Phía đông vườn địa đàng - Chương 09
Chương IX
Các cô con gái của ông
Samuel Hamilton không có người nào chịu làm vợ các chủ nông trại. Họ đều là
những thiếu nữ có nhan sắc, thừa hưởng những nét rạng rỡ của dòng dõi quí tộc
Ái Nhĩ Lan. Họ vẫn hãnh diện về sự thanh bạch của gia đình mình. Họ được giáo
dục và học hành nhiều hơn phần lớn các thiếu nữ đồng thời.
Tất cả đều được cha
truyền cho tính ham học hỏi. Cô Olive Hamilton đã trở thành một cô giáo tại
Peachtree, ở đó có rất ít thanh niên học quá lớp tám. Đến mười bốn mười lăm
tuổi là chúng đã phải lo giúp việc nông trại. Olive dạy đủ môn, từ môn tập đọc
đến môn đại số. Nàng cũng phụ trách phần thực hành y học sơ cấp vì tai nạn xảy
ra thường xuyên. Khi một đứa bé đi chân đất bị rắn độc cắn, bổn phận của nàng
là phải hút ngón chân nó để lấy nọc độc ra.
Đó là một công việc không
dễ dàng gì và đòi hỏi sự tận tụy chịu khó vượt quá bổn phận và trách nhiệm.
Nhà giáo gần như không
còn đời sống riêng cho mình nữa. Nàng không thể ở trọ hẳn tại một gia đình nào
quá vài tháng vì như thế sẽ gây ra sự ganh tị, phân bì, gia đình nào cũng muốn
mời giáo sư ngụ lại để chứng tỏ mình có thớ trong xã hội. Nếu trong gia đình
nàng đang ở trọ có một cậu con trai đến lứa tuổi thành hôn thì coi như nàng là
người được cầu hôn trước tiên. Nếu cùng một lúc có hơn một người muốn cầu hôn
nàng thì làm gì cũng có những vụ tranh chấp không đẹp mắt xảy ra. Ba cậu con
trai nhà họ Agnita gần như muốn xé xác nhau vì cô giáo Olive Hamilton.
Olive thích đời sống ở
thành phố hơn ở nông trại nên khi Ernest Steinbeck, người vừa xây được nhà máy
ray bột mì tại King City ngỏ lời cầu hôn, nàng bỏ nghề dạy học nhận lời ngay.
Đầu tiên họ ngụ tại Paso Roble rồi đến King City, cuối cùng dọn đến Salinas.
Olive thừa hưởng một
chiếc cằm cứng cáp, một chiếc mũi hếch của mẹ và cặp mắt đẹp của cha. Nàng là
người đàn bà có nghị lực nhất trong gia đình Hamilton trừ bà Liza, mẹ nàng.
Olive rất can đảm. Trong cuộc đệ I thế chiến nàng đã có dịp chứng tỏ điều đó.
Nàng là đàn bà nên không
nghĩ đến chuyện quốc tế xa xôi. Nàng chỉ bận tâm đến gia đình, đến thị trấn
Salinas. Nàng không tin tưởng gì ở chiến tranh ngay cả đội kỵ binh C được thành
lập tại đó.
Mãi đến khi một thanh
niên trong vùng tên Martin Hoppa thuộc Đội C bị quân Đức giết chết, có thể nói
đó là ngày chúng bắt đầu thất trận vì đã dám chọc giận Olive.
Bắt đầu từ hôm đó Olive
mới tuyên chiến hẳn với Đế quốc Đức. Làm băng cứu thương cũng chưa gọi là đủ
với bà. Bà còn sử dụng một loại khí giới khác là Trái phiếu tự do. Bà bán được
thật nhiều trái phiếu bằng cách thuyết phục mọi người phải mua ủng hộ.
Khi số trái phiếu bán
được khá cao, Bộ Tài chánh bắt đầu chú ý đến thiếu phụ gan dạ hiếm có này.
Trước hết họ gửi giấy quay ronéo khen ngợi bà, kế đó là những lá thư đàng hoàng
do chính Tổng trưởng Tài chánh ký tên. Sau cùng họ gởi các phần thưởng đến, một
chiếc nón sắt của quân Đức, một mạnh đạn trái phá được gắn vào một cái đế bằng
gỗ mun.
Olive cùng những bà mẹ
khác trong xứ đều hăng hái làm việc gấp bội. Riêng Olive đoạt kỉ lục bốn lần
hơn và được thưởng một chuyến phi cơ quân đội. Thật là hãnh diện cho người dân
trong vùng.
Olive vừa can đảm vừa có
óc hài hước, trong khi các cô con gái khác của ông bà Hamilton không được như
vậy. Nhưng Una mới chính là nguồn vui lớn nhất của ông Samuel. Ngay từ lúc còn
nhỏ nàng đã ham học như một đứa bé ham bánh ngọt. Una và cha nàng là hai người
rất tâm đầu ý hiệp trong việc học hỏi. Hai cha con tìm mượn những quyển sách
hiếm, chuyền nhau đọc, bàn bạc riêng với nhau một cách thích thú.
Una đã gặp gỡ và thành
hôn với một nhà sáng chế, một anh chàng có quan niệm sống hơi quá khích.
Anh ta quan niệm rằng
vùng ngoại giới có thể đem thể hiện lên mặt giấy bằng những màu sắc trung thực
mà mắt người có thể nhìn rõ được. Nghe đâu cuối cùng anh ta đã tìm ra phim màu.
Anh đưa Una lên miền bắc ở một nơi nào đó gần ranh giới tiểu bang Oregoa. Anh
ấy đã sống một đời sống của thời nguyên thủy bằng rượu và giấy má.
Una gửi về những lá thư
không mấy vui nhưng nhất định không than thân trách phận. Nàng viết rằng mình
vẫn mạnh khỏe luôn. Nàng cho biết chồng nàng sắp hoàn thành một sáng chế mới.
Bỗng được tin nàng từ
trần, xin được đưa bằng tàu thủy về quê nhà, mấy năm sau George Hamilton kể lại
cho tôi chuyện đó với cặp mắt đẫm lệ.
- Una không đẹp bằng
Mollie, - anh kể. - Nhưng bàn tay bàn chân nó xinh. Gót chân nó thanh như búp
sen, bước đi nhẹ như lướt trên ngọn cỏ, nó không cười nghịch ngợm như nét mặt
của người đang tĩnh tâm để nghe nhạc.
Thế rồi đột nhiên người
ta đưa xác nó về nhà. Gót chân nứt nẻ, các ngón tay mòn hết, còn hai bàn chân
xinh đẹp thì...
George nghẹn ngào ngừng
lại. Mãi một lát sau anh ta cố tự chủ nói tiếp: “Hai bàn chân nó bị rách vì gai
sướt. Chân nó không được mang giày. Da thì chai cứng. Chúng tôi đoán rằng nó bị
tai nạn nào đó. Xung quanh nó nhiều hóa chất quá mà. Chúng tôi nghĩ như vậy.”
Cái chết của Una có ảnh
hưởng đối với ông Samuel như một cơn động đất ngầm. Ông tự cho rằng chính vì
lỗi của mình đã đưa đến hậu quả đáng tiếc đó. Tính vui đùa của ông như một liều
thuốc hiệu nghiệm chống lại với thời gian, bây giờ đã tiêu tan. Hai vai ông bắt
đầu khòm xuống. Ông già cỗi hẳn đi.
Nhưng mấy người con khác
của ông làm ăn khá hơn nhiều. George làm việc ở công ty bảo hiểm. Will khá giàu
có. Còn Dessie thành công trong ngành may tại Salinas. Joe đã tới miền đông và
đang cố khai thác một ngành mới gọi là quảng cáo. Khuyết điểm duy nhất của anh
trong lãnh vực này là tính quá tốt của anh. Joe là một người sành sỏi trong
lãnh vực làm ăn mới này, chỉ còn một mình Tom ở lại nông trại.
Hồi tôi còn nhỏ thỉnh
thoảng Tom đem tôi đi câu cá. Chúng tôi đánh xe ngược từ lúc mặt trời chưa mọc
đi đến ngọn núi Frémont. Khi chúng tôi đến gần dãy núi vì sao mới lặn và ánh
mặt trời mới bắt đầu nhuộm dần.
Tôi còn nhớ trong khi
ngồi trên xe ngựa tôi áp mặt vào áo khoác của Tom. Chú ấy thường đặt tay lên
vai tôi, thỉnh thoảng vỗ nhẹ vài cái đầy vẻ trìu mến. Sau cùng chúng tôi dừng
dưới một gốc cây sồi, mở ngựa ra khỏi càng xe để nó đứng nghỉ sau lưng xe.
Tôi còn nhớ chú Tom rất
khỏe người, mặt và da sạm nắng. Râu, tóc và ria mép cũng đỏ sậm. Tôi không nhớ
chú ấy có nói gì không. Mỗi khi hồi tưởng lại, chú Tom luôn luôn là một hình
ảnh trầm lặng. Dường như chú chẳng hề chú trọng đến việc có câu được con cá nào
không. Chú không muốn chinh phục loài vật.
Tôi còn nhớ những cây
dương xỉ có lá như bàn tay xòe năm ngón mọc cạnh những thác nước nhỏ. Năm ngón
tay bằng lá lắc lư không ngừng vì những giọt nước từ con thác tung tóe chạm
phải. Tôi nhớ rõ mùi vị đặc biệt của các ngọn đồi, mùi hoa đỗ quyên dại, mùi
một chú chồn hôi ở đâu đó thật xa, mùi chó sói, mùi hôi ngựa trên dây cương.
Tôi nhớ rõ cuộc khiêu vũ đẹp mắt của bầy chim ó trên bầu trời... Sau đó chúng
tôi trở lại chỗ để xe, đổ lúa mạch vào cái túi da choàng dây quanh đầu ngựa cho
nó ăn. Tôi không nghe cậu Tom nói một câu nào. Trong ký ức tôi, cậu Tom trầm
lặng thân mật.
Trong ngày lễ Tạ ơn năm
1911, cả gia đình Hamilton họp mặt đông đủ tại nông trại. Các con về thăm đem
theo quà và thật nhiều thực phẩm, cả đại gia đình ăn không hết. Tất cả đều đã
thành gia thất trừ Dessie và Tom. Lũ cháu nội cháu ngoại ông Hamilton đùa giỡn
làm nhộn cả nhà lên.
Khuôn mặt nhỏ thó của bà
Liza càng đỏ gấc lên vì bận bịu. Bà sai bảo việc này, việc nọ lăng xăng. Trong
bếp không bao giờ tắt lửa. Các giường chõng trong nhà đều không còn chỗ, phải
trải khăn giường xuống sàn cho lũ nhỏ nằm.
Tinh thần hài hước của
Samuel lại có dịp sử dụng tới.
Giọng kể chuyện ông lại
có dịp trầm bổng. Ông say sưa kể chuyện và hát hò cho lũ cháu nghe. Bỗng chưa
đến nửa đêm, ông đột nhiên la mệt và bỏ vào giường nằm. Vợ ông đã đi nghỉ trước
cách hơn hai tiếng đồng hồ. Ông hơi lo ngại, vì tự nhiên không hiểu tại sao
mình lại mệt bất thường thế này!
Khi hai ông bà đã đi
nghỉ, đám con rể mở một cuộc họp mặt nhau trong nhà bếp. Mấy bà mẹ rón rén bước
vào các phòng ngủ trông chừng lũ con nít có đắp kĩ không, rồi trở lại. Họ nói
chuyện thật khẽ để khỏi làm mất giấc ngủ của ông bà cụ và lũ trẻ.
Tất cả đều có cùng một
nhận xét. Ông Samuel đã già yếu. Họ kinh ngạc về khám phá bất ngờ đó như tình
cờ gặp một bóng ma. Họ không muốn tin việc đó lại có thể xảy đến.
Anh Will Martin, chồng
của Mollie, nhận định một cách thực tế:
- Cuộc sống ở đây quá vất
vả. Tại sao chúng ta không khuyên ba bán nông trại bỏ lên tỉnh sống cho khỏe?
Mollie và tôi muốn rước ba má sống chung với chúng tôi.
Ernest Steinbeck chồng
của Olive vội giành:
- Chúng tôi cũng muốn mời
ba má sống với chúng tôi.
Will Harmilton nhờ bản
năng và kinh nghiệm nghề nghiệp đã hiểu các anh chị em mình rất nhanh, chàng đề
nghị:
- Nếu chúng ta yêu cầu ba
đóng cửa lò rèn của ông chẳng khác nào bảo ông tự tử. Ba không nghe đâu, nhưng
chắc chúng ta có thể mời ba lên tỉnh chơi một chuyến, trong khi Tom sẽ coi sóc
nông trại. Sau một thời gian nghỉ ngơi lại sức, ba sẽ làm việc trở lại. Cũng có
thể ba sẽ ở lại luôn trên tỉnh không biết chừng, chứ bây giờ đề nghị thẳng chắc
ba không nghe đâu. Tất cả anh chị em nghĩ sao?
Mọi người đều gật đầu,
chỉ trừ Tom ngồi im như tảng đá, dáng trầm tư.
- Tom, em coi sóc nông
trại giùm ba được chứ? - George hỏi.
- Ồ, đâu có gì. - Tom trả
lời. - Đâu có gì mà được với không được, từ lâu nay nông trại có hoạt động gì
nhiều đâu!
- Vậy tại sao không thấy
em gật đầu đồng ý?
- Em không muốn làm ba
phật ý. Ba sẽ hiểu ý ngay.
- Nhưng tụi anh chỉ đề
nghị thôi, đâu có gì ba phải phật ý?
Tom gãi tai nói:
- Em không dám cản các
anh, nhưng em sợ ba buồn lòng.
George nói:
- Tụi anh sẽ viết một lá
thư mời với lời lẽ khéo léo và vui vẻ. Ba ở chơi với người này chán, ba có thể
đến nhà đứa khác. Cứ như vậy ba có thể đi thăm hết năm này qua năm khác cũng
chưa giáp vòng các con và các dâu rể của ba.
Họ tạm đồng ý với đường
lối đó.
Tom cầm lá thư của Olive
từ King City về, vì anh biết trước nội dung lá thư nói gì rồi, nên anh chờ đến
lúc ông Samuel một mình không có khách hàng nào anh mới dám đưa. Lúc đó ông
Samuel đang làm việc tại lò rèn. Ông bóc thư bằng mũi ngọn một cái đinh dùng
đóng móng ngựa, rồi đi ra chỗ có ánh nắng để đọc cho rõ. Xong ông ngồi xuống
một chiếc ghế dài trước hiệu rèn ngó mông trong không trung. Ông mở thư ra đọc
lại một lần nữa. Rồi Tom thấy ông đứng dậy chậm rãi đi về phía ngọn đồi ở phía
đông, vừa bước đi vừa đá những viên đá sỏi bắt gặp trên đường.
Một cơn mưa nhỏ mới trút
xuống nên một ít cỏ bắt đầu nhú lên. Ở lưng chừng đồi, ông Samuel ngồi xổm
xuống vốc một vốc đất lẫn đá sỏi giữa lòng bàn tay rồi lấy ngón trỏ bươi ra.
Trong đó lẫn một ít đá lửa, sa thạch, một ít mi ca lóng lánh, vài cọng rễ nhỏ
mong manh và một ít đá có vân. Ông xòe mấy ngón tay ra để mặc mớ cát đá vụn
chảy qua kẽ, rồi đứng dậy thơ thẩn bước xuống đồi. Tới chỗ Tom đang tân vành
sắt và bánh xe bò và quay thử một bánh xe, ông đứng im quan sát Tom, như lần
đầu thấy con làm việc. Ông lên tiếng:
- Con đã trưởng thành và
thạo việc rồi đó.
- Bây giờ ba mới nhận
thấy như vậy hả ba?
- Ba biết lâu rồi chứ.
Nhưng bây giờ ba mới có dịp nói ra.
Vừa nói, ông vừa thơ thẩn
bước đi. Nét mặt ông hơi đượm vẻ châm biếm nhẹ nhàng mà những người thân trong
gia đình đều biết rõ. Chính nhờ lối châm biếm đùa bỡn đó làm ông vui vẻ yêu
đời. Ông thơ thẩn trong vườn nhỏ vắng vẻ quanh ngôi nhà như một người lạ, dù
đây không phải là một ngôi nhà mới.
Bà Liza đang chiên bánh
trong nhà bếp. Bà rất khéo tay, có tài làm cho những miếng bột nhồi biến thành
những chiếc bánh thơm ngon. Bà trải gọn gàng và trở đều. Bánh vừa chín, bà lấy
ra, dùng dao cắt quanh mép, rồi nhúng vào chất nước trải anh đào màu đỏ trong
một cái tô.
Samuel ngồi xuống một
chiếc ghế trong nhà bếp, tréo chân lên nhau, lặng lẽ nhìn vợ.
Cặp mắt ông như đang tươi
cười.
- Hôm nay vào giờ này sao
ông thảnh thơi quá vậy? Không còn việc gì làm nữa sao? - Bà hỏi.
- Ồ, tại tôi muốn nghỉ
tay một buổi cho khỏe, chứ lúc nào mà chẳng có việc để làm hả má nó!
- Ông ngồi đó làm tôi
thêm lúng túng khó chịu. Có chuyện gì phải không? Chỉ cần nhìn mặt ông, tôi
cũng dư biết ông có việc gì cần nói với tôi rồi, đúng vậy không?
Ông rung đùi mỉm cười
nhìn vợ, nói nịnh:
- Bà đúng là một người vợ
thông minh không có gì mà bà không thấy ngay.
- Samuel, tôi xin ông bớt
tán dóc cho tôi nhờ. Ông có muốn tếu gì thì để chiều tối hãy hay, bây giờ mới
mười một giờ trưa mà. Đừng có trở chứng.
Ông Samuel điềm tĩnh nói:
- Này Liza, em có bao giờ
nghĩ đến “một chuyến nghỉ xả hơi” là gì không?
- Samuel, sao mình ưa đùa
dai vậy?
- Liza. em chưa bao giờ
nghĩ đến “một chuyến nghỉ xả hơi” có phải không?
- Này, tôi đã nói, tôi
không đùa. - Bà muốn chấm dứt câu chuyện.
- Này bà vợ đảm đang đáng
thương của anh ngót năm mươi năm qua, em chưa hề nghĩ đến một lần nghỉ xả hơi
phải không?
- Samuel, ông vui lòng ra
khỏi nhà bếp dùm tôi đi! - Bà mát mẻ bảo ông.
Ông rút lá thứ trong túi
mở ra nói:
- Olive vừa gởi về. Nó
mời vợ chồng chúng ta lên thăm Salinas. Nó đã mua vé cho chúng ta dự mùa Chautauqua.
Billy Sunday sẽ đấu vật với quỷ và Bryan sẽ diễn thuyết. Đề tài nghe có vẻ kì
cục, nhưng người ta đồn rằng lối trình bày của ông ấy rất cảm động.
Bà Liza đưa ngón tay lên
gãi mũi làm dính bột trắng hếu. Bà lo lắng hỏi:
- Hình như mắc tiền lắm phải
không?
- Lo gì mắc với rẻ! Con
Olive đã mua sẵn vé cho mình rồi. Nó mua tặng mà.
- Chúng ta không thể đi
được đâu. - Bà nói. - Ai lo công việc ở nông trại này?
- Thằng Tom lo được mà.
Mùa đông mới có nhiều việc phải lo. Trong thư nó đã gởi kèm hai vé xe lửa đi
Salinas đây này.
- Mình cứ việc gởi trả
lại cho Olive để nó lấy tiền lại.
- Không, anh không thể
làm thế. Liza, sao mình khó tính thế? Đi chơi một chuyến đâu có sao! Anh nghe
người ta nói rằng Billy Sunday cỡi quỷ chạy quanh sân khấu.
- Người ta xạo chứ làm gì
có chuyện đó, - Liza nói.
- Nhưng anh muốn xem thử
ra sao. Sao mình khó tính quá. Nếu mình không đi, anh cũng đi một mình. Bây giờ
mình hãy trả lời một tiếng, có đi không?
- Em đồng ý. - Liza trả
lời.
Khi ông Samuel bước ra,
Tom ngước nhìn cha dò xét, cố đoán xem hiệu quả lá thư mà chị Olive vừa gởi cho
ông thế nào.
Ông nói ngay:
- Này Tom, con nghĩ sao?
Con có thể trông nom nông trại thay ba má trong khi ba má đi chơi một chuyến
không? Chị Olive con mời ba má tới Salinas ở chơi với gia đình một thời gian.
- Được lắm chứ ba. Đó là
một ý kiến rất hay. Ba định bao giờ đi?
Cặp mắt đầy vẻ châm biếm
của ông Samuel tròn xoe, nhìn chăm chăm vào mặt Tom làm anh ta nhột, hỏi:
- Sao ba lại nhìn sững
con vậy?
- Nghe giọng nói của con
ba nghi. Này Tom, con có thông đồng trước với các anh, các chị con rồi phải
không, nói thiệt ba nghe đi.
- Con không hiểu ba định
nói gì. - Tom nói.
- Con đóng kịch còn vụng
về lắm, ba có thể nói thẳng với con câu đó. Ba chắc rằng hôm lễ Tạ ơn, các con
đã hội ý với nhau trước rồi chứ gì?
- Ba nghĩ vậy chứ con đâu
có.
- Con đừng có chối quanh.
- Cha anh nói. - Con cố giấu chừng nào ba càng thấy rõ chừng đó. Ba tinh mắt
lắm.
Ông bỏ đi mấy bước, chợt
quay lại vỗ vai con:
- Ba cám ơn con đã cố làm
cho ba tin thật. Dù không thành công những cũng chứng tỏ con thật lòng nghĩ đến
ba.
- Con rất vui khi thấy ba
bằng lòng đi chơi chuyến này.
Ông Samuel đứng trước cửa
lò rèn, nhìn đất đai chung quanh đó. Ông nói:
- Người ta bảo một bà mẹ
thường yêu thương đứa con xấu xí hơn những đứa khác.
Rồi ông lắc đầu nói tiếp:
- Này Tom, ba rất hài
lòng về con. Ba sẵn sàng tin rằng con không bàn bạc gì với các anh chị con. Ba
biết vì sao ba đi chơi chuyến này. Ba cũng biết mình sẽ đi đâu. Ba hài lòng
lắm.