Đài tưởng niệm đen của bầy diều hâu gãy cánh - Chương 20 - Phần 2

Vừa trả lời tôi vừa có ý nghĩ xẻ cổ họng con người thông thái vui tính này ra để nhét vào đó một cuộn băng tẩm thuốc mê.

- Cậu thấy chưa, hiện thời chúng ta đã phăng tới đầu mối. Chỉ trong đầu hôm sớm mai, bà mẹ không còn là kẻ kình địch nữa. Tôi đã phải làm việc suốt tuần để chuẩn bị một cuộc găp gỡ giữa hai mẹ con và tất cả đều diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Cậu đã thấy cô Terhoven trở lại dự thánh lễ lúc nãy rồi.

- Khoan, ông lại đóng vai trò của Bodendick rồi à? Với một kẻ vô thần...

- Đừng giả bộ ngu! Vấn đề không phải ở chỗ đó. Tôi muốn nói là cô ấy đã có phần tỉnh táo, dễ giao tiếp hơn. Cậu không nhận ra điều đó trong lần gặp gỡ cuối cùng sao?

- Cậu thấy không - Wernicke lại xoa tay - Sau cơn xúc động mạnh đầu tiên, kết quả đã có phần mỹ mãn.

- Và cơn xúc động đó cũng nằm trong phần trị liệu?

- Chớ sao.

Tôi nghĩ tới Isabelle đang nằm trong phòng:

- Bác sĩ giỏi quá!

Wernicke vẫn chìm mình trong thành quả vừa đạt được nên không để ý tới giọng châm biếm của tôi.

- Một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi cộng thêm phương pháp chữa trị của tôi là mọi việc đều êm xuôi. Nhưng đó là chuyện dự đoán... và tôi đang đặt nhiều hy vọng. Cậu hiểu là tôi không có uy quyền để cho bất cứ gì ngăn trở hay làm chậm trễ diễn tiến bình thường.

- Nói cách khác, tôi không được...

Wernicke gật đầu:

- Tôi biết là cậu hiểu rõ như thế. Cậu có một chút tò mò của nhà thông thái. Cậu đã giúp ích chúng tôi quá lâu nhưng bây giờ... Ủa! Chuyện gì vậy?

- Điếu xì-gà. Mạnh quá!

- Không phải đâu. Loại xì-gà Ba Tây này có tiếng là nhẹ nhất trong các loại thuốc lá khác mà.

- Có thể như vậy.

Tôi dụi mẩu xì-gà còn lại vào cái gạt tàn. Wernicke lại tiếp tục nói một cách say mê:

- Bộ óc con người... Trước kia tôi muốn được làm thủy thủ, một tay phiêu lưu, một nhà thám hiểm rừng già. Buồn cười không! Bây giờ tôi mới biết bộ óc con người mới đáng là nơi được thám hiểm - Ông ta vỗ trán - dường như tôi đã có dịp nói với cậu những chuyện đó phải không?

- Đúng rồi, không cần nhắc lại nữa!

Lá khô dập nát dưới bước chân. Mình là kẻ si tình chị Nguyệt! Dính vào những chuyện rắc rối của nhà tâm bệnh học quèn đó làm gì? Với những người cùng loại ông ta, tất cả đều giản dị.

Tôi đi thẳng ra cổng và suýt đụng phải một người đàn bà đi ngược lại. Bà ta mặc áo choàng lông, không phải là người của viện. Trời tối nhưng tôi vẫn thấy được một khuôn mặt xanh mét, buồn phiền. Bà ta đi qua còn để lại phía sau một ít mùi nước hoa.

Tôi hỏi người gác cổng:

- Ai vậy?

- Không biết. Bà ta tới gặp bác sĩ Wernicke. Đã tới đây mấy lần rồi. Dường như đi thăm một người bệnh nào đó.

A! A! Đúng là mẹ của Terhoven. Ra tới ngoài, tôi nhìn ngoái lại. Tôi giận sôi lên, vừa hận vừa tức là đã tự biến thành lố bịch thương hại cho chính mình... và cuối cùng là cảm nghĩ trống không và bất lực.

Tựa người vào cây dẻ, tôi cảm nhận sự tươi mát của vỏ cây. Tôi không còn biết mình muốn gì và đang ở đâu.

Một lúc sau, tôi tiếp tục đi và lần lần bình tĩnh lại. Cứ để cho họ nói, Isabelle, cứ để cho họ nhạo báng chúng mình. Isabelle em là một cuộc sống bé nhỏ quý mến của tôi, Isabelle nhẹ nhàng và thanh thoát, em dám đi vào những nơi mà loài người tới đó sẽ mất thăng bằng, em bay bổng trong khi họ trợt chúi và tiến tới những biên giới mà họ không thể ngờ... bây giờ họ muốn làm gì em? Tại sao họ phải vận dụng toàn lực để kéo lôi em trở về thế giới của họ thay vì cứ để em sống ở đó thoát khỏi mọi hệ lụy, vượt trên thời gian và cõi chết? Hay là Wernicke đã nói đúng, ông ta muốn cứu em ra khỏi những sự sợ hãi không tên đang lần lần đưa em vào vực thẳm u mê? Ông ta thật sự có được khả năng đó hay không? Hay lại làm cho em rơi mau hơn vào vực thẳm? Nhà sưu tầm bươm bướm đó có hiểu được những nguy cơ và những phút thoát trần của cuộc sống bất chấp thời gian và không gian? Ông ta đã uống mặt trăng chưa? Đã biết là cây cỏ kêu khóc chưa? Tất cả những điều đó với ông ta chỉ là một sự lệch lạc gây ra bởi những va chạm mạnh của tri giác, ông ta là nhà tiên tri, hay Thượng đế, để biết được những gì sẽ xảy ra một cách tất nhiên?

Tôi dừng lại. Thế là, nếu được chữa khỏi, nàng sẽ ra đi! Mẹ nàng, mặc áo choàng lông, phảng phất mùi nước hoa, sẽ can thiệp... Đối với tôi, Isabelle thế là không còn nữa...

Tôi vào một quán cóc. Vài người tài xế đang ngồi ở trong cùng. Một tấm gương méo mó phản chiếu khuôn mặt đờ đẫn của tôi. Phía trước nằm trong tủ kính là khoảng nửa chục ổ bánh nhỏ dồn cá mòi, đuôi cá vểnh lên.

Li rượu mạnh đầu tiên khiến tôi có cảm tưởng dạ dầy thủng lỗ. Tôi ăn ngấu nghiến một hơi mấy ổ bánh và gọi thêm một miếng phô-mai. Tất cả những món ăn đó đều khó ngửi nhưng tôi vẫn nuốt như điên. Tôi lại kêu thêm một dĩa dồi đỏ hỏn tưởng chừng như chúng có thể hí bất cứ lúc nào. Càng ăn tôi cảm thấy rõ sự đau xót và cơn đói cào của ruột.

Người chủ quản nhìn tôi:

- Bạn nhỏ ăn coi ngon lành quá!

- Đói lắm. Còn gì ăn nữa không?

- Còn xúp đậu. Đặc sệt nếu bạn cho thêm bánh mì vào.

- Tuyệt! Cho xúp ra đây.

Món xúp đậu biến mất trong nháy mắt. Chủ quán đem thêm ra một lát bánh mì quết mỡ heo, món này không tính tiền. Tôi lại nuốt chửng! Nhưng vẫn cứ đau khổ và đói cồn cào.

Mấy người tài xế bắt đầu chú ý đến trạng thái lạ thường của tôi. Một người lên tiếng:

- Tôi biết có một thằng cha ăn luôn một hơi ba chục cái trứng luộc.

- Không có đâu. Ăn như vậy là chết ngay. Khoa học đã chứng minh.

Tôi nhìn anh chàng thích làm bạn với khoa học:

- Anh có thấy ai chết như vậy chưa?

- Thấy chớ.

- Không chắc đâu. Có điều khoa học chứng minh rất rõ mà ông bạn không để ý là những người lái xe đều chết yểu.

- Sao vậy?

- Hơi xăng chớ còn sao. Nhiễm độc từ từ.

Chủ quán lại xuất hiện với một dĩa xà-lách trộn theo kiểu Ý. Giờ này, ông ta tìm đâu ra xà-lách tươi? Lại có cả sốt dầu trứng. Bí mật! Hay là ông ta đã lấy bớt một ít trong bữa ăn tối để chia cho tôi? Mặc! Tôi cứ tống hết vào rồi cáo từ. Ruột nóng như lửa nhưng không hiểu sao tôi vẫn có cảm tưởng là nó trống không như chiêc thùng không đáy của các cô Danaides [1].

[1] Danaidea: Tên của năm mươi cô gái con Danaos, đêm tân hôn đã giết tất cả, trừ chồng họ ra. Các cô bị đày xuống địa ngục, bị phạt đổ nước cho đầy một cái thùng không đáy.

Đường phố tối ám, rải rác những người ăn xin. Đây không phải là những người hành khất trước kia mà là những người què cụt vì chiến tranh, những kẻ thất nghiệp và những người già cả không ai nuôi dưỡng giữa thời buổi lạm phát gia tăng.

Cảnh tượng trước mắt khiến tôi xấu hổ khi nghĩ tới mình vừa ăn xong một bữa quá no, quá đầy đủ. Nếu tôi chia phần ăn lúc nãy cho vài ba người trong những kẻ khổ sở này chắc chắn họ sẽ được một bữa ăn sang trọng. Tôi lấy tất cả tiền còn lại trong túi và phân phát. Ít quá. Sáng mai vào lúc mười giờ khoản tiền đó lại mất giá thêm một phần tư. Mùa Thu năm nay, đồng Đức kim đã bị phá giá gấp mười lần hơn. Tất cả những người ăn xin đều biết vậy nên sau khi nhận tiền họ chạy biến đi, bởi một phút là một de dọa. Trong vòng một tiếng đồng hồ, giá của một dĩa xúp có thể lên tới vài triệu Đúc. Đó là tùy theo chủ quán mua đồ sớm hay trễ.

Tôi tiếp tục đi. Từ trong bệnh viện một vài người đi ra cùng một người đàn bà băng bột ở cánh tay phải.

Bệnh viện đứng sừng sững như một tòa thành chiếu sáng trong bóng tối. Hầu hết các cửa sổ đều sáng choang, dường như phòng nào cũng đầy nghẹt bệnh nhân. Giữa thời buổi lạm phát con người chết rất mau. Không ai biết rõ hơn chúng tôi, những người chuyên bán mộ bia.

Ra đường lớn, tôi đi thẳng tới một hiệu tạp hóa thường mở cửa rất khuya. Chúng tôi đã có thỏa ước riêng với bà chủ tiệm. Lúc chồng bà ta chết, chúng tôi đã giao tới một mộ bia loại bình thường và giao ước với giá sáu Mỹ kim đổi lấy hàng hóa. Đó là lối mậu dịch thông thường trong vùng của chúng tôi, người ta có thể đổi những đồ bằng sành để lấy dồi chả, nữ trang; để lấy khoai tây, bàn ghế; để lấy bánh mì, dương cầm; để lấy thịt đùi, lưỡi dao cạo; để lấy rau cải...

Tháng vừa rồi, Georges suýt đổi được một tấm bia cẩm thạch để đổi lấy một cái áo đuôi tôm gần như mới tinh. Tuy nhiên, cuối cùng Georges đành từ khước vì quá tin dị đoan: đó là cái áo của một người đã chết. Người đàn bà góa cho biết, cái áo đó được nhuộm lại rồi và như vậy là kể như còn mới. Theo người thợ nhuộm thì hơi clor đã tống hơi hướm của người chết ra khỏi các nếp áo và các đường may. Georges tiếc quá vì cái áo rất vừa với y.

Tôi nắm chốt cánh cửa. Đã bị khóa mất rồi. Chán nản, tôi nhìn qua những món hàng bày trong tủ kính rồi lững thững trở về nhà.

Trong sân, các tấm bia bằng sa thạch, chưa khắc tên, giăng hàng ngang như chắn lối đi. Kurt Bach vừa làm ra chúng vừa nguyền rủa sự phản bội nghề nghiệp và tài năng của chính hắn. Mấy lúc sau này, hắn ít có dịp đẻo đá để tạc thành những con chim ưng buồn rũ hoặc những tháp tưởng niệm xứng đáng. Chẳng còn gì để làm, hắn đành gọt đẻo những tấm bia rẻ tiền bất cứ lúc nào cũng có chỗ bán, nhứt là vào mùa Thu khi có gió thổi mạnh cũng như vào những ngày đầu xuân.

Mấy chiếc máy may trong nhà lão Knopf vẫn chưa ngưng nghỉ. Xuyên qua cửa kính, ánh đèn từ phòng ăn lão cho thấy họ vẫn còn may tang phục, cửa sổ phòng riêng của lão không có ánh đèn. Có lẽ lão đã chết. Tôi chợt nghĩ, nếu đúng thế, chúng tôi nên đặt cái tháp đen chĩa chóp nhọn lên trời ở mồ của lão. Đõi với lão, cái tháp huyền bí đó cũng như một quê hương thứ hai. Khối đá hoa cương già nua đó đã làm chán nản luôn cả hai thế hệ của dòng họ Kroll.

- Vào đi!

Georges đã nghe tiếng bước chân tôi từ trên gác xuống. Tôi xô cửa và dừng sững lại. Như thường lệ. Georges ngồi ở ghế dựa, quanh y là những tạp chí hình ảnh. Hội đoàn tuyển chọn sách báo ngoại quốc mà Georges đã đóng tiền mua dài hạn vừa gởi tới những tuần sau đó.

Nhưng đó không phải là chuyện làm tôi ngạc nhiên. Vấn đề là y mạc áo đuôi tôm, sơ-mi thẳng nếp và áo cánh trắng, giống y như bức họa của tờ báoĐộc thân. Tôi hỏi dò:

- Vậy là nhượng bộ rồi phải không? Cái áo của chồng người đàn bà góa chớ gì?

- Không đâu! - Georges vươn vai thỏa mãn - Cái áo mà chú thấy đấy chứng tỏ là nữ giới luôn luôn vượt chúng mình về lãnh vực khéo léo. Người đàn bà đó đã đem chiếc áo của ông chồng chết đến một tiệm may đổi lấy cái áo này. Làm như vậy là không chạm đến sự tế nhị của tôi. Cái kia lót bằng sa tanh còn cái này thì lót một lớp lụa đôi. Lại vừa vặn cả tay áo và vẫn một giá.

Tôi ngắm Georges. Cái áo còn tốt, chắc chắn không hoàn toàn mới, có lẽ cũng là của một người nào đã chết. Nhưng thấy Georges quá hài lòng, tôi không muốn làm y mất vui. Vả lại, tất cả những gì chúng ta đang có không phải là của những người đã chết để lại hay sao? Ngôn ngữ, tập quán, kiến thức, thất vọng và còn gì nữa? Hơn thế, trong suốt cuộc chiến, Georges đã chẳng lừng mặc quần áo của những người đã chết hay sao? Năm sau cùng cuộc chiến, chúng tôi đã phải mặc những bộ quân phục còn vấy máu hoặc bị thủng vì vết đạn. Như vậy, bây giờ mặc y phục vẫn còn tươm tất của người chết chẳng phải là đã hơn nhiều sao? Tuy thế, đối với Georges, biểu trưng cho hòa bình là không bao giờ mặc đồ của những người đã chết.

- Các ngôi sao màn bạc bây giờ có thay đổi gì không? Henry Porten, Erna Morena và Lisa de Putti?

Georges ngước mắt:

- Họ cũng có những phiền muộn giống mình. Chạy trốn vào những của cải nổi: xe hơi, áo lông, vương miện, chó đẹp, nhà to, cổ phân đầu tư và sản xuát phim ảnh... có điều là họ tạo được những thứ đó dễ hơn mình.

Y khoan khoái ngắm một bức ảnh chụp cảnh tiếp tân ở Hollywood. Một cuộc khiêu vũ trong một không khí sang trọng không thể tả. Bọn đàn ông đều ăn mặc như Georges hoặc lễ phục.

- Chừng nào anh sắm lễ phục?

- Sau khi được khiêu vũ một lần với áo đuôi tôm. Muốn sắm phải tới Bá Linh. Ba ngày. Và khi nào nạn lạm phát đã kiệt sức và tiền bạc không luôn ra khỏi ngón tay như cát. Trong khi chờ đợi đành bằng lòng với hiện tại.

- Anh còn thiếu giầy nhảy.

Georges lấy đồng vàng hai mươi Đức kim ra, tung lên không bắt lấy và nhét lại vào túi áo, không nói một lời. Tôi thèm muốn được là con người của y. Y ngồi đó, mặt phớt lạnh điếu xì-gà thò đầu ra túi áo, bên kia đường là Lisa luôn say mê y, bởi gia đình Kroll có cả một xưởng thợ trong khi cha của ả chỉ là một nhân viên công nhựt.

Từ lúc bé, Lisa lúc nào cũng ngẩn người mỗi khi nhìn thấy Georges ra đường với cổ áo trắng toát, mũ thủy binh trên đầu trong khi cô nàng mặc váy cũ do mẹ sửa lại cho vừa. Và con bé hàng xóm tiếp tục ngẩn người trước sự hiện diện của gã con trai hàng xóm giàu sang. Georges khỏi cần nhích động ngón tay cũng đã chinh phục được một trái tim lúc còn non. Theo tôi chắc không ngờ Lisa thấy người yêu hói đầu. Đối với ả, Georges vẫn cứ là “hoàng tử của lòng em”.

Georges lấy một hộp cá con rồi chỉ nửa ổ bánh mì và một miếng bơ:

- Chú nghĩ sao? Một bữa lót dạ ngoại lệ để nói chuyện triết lí về một thành phố nhỏ sau khi mặt trời lặn, có nên không?

- Chán lắm. Tại sao đã sang trọng thế này lại chẳng đến nhà hàng cũ Hohenzollern hay nay là “Triều đình” để ăn tối. Trứng cá caviar và trái cây miền biển.

- Tôi chỉ thích những tương phản. Nếu không thì tội gì lại phải làm một tên bán mộ bia trong một thị trấn nhỏ giữa giấc mộng hải hồ.

Georges đứng sừng sững bên cửa sổ với tất cả màu sắc huy hoàng. Bên kia đường vẳng sang một tiếng rú thán phục. Georges quay cả thân trước ra ngoài, hai tay cho vào túi quần để làm nổi bật chiếc áo gillet trắng. Lisa cuồng nhiệt lên. Ả quấn sát chiếc kimono vào người, ưỡn ẹo vài bước nhảy Ả Rập, và thình lình để khỏa thân thành bóng mờ trước ánh đèn, choàng chiếc kimono vào, dời ngọn đèn sang một bên và tái hiện với thân hình nóng hổi và nụ cười ngon mát. Georges bình thản theo dõi vũ điệu chào mừng như một lãnh chúa Thổ Nhĩ Kỳ và tôi đứng đó nhưng một hoạn quan trong cung điện.

Đối với Lisa, chiếc áo đuôi tôm không phải là vật lạ vì ả đã từng chạm tay chạm chân chẳng biết bao nhiêu người mặc áo đó trên sàn nhảy Moulin Rouge. Tuy nhiên, một khi chiếc áo đó nằm trên người Georges thì sự việc khác hẳn. Như vàng khối.

- Anh thật là có phước. Rồi đây thế nào Riesefield cũng khô cạn cả xương tủy và sẽ sạt nghiệp. Nhiều lắm là hắn chỉ thành công được một phần tư với bao nhiêu gian khổ đó, còn anh thì chỉ cần làm một hình nộm cũng đủ chiến thắng trăm phần trăm.

Georges có vẻ nhìn nhận:

- Đó là bí quyết và tôi tiết lộ cho chú nghe đây. Đừng bao giờ phức tạp hóa những gì có thể thực hiện một cách đơn giản. Đó là tư tường khôn ngoan nhất trong cuộc sống. Nhưng không mấy dễ dàng khi thực hành, nhứt là với những người trí thức và lãng mạn.

- Và sau nữa?

- Chỉ có vậy thôi. Đừng bao giờ chơi trò lực sĩ của tinh thần khi mà một cái quần mới cũng có thể gặt hái được hiệu quả tương tự. Như vậy chú sẽ không làm phiền người bạn đồng hành và y sẽ theo chú một cách dễ dàng. Chú cứ bình tĩnh, thản nhiên như là những con sơn ca, tôi nói theo nghĩa bóng, sẽ rơi thẳng vào miệng - tất cả đều đã được quay chín.

- Coi chừng dính mỡ lên ve áo, khô cá con hôi lắm.

- Chú nói có lí - Georges cởi áo ra - Đừng bao giờ cố đuổi bắt hạnh phúc. Đó là lời khuyên thứ hai.

Georges tiếp tục nhấm những con cá khô. Tôi hơi bực:

- Tại sao anh không làm một loạt lời hay ý lạ cho các hãng sản xuất du lịch. Đáng tiếc là những tư tưởng đó lại quá tầm thường đối với giới trí thức.

- Đừng có mồm mép. Tôi tặng không cho chú. Đối với tôi đó không phải là những ý nghĩ lạt lẽo mà là những sinh tố. Bất cứ ai ưa sầu muộn hay làm cái nghề chán phèo của tôi đều cần phải vui sống. Không cần phân biệt tánh chất của cuộc giải trí... Châm ngôn thứ ba.

Tôi nhận thấy không thể nào hơn nổi Georges nên ngay khi hộp cá khô vừa sạch nhẵn, tôi trở lên phòng. Tôi định trút cả bực bội vào tiếng dương cầm, nhưng khốn nỗi cái chết hay cơn hấp hối của lão Knopf đã không cho phép tôi đàn. Còn loại nhạc đưa ma, tôi đã nghe ngập cả tai đến không còn đủ can đảm để đánh lên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3