Đài tưởng niệm đen của bầy diều hâu gãy cánh - Chương 17 - Phần 1
17.
Đêm nay Isabelle không chịu tới giáo
đường. Ít lâu sau này nàng không muốn vào đó nữa. Tôi thấy nàng đợi tôi ở bên ngoài.
Wernicke cho phép nàng đi dạo trong vườn ban đêm nếu có người cùng đi.
- Tại sao cứ tối nào, ánh sáng cũng
mất đi? Khi mình ngủ thế giới biến mất. Vậy mình ở đâu? Và thế giới có lại hiện
ra mãi mãi không. Rudolf?
Ngồi bên bờ vườn, chúng tôi nhìn qua
các song sắt của cổng ra vào. Buổi chiều đang trùm lên những đồng lúa chín ở triền
đồi hai bên lối đi.
- Phải trở lại chớ, Isabelle.
- Còn chúng ta?
Chúng ta? Ai biết đươc? Cứ mỗi giờ là có sự lấy đi, ban cho và biến đổi. Nhưng
tôi không muốn nói ra. Tôi không muốn dây vào một cuộc đối thoại có thể bất ngờ
mở đường vào vực thẳm.
Những người bệnh làm việc đồng áng lần lượt lên đồi. Họ trông như những nông
dân già nua mệt nhọc đang gánh trên vai cả sức nặng của nắng chiều.
- Cả chúng ta nữa, Isabelle. Cái gì hiện hữu trong ta không bao giờ mất đi.
- Anh tin như thế sao?
- Không còn cách nào hơn, đành phải
tin như vậy.
Nàng quay mặt sang tôi, nàng quá đẹp
với ánh nắng chiều giữa bầu trời trong sáng chớm Thu.
- Và nếu mình không tin như thế, mình
có bị mất không?
- Chắc là phải mất đi, nhưng cũng
từ đó bắt đầu có sự sống.
- Cuộc sống nào?
- Cuộc sống của chúng ta... với lòng
can đảm. Sự thương xót và tình yêu. Ngay từ khi chúng ta biết là không còn gì nữa
cả.
Thời gian như dừng lại trên mặt Isabelle.
- Tôi và anh cũng có lúc sẽ không
còn nữa?
- Không.
- Ngay cả nếu chúng mình yêu nhau.
- Đúng vậy. Và có lẽ chính vì thế
mà người ta yêu nhau. Yêu có nghĩa là muốn ban cho một cái gì mà người ta không
thể giữ lại.
Những người làm việc ngoài đồng về
tới, người gác mở cổng. Thình lình, từ phía một bức tường có bóng người rón rén
bước ra rồi chạy vụt đi. Một người gác bệnh chạy theo sau nhưng không có vẻ vội
vàng. Người gác cổng vẫn tự nhiên, tiếp tục nhìn từng người bệnh đi vào rồi khép
cửa lại. Phía dưới, kẻ đào tẩu vẫn cắm đầu chạy, càng lúc càng bỏ xa người đuổi
theo.
Tôi hỏi người gác cổng:
- Đồng nghiệp của ông có đuổi kịp
nổi không?
- Chút nữa rồi họ sẽ trở về bên nhau.
- Ủa!
Người gác cổng nhún vai:
- Người bệnh là Guido Timpe. Cứ mỗi tháng anh ta lại thoát chạy một lần nhưng
không bao giờ thoát qua quán ăn của Sở Lâm nghiệp. Cứ tới đó là gặp anh ta. Chẳng
làm việc gì cả ngoài việc uống vài chai bia. Toàn bia nâu.
Hắn nheo một mắt:
- Biết vậy nên người bạn tôi không cần cố gắng. Cứ để cho anh ta có thì giờ
uống vài chai. Sau đó, anh chàng ngoan ngoãn theo về.
Isabelle không nghe. Nàng hỏi tôi:
- Ông ấy muốn đi đâu?
- Đi uống bia.
- Còn anh, anh có định chạy trốn không?
Tôi lắc đầu:
- Tốt lắm. Chạy trốn có ích gì. Tất cả những cánh cửa đều giống nhau. Phía sau
chúng nó... chẳng có gì cả. Chúng chỉ là những cánh cửa và phía sau chẳng có gì.
Người gác đóng cổng lại và châm lửa vào ống cối thuốc. Mùi thuốc lá nồng nặc
làm dựng lên trong óc tôi một cảnh tượng: cuộc sống giản dị, nghề kiếm ăn nho nhỏ,
vợ hiền con ngoan, tất cả đều bình lặng và cái chết tới sau khi đã chấp nhận những
ngày làm việc chuyên cần, những chiều thứ bảy thảnh thơi, những đêm ngủ yên lành
không thắc mắc hay tự vấn. Tôi chợt cảm thấy chua xót bâng quơ trộn lẫn với một
sự thèm muốn.
Isabelle đã tới đứng sát cổng, tay vịn vào song sắt, nhìn trân trối ra ngoài.
Nàng đứng như thế khá lâu. Ánh nắng cuối ngày đã trổ màu tím thẫm, những khu rừng
bắt đầu mất vẻ xanh tươi và trở thành đen xạm, nền trời đầy những thuyền mây căng
buồm tía.
Isabelle đi trở lại. Mắt nàng như cũng tím thẫm với màu trời. Nàng nắm tay tôi:
- Đi, anh.
Chúng tôi từ từ đi vào vườn cây, về phía một máy nước. Nàng kéo bàn tay tôi
đặt vào ngực và thì thầm bảo: Anh có nghe tim tôi đập thế nào không?
- Có. Isabelle.
Tôi rút tay lại nhưng Isabelle đã áp người sát vào tôi
- Đừng bỏ em.
- Không. Tôi không bỏ đâu, Isabelle.
Nàng lẩm bẩm:
- Đừng bỏ em. Ngắn ngủi lắm.
Nàng hứng nước bằng cả hai tay rồi vẫy lên không:
- Ban ngày, những giấc mơ ở đâu, Rudolf?
- Có lẽ chúng ngủ.
Nàng lại đưa cả hai cánh tay vào vòi nước. Bong bóng nước đọng đầy trông như
hai cánh tay làm bằng bạc.
- Làm thế nào những giấc mơ có thể ngủ được? Mình chỉ gặp ban đêm, vậy ban ngày
chúng đi đâu?
- Có lẽ chúng tự treo mình trong động đá như loài dơi hoặc ẩn lánh trong hốc
cây như loài dạ điểu để chờ đêm tối.
- Nhưng nếu đêm không tới thì sao?
- Đêm luôn luôn phải tới, Isabelle.
- Chắc không?
- Em hỏi như trẻ con.
- Trẻ con hỏi thế nào?
- Cũng những câu hỏi như em. Và cho tới một lúc nào đó người lớn không biết
trả lời ra sao và chúng giận.
- Tại sao chúng giận?
- Bởi vì chúng phát giác có một cái gì sai lầm trong chúng nó.
- Có điều gì sai lầm trong anh không?
- Nhiều lắm, Isabelle.
- Thế à?
- Anh cũng không biết rõ. Bởi vì khi đã biết rõ rồi thì lại thấy là không phải
sai lầm.
Isabelle gật đầu:
- Dĩ nhiên rồi. Chúng ta có quá nhiều ngôn ngữ. Ai phát minh ra những ngôn ngữ
đó?
- Có lẽ là những đầu óc xáo trộn.
Nàng lắc đầu và chỉ tay về phía tiểu giáo đường:
- Mấy người đó, họ giữ chặt ông ta. không chịu để cho đi.
- Ai?
- Những ông thầy tu.
- Không phải đâu. Không phải những nhà tu hiện thời đâu. Chuyện đã xảy ra gần
hai ngàn năm.
Nàng lại tựa sát người tôi
- Chính họ mà, Rudolf. Ông ấy muốn đi ra, nhưng họ đóng đinh giữ lại. Họ giữ
ông ấy trên cao và đốt hương cầu nguyện cho ông ấy đừng bỏ đi. Anh có biết tại sao
không?
- Không.
Isabelle thở dài:
- Bởi vì ông ta giàu lắm, rất giàu. Họ cố giữ ông ấy lại, để đoạt gia tài. Nếu
ông ấy thoát ra được, gia tài sẽ bị lấy lại. Rồi họ sẽ nghèo đi.
Mặt Isabelle căng thẳng nhưng chẳng có một dấu hiệu nào đặc biệt.
- Em muốn nói gì?
Nàng cười:
- Tất cả, Rudolf. Anh đã biết những gì em muốn nói. Họ nhốt em vào đây chỉ vì
sợ em gây phiền phức. Họ muốn chiếm đoạt gia tài của em. Nếu em ra khỏi nơi này,
họ bắt buộc phải trả lại. Nhưng em có cần gì đâu.
- Thì giải thích cho họ biết là em không cần, như vậy họ đâu có lí do gì khác
để giữ em ở đây.
- Ở đây hoặc ở một nơi nào khác cũng thế thôi. Vậy, tại sao lại không ở đây?
Ít ra em cũng được bình yên. Do đó mà em phải giả vờ.
Tôi không khỏi ngạc nhiên:
- Em giả vờ à?
- Dĩ nhiên. Bộ anh không biết sao? Mình phải làm ra như thế, nếu không
họ sẽ đóng đinh mình trên thập giá. Rất may là họ ngu quá.
- Em qua mặt được cả Wernicke nữa
à?
- Ai?
- Bác sĩ Wernicke.
- A! Ông ấy chỉ muốn cưới em. Ngoài
chuyện đó ra ông ta cũng giống như bao nhiêu người khác. Anh đừng đi, Rudolf. Họ
phải thả ông ấy ra. Em nói cái ông trên thập tự giá. Ông ta cũng cần được cười,
được ngủ như mọi người chớ.
Đột nhiên, dường như lửa đang cháy
sáng trong mắt Isabelle. Nàng hất mái tóc ra sau, trong bóng tối, tóc như chẳng
có màu.
- Em trông giống như một nữ phù thủy,
Isabelle. Trẻ, đẹp và nguy hiểm.
Nàng cười thành tiếng:
- Phù thủy. Tới bây giờ anh mới hiểu.
Mất một thời gian khá lâu.
Và hoàn toàn bột ngờ, nàng mở tung
váy ra, buông nó rơi xuống đất rồi nhảy tới một bước. Toàn thân nàng chỉ còn có
đôi giày và một cái áo ngắn. Nàng đứng trước tôi, mãnh dẻ và trắng toát trông như
một gã con trai hơn là một thiếu nữ. Nàng thì thầm bảo:
- Đến với em.
Tôi nhìn quanh, hơi cuống. Lỡ Bodendick
tới thì nguy! Hoặc Wernicke hay một nữ tu nào đó đi qua! Nàng đứng sững trước mặt
tôi như một con yêu tinh nào đó đang mượn xác người và sẵn sàng bay biến.
- Mặc vào đi, Isabelle.
Nàng cười ngặc nghẻo:
- Thật sao, Rudolf?
Nàng từ từ bước tới, chụp lấy cà vạt
của tôi. Dưới ánh trăng môi nàng tái lợt, răng trắng màu vôi, và ngay cả giọng nói
cũng biến đổi:
- Mở cái này ra!
Tay nàng lần trên cổ ảo tôi, hai bàn
tay không mềm mại mà cứng lạnh. Tôi không thể tưởng tượng nổi. Bây giờ, người con
gái đang áp sát người tôi là một ngọn gió lạc lõng từ cánh đồng hoang nào đó thình
lình bị bão tới lùa đi. Tôi cố giữ chặt hai bàn tay nàng lại và nhìn quanh. Nàng
vùng vẫy thật dữ và không cười nữa. Mặt nàng kề sát tới, tôi nhìn thấy một đôi mắt
trong suốt đứng tròng và nghe giọng nói thều thào xa lạ:
- Anh sợ hả?
Tôi chợt tỉnh và xô mạnh ra khiến
nàng ngã người xuống.
Isabelle không đứng dậy. Nàng ngồi
co quắp một chỗ, mặt ngước lên, và... một tràng chửi rủa tới tấp bay ra. Nàng chửi
không tiếc lời, không đắn đo. Nàng dùng cả những tiếng tục tằn nhứt, ghê tởm nhứt...
những bỉ ổi nhứt, tiếng mà chính tôi còn không dám dùng đến mà bây giờ lại vọt ra
từ vành môi xinh đẹp ấy.
- Tỉnh lại đi em.
Năng cười to và nhái tôi:
- Tỉnh lại! Tỉnh lại! Cút đi, đồ tồi,
tên bị thiến...
Tôi bực mình:
- Câm miệng, nếu không...
- Làm thử coi!
Nàng ngã người ra sau, hai tay chống
xuống đất, môi bĩu ra, khinh bỉ và thách đố.
Chằng còn gì chán chường hơn! Nhưng
vừa nghĩ thế tôi đã thấy thương hại nàng hơn. Đây là hình ảnh không thể bảo là dâm
đãng mà là một thái cực của tuyệt vọng, của man dại và ngây thơ. Tôi thương quá,
nhưng chỉ đứng lặng câm. Isabelle lại quát tháo:
- Đi ngay! Đừng bao giờ trở lại nữa,
chó má, đồ ngu đần, con heo thiến. Đi cho khuất mắt tao, quân mất dạy...
Rồi, bỗng nàng nhảy dựng lên và bước
đi thật mau, thật nhẹ nhàng và linh hoạt, vừa đi vừa vung vẫy chiếc váy xanh.
Tôi muốn chạy theo để gọi nàng mặc
váy vào, nhưng rồi tự thấy mình đứng bất động. Tôi không biết Isabelle sẽ làm gì
ở đằng kia và lo ngại. Nhưng tôi chợt nhớ ra đây không phải là lần đầu tiên một
người bệnh tâm trí thoát y. Và phần lớn đều là phụ nữ.
Tôi chậm chạp đi trở lại, cảm thấy
mình phạm tôi nhưng không hiểu rõ vì sao.
Thật khuya, tôi vẫn còn ngồi bên cửa
sổ và nghe tiếng bước của lão Knopf trở về nhà. Qua tiếng chân, tỏi biết lão đã
say mèm.
Chẳng còn lòng dạ nào đùa nghịch nhưng
tôi vẫn cố tự dối mình với một trò vui. Knopf dừng lại ở cổng, dò xét địa thế. Tất
cả đều im lặng. Lão dè dặt đi lới cái tháp đen, dừng lại và chờ đợi.
Tất cả vẫn lặng trang. Tôi có cảm
tưởng như lão đang cười. Kê miệng vào đầu ống đằng này, tôi quát lớn:
- Knopf, lại định làm trò khỉ phải
không?
Lão thượng sĩ hồi hưu đảo lộn tròng
mắt. Tôi dùng giọng nhà binh:
- Chú không còn xứng dáng giữ cấp
bậc thượng sĩ hồi hưu! Ngay từ phút này, chú bị lột lon, làm binh nhì.
Lão ta rên rỉ:
- Không... đừng...
Vừa rên với giọng khàn khàn, lão vừa
quay đầu khắp phía để xem tiếng nói của thương cấp phát ra từ đâu. Lão không tài
nào phát giác được. Tôi ra điều cương quyết hơn:
- Từ nay trở đi chú không được mặc
bộ quân phục số một vì chú chỉ là mội binh nhì. Nghe rõ chưa?
Thà bị cắt đứt một ngón tay còn hơn
là bị giáng cấp với một kẻ gần như suốt đời trong binh nghiệp. Quá sợ, lão Knopf
ú ớ:
- Không! Không! Chết tôi!
Thình lình, tôi nhớ tới những tiếng
chửi rủa ghê tởm nhứt của Isabelle. Dạ dầy như thắt lại, tôi tuôn ra một tràng.
Knopf vểnh tai lắng nghe. Chờ tôi
ngưng lại, lão thở phào ra:
- Xin cứ chửi nhưng đừng lột lon!
Trông lão ta đứng bất động và sững
sờ đến tột cùng, tôi không khỏi nhớ lại hoàn cảnh của mình lúc tối khi đứng trước
Isabelle đang nổi cơn điên.
Tự nhiên, tôi thương hại lão:
- Thôi được, chú cũng chưa làm gì
quá lắm ngoại trừ cái tội đái lên một vật linh thiêng. Thay vì xuống binh nhì, chú
còn được mang lon hạ sĩ. Nếu biết cải hối, sẽ được thăng cấp từ từ. Cuối tháng mười,
trung sĩ, cuối tháng mười một, trung sĩ nhứt. Và tới lễ Giáng sinh sẽ lại là thượng
sĩ hồi hưu. Nghe rõ chưa?
- Xin tuân lệnh! Thưa, hơ...
- Xong rồi, hạ sĩ Knopf! Về chỗ!
Lão ta quay phắt sang trái rồi chạy
vụt về nhà. Có tiếng cười khe khẽ từ gian buồng bên cạnh văn phòng. Lisa và Georges
đã chứng kiến trọn màn. Có tiếng ghế ngã và những tiếng hôn chùn chụt và cửa phòng
Georges từ từ khép lại.
Tôi chợt nhớ tới chai rượu của Riesenfield
gởi cho với dòng chữ “Dành cho những khi phiền toái”. Tìm thấy chai rượu có dán
nhãn Genièvre de Frise, de P.Bokma, Leeuwarden, tôi mở nút chai rót đầy li
lớn. Rượu khá mạnh, đúng là thứ cổ hong đắng chát của tôi đang cần tới.
Người đàn bà đáp cộc lốc:
- Phải. Một thứ bệnh. Sanh ra ngay
khi vừa hết đánh giặc, chẳng có gì để ăn. Cả hai đứa một lượt... không có đủ sữa
cho một đứa.
Wilke tò mò:
- Trường hợp này xảy ra cũng khá nhiều
đối với những đứa sanh đôi. Ảnh hưởng chiêm tinh.