía sau còn
có tứ ca cưỡi Tất Phương.

Họ
dừng lại trước mặt ta.

Hai
mắt tứ ca sáng lấp lánh, nói: “Tiểu Ngũ, có lẽ hôm nay muội đã thỏa ước nguyện
bao năm. Bọn ta vừa từ Tây Hải trở về, cả đêm qua Điệp Ung vật vã, sáng nay Chiết
Nhan dùng truy hồn thuật đi vào hồn y, lại phát hiện hồn Mặc Uyên không còn ở
trong nguyên thần của Điệp Ung. Bọn ta định đến động Viêm Hoa xem xem, Mặc Uyên
đã ngủ suốt bảy vạn năm, hẳn đã chọn ngày lành là hôm nay để tỉnh dậy”.

Ta
thẫn thờ, mãi sau mới sực tỉnh. Lúc tĩnh trí thì thấy cánh tay mình đang lay
lay tứ ca, miệng lắp bắp: “Sư, sư phụ tỉnh rồi ư? Người đã tỉnh rồi ư?”.

Tứ
ca gật đầu, lại nhíu mày nhắc: “Tay nải của muội rơi khỏi mây rồi kìa”.

Ta
biết rằng chưa đầy ba tháng Mặc Uyên sẽ có thể tỉnh lại, bấm ngón tay tính, hôm
nay cách ngày Điệp Ung uống viên đan dược đó còn chưa đầy hai tháng, thời gian
ngắn như vậy mà người đã có thể tỉnh lại. Người tỉnh lại thật rồi sao?

Bảy
vạn năm, trong bốn bể, giữa gầm trời, ta trốn tránh ở Thanh Khâu, tuy rằng
không phải trải qua cảnh sinh linh lầm than trời đất đảo điên, nhưng cũng tận mắt
chứng kiến đầm Thanh Khâu hạn hán chín trăm chín mươi chín lần, chứng kiến phủ
nhà Chúc Âm trên núi Gia Hầu cứ trăm năm lại nhích qua bên động Hồ Ly của cha mẹ
ta một trượng. Bảy vạn năm, nửa cuộc đời của ta. Ta dùng nửa đời mình để làm một
việc duy nhất đó là ngóng trông sư phụ tỉnh lại. Hôm nay, cuối cùng người đã tỉnh
lại rồi.

Chiết
Nhan đứng bên cạnh cúi đầu thở dài: “Cũng không uổng công tiểu tử Dạ Hoa trút
toàn bộ tu vi”.

Khóe
mắt ta cay xè, ta gật gật đầu.

Tứ
ca cười nói: “Chuyện của Dạ Hoa huynh đã nghe Chiết Nhan nói, hắn cũng thực si
tình. Nhưng số muội cũng không may, vừa mới trả hết nợ Mặc Uyên, thì lại nợ Dạ
Hoa, Mặc Uyên muội còn có thể trả người máu tim mình suốt bảy vạn năm, vậy tu
vi bốn vạn năm của Dạ Hoa, muội định thế nào?”.

Ta
xòe quạt che đôi mắt đang đỏ hoe, cay xè của mình, đáp: “Muội và Dạ Hoa cuối
cùng vẫn sẽ kết thành vợ chồng, muội nghĩ rằng vợ chồng yêu thương lẫn nhau, ai
nợ ai, thì không cần tính toán”.

Chiết
Nhan đứng trên mây cười, nói: “Lúc này ngươi đã ngộ thấu suốt rồi”.

Tất
Phương khẽ nói lời chúc mừng, ta cũng cảm ơn hắn một tiếng.

Chiết
Nhan và tứ ca đi trước, ta chuyển mây theo sau. Việc của Dạ Hoa tạm hoãn lại,
khi ta mới đến núi Côn Luân bái sư học nghệ, cư xử chẳng ra gì, hiếm khi thể hiện
đạo hiếu của đệ tử với Mặc Uyên. Sau này hiểu chuyện rồi, lúc biết tận hiếu thì
sư phụ đã nằm trong động Viêm Hoa.

Bây
giờ Mặc Uyên đã tỉnh, đã cố nén niềm vui trong lòng, muốn ngay lập tức để sư phụ
trông thấy, đệ tử nhỏ nhất đã trưởng thành rồi, lớn khôn rồi, biết thương yêu
người khác rồi.

Tiểu
Thập Thất đã sống rất vui vẻ.


khi làm đệ tử của Mặc Uyên ta là một đệ tử nam, đang định biến lại thành bộ dạng
của Tư Âm năm xưa, thì bị Chiết Nhan giơ tay cản lại, nói: “Với tu vi của Mặc
Uyên, đã sớm nhận ra ngươi là nữ nhi, chỉ có điều muốn giữ thể diện cho cha mẹ
ngươi nên mới không vạch trần, ngươi còn tưởng mình che mắt hắn được suốt hai vạn
năm sao?”.

Ta
gấp lại chiếc quạt, giả bộ cười cười: “Nói rất phải, pháp thuật của mẹ ta chỉ
che được mắt mười sáu sư huynh, còn ta luôn hoài nghi rằng có thể che mắt sư phụ
thì cũng hơi hoang đường”.

Ba
người chúng ta men theo lưng chừng núi Phong Di, ta xuống mây trước tiên, nguyệt
quế giữa núi tỏa hương thơm thanh mát thoang thoảng.

Len
giữa hơi thu trong mát của tháng tám, ta đi thẳng một mạch đến động Viêm Hoa.

Giữa
mây mù sương khói chờn vờn, cuối động, chính là chiếc giường băng mà Mặc Uyên
đã ngủ bao năm.

Trong
thời khắc quan trọng này, mắt ta lại hơi hoa lên, ta lấy tay dụi mắt một cái,
nước hoen đầy tay.

Trên
giường băng thấp thoáng một bóng người đang ngồi.

Ta
tiến lên mấy bước.

Người
ngồi trên giường băng đó, chính là, chính là sư phụ Mặc Uyên ngủ say bao năm của
ta.

Người
nghiêng đầu nhìn mấy đóa hoa dại cắm trong chiếc bình bên cạnh. Tư thế, thần
thái đó, không hề khác biệt so với bảy vạn năm trước, khiến ta chực rơi lệ.

Bảy
vạn năm trước, sư huynh đệ chúng ta luân phiên quét dọn phòng của Mặc Uyên, ta
có thói quen cắm ít hoa đặt trong phòng. Ngày ngày Mặc Uyên đều ngắm nghía, rồi
cười khen ta như vậy.

Khi
ấy, mỗi ngày nhận được nụ cười khen ngợi của người đối với ta, ta đều cảm thấy
tự hào.

Ta
làm người kinh động, người quay đầu lại, giơ tay chống má, mỉm cười nói: “Tiểu
Thập Thất? Quả nhiên là Tiểu Thập Thất. Lại đây sư phụ xem xem, dạo này ngươi
tiến bộ ra sao?”.

Ta
bấm móng tay vào cổ tay, vừa thở gấp, trống ngực vừa đập thình thình trong lồng
ngực, hai mắt ướt nhòe, run run bước tới, hắng giọng gọi một tiếng sư phụ, biết
bao cảm xúc đan xen dâng trào, vừa thương cảm vừa vui mừng.

Người
giơ tay đỡ ta, nói: “Sao lại sắp khóc thế này, à, bộ váy này đẹp lắm”.

Chiết
Nhan rẽ đám mây mù bước tới, theo sau là tứ ca, cười nói: “Ngươi ngủ suốt bảy vạn
năm, giờ đã tỉnh rồi”.

Trong
động Viêm Hoa rất lạnh, ta hắt hơi mấy cái liền bị tứ ca kéo ra khỏi động. Chiết
Chan và Mặc Uyên người trước kẻ sau ra khỏi động.

Năm
xưa khi trên Côn Luân, mười sáu sư huynh phía trên ta, ngoài cửu sư huynh Lệnh
Vũ là do Mặc Uyên nhặt về, mười lăm sư huynh còn lại đều là con cháu Thiên tộc.
Bảy vạn năm trước, sau khi Mặc Uyên mất tích, nghe nói các sư huynh đã tìm ta mấy
ngàn năm mà không có kết quả. Sau này từng người từng người bị gia đình gọi về,
mỗi người thực hiện một sứ mệnh riêng.

Tứ
ca từng âm thầm đến Côn Luân thăm dò một chuyến, sau đó ngậm ngùi nói, Côn Luân
đông đúc ngày nào, giờ đây chỉ còn lại một mình Lệnh Vũ và vài tiểu đồng trông giữ,
đáng buồn lắm thay.

Ta
không biết nếu như Mặc Uyên hỏi ta về Côn Luân, ta sẽ phải trả lời ra sao.

Dọc
đường đi về động Hồ Ly ta cứ thắc thỏm bồn chồn không nguôi.

Không
ngờ chuyến đầu tiên người đi lại không phải là Côn Luân.

Người
ngồi trong động Hồ Ly, Mê Cốc pha một ấm trà bưng lên, ta rót cho mỗi người một
tách, nhân lúc ta rót trà, người hỏi Chiết Nhan: “Những năm ta ngủ say, ngươi
có gặp một đứa trẻ, có dáng vẻ giống ta không?”.

Bình
trà trong tay ta chao đảo, sơ ý rót quá nửa bình lên đầu gối tứ ca.

Tứ
ca cắn răng cười với ta một cái, rồi âm thầm gạt nước trên đầu gối đi.

Bao
nhiêu năm trong bốn bể tám cõi, ta chỉ gặp một người duy nhất giống hệt Mặc
Uyên, ngươi đó chính là phu quân tương lai của ta - Dạ Hoa.

Dạ
Hoa có khuôn mặt giống hệt Mặc Uyên, lúc đầu tuy ta có hơi lạ lùng, nhưng cũng
chưa bao giờ nghĩ rằng bọn họ có quan hệ gì.

Ta
cảm thấy có lẽ đàn ông hoàn mỹ đều có dáng vẻ như vậy, Dạ Hoa rất hoàn mỹ,
đương nhiên sẽ có dáng dấp như vậy.

Nhưng
nghe Mặc Uyên nói, hai người bọn họ không chỉ có quan hệ, mà lại còn có quan hệ
rất mật thiết.

Ta
dỏng hai tai lên lắng nghe, Chiết Nhan cười ha ha, mắt liếc ta một cái, nói:
“Đương nhiên có một người như thế, tiểu đồ đệ của ngươi còn rất thân với hắn là
đằng khác”.

Mặc
Uyên nhìn qua phía ta, mặt ta liền đỏ bừng lên. Tình huống này hơi giống với một
thiếu nữ tự đính ước với tình lang, chẳng may bị một em gái “môi mỏng” tố giác
chuyện trăng gió với cha mẹ, cho nên ta cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng.

Chiết
Nhan lại liếc mắt nhìn ta ba, bốn lượt đầy ẩn ý. Ta cũng lườm lại lão, đành cố
ra vẻ thong thả, nói: “Người mà sư phụ nói tới, hì hì, chính là phu quân tương
lai của đồ đệ, hì hì, chính là thái tử bây giờ của Thiên tộc, hì hì hì…”.

Bàn
tay cầm tách trà của Mặc Uyên khẽ khựng lại, cúi đầu hắng giọng, lát sau, người
mới bình thản nói: “Mắt chọn nương tử của người này, haizz”. Ngẩng đầu lên, người
lại hỏi: “Phu quân chưa cưới của ngươi tên gì? Sinh năm nào?”.

Ta
thành thực bẩm báo.

Người
bấm ngón tay nhẩm tính, lại bình thản nhấp ngụm trà: “Tiểu Thập Thất, đệ đệ
song sinh với ta, đã bị ngươi bắt rồi”.

Ta
choáng váng: “A?”.

Không
chỉ ta mà cả Chiết Nhan và tứ ca cũng đều trợn mắt há mồm, bộ dạng như bị sét
đánh trúng vậy.

Mặc
Uyên xoay xoay chén trà, nói: “Chẳng trách các ngươi kinh ngạc, đến ta cũng chỉ
được biết khi phụ thân lâm chung, năm xưa mẫu thân tuy chỉ sinh ra mình ta,
nhưng ta vẫn còn có một đệ đệ song sinh”.

Mặc
Uyên nói, chuyện này phải kể từ khi Mẫu Thần hoài thai hai huynh đệ.

Nghe
nói năm đó, tứ cực đổ, cửu châu lở. Mẫu Thần vì vá bốn cột chống trời, nên đã bị
động thai, khi sinh chỉ có thể giữ được đứa lớn, không thể giữ đứa nhỏ, Phụ Thần
cảm thấy có lỗi với con trai nhỏ, đành cố lưu lại hồn phách đáng nhẽ đã tiêu
tan vào vũ trụ của nó, nuôi trong nguyên thần mình của mình, muốn xem xem có
thiên số và cơ duyên, để có thể tạo một tiên thai cho đứa con trai nhỏ, để nó
có thể sống lại. Phụ Thần đã dành một nửa pháp lực để tạo ra một tiên thai,
nhưng dù làm cách nào vẫn không thể gọi hồn phách của đứa con nhỏ tỉnh lại được.
Phụ Thần bèn biến tiên thai đó thành một quả trứng chim vàng sáng lấp lánh, giấu
trong núi sau núi Côn Luân, định đợi hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại sẽ
dùng.

Nhưng
thiên mệnh như thế, chẳng đợi được hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại, Mẫu Thần
Phụ Thần đã cùng nhau về nơi hỗn độn.

Trước
khi lâm chung, Phụ Thần có kể chuyện này cho Mặc Uyên nghe, rồi tách hồn phách
của đứa con trai nhỏ trong nguyên thần ra, gửi gắm cho Mặc Uyên. Mặc Uyên nhận
hồn phách của đệ đệ mình, cũng như Phụ Thần, đem nuôi dưỡng trong nguyên thần của
mình. Bãi bể biến nương dâu bao bận, người em song sinh được nuôi trong nguyên
thần của Mặc Uyên vẫn chưa hề tỉnh lại.

Mặc
Uyên nói: “Có lẽ khi ta dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, nó đã tỉnh lại.
Bây giờ ta mới có thể trở lại, hẳn lúc ta hồn tan phách tan, nó đã tốn công thu
nhặt từng mảnh hồn phách tan tác của ta lại. Ta còn láng máng nhớ, có một đứa
trẻ ngồi bên cạnh cơ thể ta vá từng mảnh hồn của ta, vá suốt bảy, tám nghìn
năm, vá được một nửa thì bị một đạo kim quang chiếu rọi vào trong động phủ của
ta cuốn mất đi. Sau khi nó đi, ta đã có thể tự mình vá hồn, nhưng rất khó khăn,
tốc độ cũng hết sức chậm chạp. Giờ nghe các ngươi kể, nó đã là thái tử của
Thiên tộc, có lẽ khi ấy vị phu nhân nào đó trên trời dạo chơi Côn Luân, nuốt phải
quả trứng mà Phụ Thần chôn năm nào, tiên thai đã cắm rễ trong bụng vị phu nhân
đó, mới cuốn nó đi”.

Chiết
Nhan cười ha ha, nói: “Chẳng trách ta nghe nói, khi Dạ Hoa chào đời, có bảy
mươi hai con chim ngũ sắc bắc cầu suốt tám mươi mốt ngày, ráng đỏ phương đông
chiếu rạng suốt ba năm, hóa ra hắn là đệ đệ song sinh của ngươi”.

Khi
nãy nghe được tin này ta đã choáng váng sững sờ, thật không ngờ có một ngày lại
có thể với cao có quan hệ thân thiết như thế với Mặc Uyên. Bây giờ nghe người kể
ngọn nguồn, sau khi bàng hoàng, ta lại cảm thấy cực kỳ trấn tĩnh, thậm chí cảm
thấy dáng vẻ của Dạ Hoa như vậy, quả đúng là đệ đệ song sinh của Mặc Uyên.

Trong
sử sách trên Cửu Trùng Thiên rõ ràng còn ghi chép, Phụ Thần chỉ có một con trai
là Mặc Uyên. Có thể thấy các thần quan chép sử này đều là không đáng tin, tin
vào sử sách đó, thì chẳng thà tin vào những câu chuyện mà Ti Mệnh nhàn rỗi thêu
dệt nên còn hơn.

Mặc
Uyên muốn đi thăm Dạ Hoa, nhưng người vừa mới tỉnh lại, muốn khôi phục như ngày
xưa còn phải đóng cửa tu luyện mấy năm. Ta lo lắng cơ thể người chưa được linh
hoạt, nếu cứ khăng khăng đi xuống trần gian thì e rằng sẽ bất lợi cho việc tu
luyện, nên đành kiếm một cái cớ để lấp liếm, hẹn rằng khi nào người tu luyện
xong, sẽ dẫn Dạ Hoa đến gặp người.

Động
Viêm Hoa tuy rằng linh khí hội tụ, nhưng quá lạnh lẽo, không thích hợp để Mặc
Uyên tu luyện. Người một lòng muốn về động phủ sau núi Côn Luân đóng cửa tu luyện
như năm nào, tuy ta không muốn để người thấy cảnh tiêu điều của Côn Luân ngày
nay mà đau lòng, nhưng giấy sao gói được lửa, cuối cùng thì người vẫn phải đau
lòng mà thôi. Nghĩ rằng đau muộn chẳng bằng đau sớm, sau hai tuần trà, ta cùng
Mặc Uyên trở về Côn Luân. Chiết Nhan và tứ ca nhàn tản rỗi rãi, cũng đi theo,
còn Tất Phương cũng đi theo nốt.

Năm
người chúng ta cưỡi ba đám mây bay về Côn Luân, tứ ca từng nói Côn Luân giờ đây
tiêu điều hiu quạnh vô cùng.

Ta
cũng thở dài một tiếng.

Từ
cửa núi đi xuống có rất nhiều tiển thần tiên, hoặc đứng hoặc quỳ hoặc ngồi, khí
xanh khí tím trộn lại, mây mù bốc lên lưng chừng núi, tiên khí cuồn cuộn dâng
cao, ai cũng có thể nhận ra đây là một ngọn núi tiên.

Trong
hai vạn năm ta học nghệ ở đây, Côn Luân luôn vắng vẻ, chỉ không quá bảy vạn
năm, sao lại nhộn nhịp thế này?

Tất
Phương chở tứ ca, co móng vuốt đậu xuống, rồi lại khều một tiểu thần tiên trông
có vẻ thực thà hỏi thăm.

Tiểu
thần tiên chớp chớp mắt, trả lời: “Ta cũng không biết, ta đi công chuyện ngang
đây, nghe nói có một đạo long khí quấn quanh vách núi đã ba bốn ngày, rất nhiều
tiên hữu đều đến đây xem, ta cũng tiện đường đến xem. Chuyến này quả không uổng
công, long khí này, chậc chậc chậc, không phải long khí bình thường, tuyệt đẹp,
ta ngồi đây ngắm đã hai ngày rồi. Ngươi thả con chim này đi bắt sâu, lát nữa
chúng ta cùng xem, đảm bảo khiến ngươi đã mắt, bên ta còn một chỗ, đây, chúng
ta ngồi đây xem…”.

Tứ
ca cảm ơn rồi từ chối ý tốt của tiểu thần tiên đó, im lặng quay về, hắng giọng
nói: “Không có gì, bọn họ ngưỡng mộ phong thái của Côn Luân, nên đến chiêm
bái”.

Chiết
Nhan rũ rũ tay áo, ho một tiếng, nụ cười phảng phất, nói với Mặc Uyên: “Côn Luân
vốn là một tòa núi tiên mọc ra từ long cốt(*). Có lẽ nó cảm nhận được ngươi sắp
quay về, nên phấn chấn tới mức xuất ra long khí để đón tiếp, thế nên đã thu hút
được một số tiểu tiên thiếu hiểu biết xung quanh”.

(*) Long cốt: xương rồng.

Mặc
Uyên nhếch môi cười.

Để
tránh quấy rầy đám tiểu thần tiên ở lưng chừng núi, năm người chúng ta đều ẩn
thân đi vào trong. Nhờ cửu sư huynh giữ nguyên nếp cũ, phép khóa ở cửa núi vẫn
như xưa, không hề sửa đổi.

Ta
ngỡ rằng hôm nay sẽ chỉ có thể gặp mỗi Lệnh Vũ, nào ngờ vừa bước vào, cảnh tượng
trước mặt làm ta giật nảy cả mình. Mười sáu sư huynh của ta, đều mặc đạo bào
như khi còn làm đệ tử của Côn Luân, tóc búi kiểu đạo sĩ, đứng thành hai hàng
bên cạnh con đường đá.

Cây
trong viện vẫn là cây Bà La Song mà mấy vị Phật Đà từ Tây Thiên đến uống trà
mang tới. Mười sáu sư huynh của ta đứng trang nghiêm dưới bóng Bà La Song, dường
như đã đứng đó suốt bảy vạn năm.

Đại
sư huynh mắt đỏ hoe trước tiên, quỳ “phịch” một tiếng xuống đất, giọng run run:
“Mấy hôm trước Cửu sư đệ đưa tin tới, nói long khí ở Côn Luân bốc lên, có lúc
còn có tiếng rồng gầm, không biết là điềm gì, sư huynh đệ chúng con về ngay
trong đêm, tuy từng nghĩ là điềm lành sư phụ sẽ quay về nhưng cũng không dám
tin. Hôm nay ở trong điện cảm thấy khí trạch của người quẩn quanh bên ngoài,
chúng con vội vã chạy ra nhưng vẫn không kịp ra ngoài cửa núi đích thân đón người,
sư phụ, người đi đã bảy vạn năm, giờ mới quay về”. Dứt lời, đã khóc không thành
tiếng. Khuôn mặt huynh ấy đã không còn là gương mặt thuở niên thiếu, tuổi tác
đã cao hơn nhiều, khóc như thế này, thực khiến người ta nghẹn lòng. Mười lăm sư
huynh còn lại đều nhất loạt quỳ xuống nức nở. Mười sáu sư huynh đều khóc không
thành tiếng.

Mặc
Uyên cúi nhìn, nói: “Đã để các con phải chờ lâu rồi, đứng dậy cả đi, vào trong
nhà rồi nói”.

Câu
chuyện bắt đầu là các sư huynh khóc lóc một trận, khóc xong bèn kể năm đó không
cẩn thận đã để lạc mất Tư Âm Thần Quân, tức thượng thần bất tài là ta.

Nhắc
đến ta, đại sư huynh bi phẫn khôn cùng. Năm đó vốn là ta bỏ thuốc bọn họ, rồi
trộm tiên thể của Mặc Uyên rời khỏi Côn Luân ngay trong đêm. Sai lầm này của ta
huynh ấy quyết không nhắc tới, chỉ luôn miệng nói đã không chăm sóc ta, để lạc
ta, là lỗi của huynh ấy. Mấy năm nay huynh ấy không ngừng tìm kiếm ta, nhưng bặt
vô âm tín, có lẽ ta đã lành ít dữ nhiều. Huynh ấy thân là đại sư huynh mà không
làm tròn bổn phận, đến tiểu sư đệ cũng không bảo vệ nổi, xin sư phụ xử phạt thật
nặng.

Ta
đứng bên cạnh tứ ca, nghe huynh ấy nói như vậy, viền mắt đỏ hoe, vội vàng trình
bày: “Ta không phải lành ít dữ nhiều, ta đang đứng sờ sờ trước mặt huynh, chẳng
qua ta chỉ thay đổi xiêm y, ta là Tư Âm đây”.

Các
sư huynh ngẩn người, đại sư huynh loạng choạng ngã xuống đất, một lúc sau, mới
lồm cồm bò dậy ôm lấy ta, lau nước mắt, chua chát nói: “Cửu sư đệ nói trong
lòng ai cũng có một giấc mộng đoạn tụ, năm đó nhị hoàng tử Quỷ tộc đến cướp đệ,
ta đã đánh cho hắn đứt giấc mộng này, nhưng lại không kịp thời cắt đứt giấc mộng
của đệ, Thập Thất đáng thương biết bao, bây giờ đệ đã thành đoạn tụ, còn lại là
đoạn tụ thích mặc quần áo con gái…”.

Tứ
ca không nhịn được cười sằng sặc.

Ta
cố gắng ngăn dòng lệ, đau buồn nói: “Đại sư huynh, khuôn mặt này của ta, huynh
xem lại có phải là nam giả nữ không?”.

Thập
sư huynh kéo đại sư huynh ra, ngượng ngùng nói: “Trước đây đệ không chịu tắm
chung với bọn ta, hóa ra là vì thế, hóa ra Thập Thất đệ lại là con gái”.

Tứ
ca ta kéo dài giọng: “Nàng là một nữ nhi xinh đẹp…”.

Ta
đá cho huynh ấy một cái.

Đại
sư huynh trước đây không như vậy, quả nhiên tuổi cao sẽ dễ dàng trở nên đa sầu
đa cảm.

Sau
chuyện của ta, là kể đến chuyện các sư huynh trong bảy vạn năm nay đã tự mình
gây dựng sự nghiệp hiển hách.

Mười
sáu sư huynh này của ta, thuở thiếu thời cũng chẳng ra sao, ta theo bọn họ, tuy
không trèo cây hái táo, xuống sông bắt cá nữa, nhưng lại học được thói đá gà,
đuổi chó, chọi dế, học được thói cưỡi ngựa xem hoa, uống rượu xem cung xuân đồ,
chuyện nào cũng thành thạo, giấu sư phụ xuống trần gian làm bậy, còn tự cho
mình là phong lưu ngàn năm khó gặp.

Ngày
nay ta ra nông nỗi này, không thể không kể đến công lao của mười sáu sư huynh.
Nhưng mười sáu sư huynh khiến ta ra nông nỗi này, ai cũng thành tài. Khi ông trời
an bài số phận cho chúng ta, hẳn ông ấy đang ngủ gật.

Nhưng
cơn ngủ gật của ông trời lại khiến ta rất hởi lòng hởi dạ, hẳn sư phụ người
cũng rất hởi lòng hởi dạ.

Sau
khi hởi lòng hởi dạ, tai lắng nghe những chiến công hiển hách của các sư huynh,
lại nghĩ đến lúc các huynh ấy lập công lao ta đang làm những gì, so sánh với
nhau, một cảm giác buồn bã cứ thế dâng trào.

Tứ
ca ngồi bên cạnh tay cầm bút ngồi chép lia lịa, thỉnh thoảng còn vỗ tay hô to:
“Ly kỳ, thật ly kỳ”. Ngoài cảm xúc buồn bã ra là cảm giác mất mặt, xấu hổ.

Thập
sư huynh an ủi ta: “Muội là con gái, con gái thì chẳng cần lập công lao làm gì,
đám muội muội của ta cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện gả cho một nhà chồng tốt, Thập
Thất, muội chỉ cần gả cho một nhà chồng tốt là hạnh phúc rồi”.

Thập
lục sư huynh cười hì hì nói: “Thập Thất đã ngần này tuổi, không cần nói đến nhà
chồng nữa, e rằng con cũng có mấy đứa rồi. À, đúng rồi, hôm nào cho các sư
huynh gặp phu quân của muội đi. Dung mạo, tính cách muội như vậy, không biết được
gả cho vị phu quân như thế nào”.

Những
lời của huynh ấy từng câu từng chữ giẫm vào vết đau của ta, ta lau mồ hồi trán,
ngượng ngập cười khan nói: “Nói hay lắm, nói hay lắm, tháng sau nữa là lễ thành
hôn của muội, lúc đó mời các huynh đến uống rượu”.

Mặc
Uyên từ nãy tới giờ ngồi bên lắng nghe, khi ta thốt ra hai tiếng “uống rượu”,
chén trà trong tay người nghiêng một cái, rớt một nửa ra ngoài, ta vội chạy đến
thu dọn. Chiết Nhan ho hai cái.

Cửu
sư huynh Lệnh Vũ quản lý Côn Luân đâu ra đó, tứ ca tròn một tháng không về động
Hồ Ly, bụi trong phòng huynh ấy cũng tích dày nửa thước. Đã bảy vạn năm ta chưa
lên Côn Luân, căn phòng ta ở khi còn làm đệ tử vẫn sạch sẽ tinh tươm. Ta hôi
rình mồ hôi, nằm trên giường, rồi lại trở mình một cái.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3