Hàn Mặc Tử Trong Riêng Tư - Phần I - Chương 2
3. NHÀ CHÍ SĨ PHAN BỘI CHÂU
Câu chuyện cậu Thông Oanh đã vẽ lên trong đầu Hàn Mặc Tử hình ảnh một nghệ sĩ tài ba lãng mạn với nếp sống bên ngoài, mà bên trong khí phách ngang tàng như một anh hùng cách mạng.
Những năm còn học Pellerin Huế, anh ở Bến Ngự trọ nhà cụ Nghè Tuần, không cách xa bao nhiêu con đò “cấm cố” của cụ Sào Nam.
Từ nhà trọ anh có thể trông thấy cụ mỗi buổi sáng uống trà trên mạn thuyền. Chắc anh nghĩ cụ đang làm thơ để sống lại những ngày sống xa quê hương, dấn thân vào một cuộc đời cách mạng nguy hiểm. Lại một thần tượng nữa, đáng được tôn thờ của anh.
Ở vào lứa tuổi mười tám, mười chín hoàn cảnh đất nước cũng giúp anh ít nhiều thi hứng yêu nước thương nòi.
Hình ảnh cụ Sào Nam, mỗi ngày anh trông thấy lạc lõng cô đơn, khiến anh cảm thương con người chí lớn không thành, mà cuộc đời oanh liệt chỉ còn đẹp ngắn ngủi trong ráng mây buổi hoàng hôn.
Tịch dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Anh làm bài thơ Thức Khuya để tỏ nỗi lòng chia sẻ với cụ:
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chi mình ta dạ chẳng an
Bóng nguyệt leo sang rờ rẩm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo đàn
Chỗi dậy nôm na vài điệu cũ
Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
Bài thơ đăng trên báo Tràng An, được cụ Sào Nam khen ngợi chân tình làm cho anh cảm động đến rơi lệ, và anh bỗng nổi tiếng.
Những lời thơ già dặn, ý thơ nồng nàn, nhất là bút hiệu Phong trần, khoác lên cho anh bóng dáng một con người từng đi vào trong cuộc đời gió bụi, gần gũi với đấu tranh của cụ Phan.
Cụ Phan đã đánh giá bài thơ anh ngang với những bài thơ lỗi lạc, bày tỏ chí lớn của hạng người nặng nợ non sông.
Những câu…
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo đàn.
Nghe như tâm sự xót xa “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, xui lòng náo nức, mong được cùng nhau hội ngộ.
Trong cung cách xưng hô, cụ gọi anh là “Tiên sinh”, khiến nhiều người bỡ ngỡ với một cái tên chưa hề thấy xuất hiện. Có ai biết đấy là anh chàng học sinh mới có mười chín tuổi.
Sở mật thám Pháp nghe được tin vội vàng điều tra, biết anh đang có tên trong danh sách những người được Hội Như Tây du học bảo trợ. Họ rút mất giấy phép vừa được bổ túc hồ sơ cho qua Pháp.
Chủ mật thám Huế, Sogny, gởi hồ sơ anh Trí vào điều tra ngay tại Quy Nhơn.
Hai chuyên viên “đánh hơi” của Sở Mật thám Quy Nhơn, Dung và Viễn không có ngày nào là không qua lại dòm ngó căn nhà bên cạnh Bà Phán hạc trên đường Khải Định.
Nhìn vào thường thấy anh chàng Bùi Tuân, gác chân lên chiếc bàn mây, tay ôm cuốn sách ngủ gà ngủ gật.
Tan giờ học, giờ làm việc, thỉnh thoảng mới thấy xuất hiện anh học trò trắng trẻo nhỏ bé, áo dài đen, mang đôi guốc gỗ, quai bố lốp xe hơi, khệ nệ ôm cái nón Bình Định bằng tre đan nặng và to như cái sàng phơi lúa, rụt rè nhìn vào nhà, chờ mãi cho đến khi thấy anh Trí xuất hiện. Hoàng Diệp chậm rãi lơ đễnh như đang tìm một vần thơ, đến trước cửa gọi vào: “Anh Trí ơi, có anh Trí ở nhà không bác?”
Đó là những hình ảnh quen thuộc mà hai tên “đánh hơi” của Sở Mật thám Quy Nhơn làm “ráp bo” cho tên chủ Véran về tình hình tên “tình nghi Nguyễn Trọng Trí tức Phong Trần”.
Mặc dầu bị gọi mấy lần xuống sở Mật thám để khai rõ về các bạn hữu anh, anh vẫn không hề bối rối khi kể chuyện những anh học trò hiền lành nhút nhát, những anh thư ký đạc điền rất an phận như chiếc lá thu vàng.
Thái độ tự nhiên không sợ hãi của anh không giúp ích gì thêm cho cuộc điều tra của sở Mật thám, nên cuối cùng phải bỏ qua không đòi hỏi gì nữa. Anh vẫn bình tĩnh nhưng cả nhà đều hoảng sợ. Anh Mộng Châu phải viết thư ra Huế cho cụ Bài nhờ can thiệp. Mọi người đều lo lắng.
Có lẽ nhờ thế mà anh ung dung đi lại không ai lưu ý nữa. Và rồi anh lại mò mẫm ra Huế, khi cụ Phan đăng bài anh với bài họa của cụ lên báo của Mộng Du thi xã do cụ Phan chủ xướng.
BÀI HỌA CỤ PHAN
Chợ lợi trường danh tớ chẳng màng
Sao ăn không ngọt, ngủ không an
Trăm năm ngăn đó tuồng dâu bể
Muôn họ nhờ ai kẻ chiếu chăn
Cửa sấm gớm ghê người đánh trống
Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn
Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng
Mưa gió bao phen gộc chữa tàn.
SÀO NAM
Bài thơ họa của cụ Phan có phần yếu thế, làm cho tôi võ vẽ mới biết làm thơ, cũng cao hứng họa lại ý cụ, yểm trợ cho tinh thần của anh. Anh Mộng Châu bắt gặp bức thơ để trên bàn gởi cho báo Tràng An, giở ra xem biết là của tôi, anh nổi giận: “Đã có thằng Trí làm cho tao sợ gần chết, bây giờ còn mi nữa sao.” Anh giận xé thơ và cấm tôi không được làm thơ nữa. Bài thơ đó như thế này mà tôi xem không có gì quan trọng:
Danh lợi dù cho chí chẳng màng
Nghĩ sao Quốc thái với dân an?
Thuyền con vượt phá không người lái
Đàn nghé qua truông thiếu kẻ chăn
Cứ thử bưng tai vào cửa sấm
Để xem trâu có biết nghe đàn
Kình ngư còn ngại tơ sen vướng?
Khắc khoải năm canh trống điểm tàn.
Kể ra thì anh em tôi đều là “điếc đạn súng” cả. Không có anh Mộng Châu, không biết ra thế nào đây.
Phần anh Trí vẫn tỉnh bơ tiếp tục xướng họa với cụ Phan, sau một vài lần lén lút đến thăm cụ. Được cụ bày tỏ ý chí, kinh nghiệm cách mạng trước những cuộc đấu tranh mà phần thua thiệt khó tránh được. Có lẽ anh chưa thấy những điều quan trọng đã bắt buộc cụ phải dừng chân lại trên con đò cấm cố đó. Anh viết một bài khích lệ.
GÁI Ở CHÙA
Rừng Thiền thấp thoáng dạng quần thoa
Khuê các trâm anh cũng rứa à
Mùi tục chưa chi đà vội chán
Trò đời mới rứa đã lo xa
Lạt mùi son phấn say mùi đạo
Chán cảnh phồn hoa mến cảnh chùa
Dì nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm
Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa.
Bài thơ này cho thấy anh Trí đã để lộ cái tuổi háo thắng trẻ con mười tám đôi mươi của anh, không che đậy cái hào khí của bài Thức Khuya trước đây mà cụ Phan đã bắt gặp:
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chi mình ta dạ chẳng an…
Cụ Phan họa lại như sau để thanh minh cái “Lão giả an chi” của cụ đã trở thành bất lực:
Bãi lai không viết cậy gì thoa
Hóa gặp đâu thì cũng thế à
Một chữ đã đành thân quí trọng
Trăm năm phải tính cuộc gần xa
Tủi vì cái kiếp con không mẹ
Hổ cũng như ai sải có chùa
Khuya sớm hương trầm nguyền với Phật
Nhành dương mưa rưới vạn nghìn hoa.
Cuộc xướng họa cứ như thế cho đến ngày anh tìm được ở Sài Gòn một địa bàn rộng lớn hơn để nối lại chí cách mạng của cậu Thông Oanh, của cụ Sào Nam mà hoàn cảnh đất nước buộc phải bỏ dở.
*
4. TÌM ĐỊNH HƯỚNG
Mất cơ hội đi Pháp, mộng viễn du không thành, ý đồ cách mạng mà anh chưa thấy được rõ ràng nên chưa tìm được địa bàn để hoạt động, anh trở về Quy Nhơn sống với gia đình, rồi tiếp tục làm thơ viết báo.
Bạn bè ngày càng kết giao nhiều, xa cũng như gần nhờ tiếng tăm anh được Mộng Du Thi Xã nhắc đến trang trọng, khi đăng những bài thơ anh xướng họa với cụ Phan.
Trong thời gian này, tình hình kinh tế của thời hậu chiến rất trầm trọng vì không theo kịp đà tiến triển mới. Nạn thất nghiệp ở các nước và ngay cả trong nước đe dọa một cuộc sống khó khăn. Các báo đăng tải tin Hoa Kỳ phải đổ xuống biển hàng triệu tấn cà phê, mễ cốc để giữ giá cho các nhà trồng tỉa và bình thường sinh hoạt của thợ thuyền. Người dân Việt bắt đầu ý thức đến vận mệnh quốc gia. Tinh thần trách nhiệm bừng lên như sau một cơn mê ngủ.
Nhiều thanh niên trong nước phải bỏ học, chưa tìm được định hướng cho cuộc đời, nên phần lớn đổ dồn vào Sài Gòn kiếm việc để sống tạm bợ.
Các bạn hữu của Hàn, những kẻ còn lại ở nhà, đều rủ nhau vào làm việc cho ông Đỗ Phong, nhà thầu, lãnh làm trích lục địa chánh cho sở Đạc Điền.
Hoàng Điệp, Hoàng Tùng Ngâm đều đã có chỗ, họ rủ anh vào đó tạm sống. Lương tháng rất thấp, mỗi tháng từ sáu đến mười hai đồng.
Hàn làm cái việc dễ nhất, nhàn nhất và ít tiền nhất là ngồi biên chép các tờ trích lục đã cũ, lãnh lương về chỉ đủ để anh trả tiền mua báo, mua giấy và tem thư. Thỉnh thoảng, viết một vài bài báo, còn thì làm thơ để có dịp bạn bè hội họp ngâm nga. Cho đến cái ngày quyết định, anh phải rời bỏ Quy Nhơn để vào Sài Gòn một cách bỡ ngỡ.
Hồi đó, một trận bão lớn chưa từng có, năm 1934 làm sập gần hết những ngôi nhà cũ kỹ, trong đó có căn nhà mẹ tôi ở đường Philastre bên cạnh sở Đạc Điền. Một sự nghiệp đồ cổ mẹ tôi tích trữ để bán cho trường Bác Cổ Viễn Đông đều nát vụn như ngói gạch, trị giá thời ấy phải 4.000 đồng. Một món nợ trả mãi không hết.
Biến cố này thúc đẩy Hàn bỏ Quy Nhơn đi Sài Gòn.
Trước đó Trọng Quỵ và Trọng Miên đã có lần khuyên anh vào chung sức làm tờ báo. Thúc Tề ở Sài Gòn cũng ra góp phần thúc giục. Thúc Tề tả Sài Gòn như thiên đường địa giới.
Tháng 7 năm ấy, “Anh khăn gói gió đưa” mà lòng hoang mang trước viễn ảnh chưa hé mở cho một định hướng rõ ràng nào. Những lời tâm sự của cụ Phan vẫn còn ám ảnh anh trong nhiều hoài bão. Ra đi đến một hoàn cảnh lạ lùng bỡ ngỡ, không bà con thân thuộc. Người dân Sài Gòn sống vội vàng mạnh ai nấy lo, chỉ biết làm cho ra tiền để tận hưởng thôi.
Những ngày còn lang thang trên đường phố, nhớ lại tình mẹ hiền, anh đã làm bài thơ đầu tiên khi đặt chân đến Sài Gòn:
GIANG HỒ NHỚ MẸ
Mình không hò hẹn bước giang hồ
Lưu lạc quê người mới khổ cho
Nước chảy thương thân bèo bọt nổi
Mây bay nhớ mẹ sớm hôm chờ
Thằng con bất hiếu đi đành đoạn
Trời đất vô tình lại đắn đo
Muôn dặm non tần xa thăm thẳm
Ý chừng chim nhạn biếng đưa thư.
Lang thang ở Sài Gòn ít hôm, anh được Thúc Tề, Trọng Miên giới thiệu với Hồng Tiêu, em sao đó của bà Bút Trà, tay kinh doanh nghề báo chí. Trọng Quỵ và Trọng Miên đang viết cho tờ Trong Khuê Phòng của bà Bút Trà, mời anh phụ trách trang văn chương.
Anh vừa viết bài vừa chữa bài và các bản in, nên họ gọi anh là “thầy cò” (correcteur).
Chẳng mấy lúc anh được nhiều người biết đến tên, biết đến văn thơ anh và còn biết cả nhãn hiệu “Đông Kinh Nghĩa Thục” của anh mà Sài Gòn nghe như một vang bóng, mặc dầu anh còn trẻ. Họ kháo nhau về những bài anh đăng trên Mộng Du Thi Xã, thường bày tỏ thiện cảm và kính nể. Bài Thức Khuya được nói đến rất nhiều với lời tán thưởng nồng nhiệt của cụ Phan, mà bạn bè anh khai triển thêm cho uy tín anh, tạo cho anh thế đứng khá vững. Bây giờ thì anh cảm thấy thích thú, khi tiếp xúc với nhiều nhóm chính trị ở Sài Gòn một cách ngang ngửa.
Anh bắt đầu có dịp học hỏi, so sánh trong tương quan với điều mà anh đã được truyền thụ chớp nhoáng cái gọi là tư tưởng cách mạng, những ngày về Huế ghé thăm cụ Phan.
Dù sao anh cũng được nhiều người kính nể với thành tích tiếp xúc với nhà cách mạng lão thành, mà ở Sài Gòn xem đó là điều không ai dám nghĩ đến. Lại nữa, anh còn hy sinh cả giấy phép du học Pháp mà mật thám Pháp đã thu hồi. “Giá trị lắm đó chớ”, anh thường loè với tôi như thế.
Công việc ở tòa soạn không lấy gì là bận rộn. Do đó anh cộng tác với nhiều tờ báo khác. Thỉnh thoảng cũng viết cho vài tờ báo Pháp như Impartial, Opinion và các tờ báo đấu tranh như La Lutte, L’abeille của nhiều nhà cách mạng Việt được nhà nước Pháp cho lưu hành – nghe đâu nhờ Tổng trưởng thuộc địa Moutet của chính phủ bình dân Pháp (Léon Blum) bảo trợ.
Không khí ở Sài Gòn có vẻ dễ thở, thậm chí người ta còn dám bày tỏ ít nhiều quan điểm chống đối.
Anh Trí quen với nghị sĩ Pháp lai da màu De Lachevrotière vốn cũng là nhà báo. Anh có vẻ thích gặp gỡ chuyện trò với ông nghị này. Qua De Lachevrotière anh được biết nhiều nhóm chính trị tiếng tăm, đang hoạt động hăng hái, đôi khi cả hàng ba nữa, dưới con mắt bao dung của chính phủ Pháp.
Đường Catinat luôn luôn có nhiều tin tức giựt gân để gây xúc động mạnh (ngay cả trước sở Cảnh sát Pháp). Nhà báo thường hò hẹn nhau gặp gỡ, chia sẻ tin tức, chia sẻ luôn quan điểm chính trị. Thậm chí còn cổ động cho một vài khuynh hướng cách mạng khác nhau.
Ở Sài Gòn người ta xem việc hoạt động úp mở chống Pháp là điều đáng hãnh diện, không cần phải che đậy.
Có lẽ Hàn Mặc Tử nhận xét phần nào phiến diện chăng?
Tuy nhiên với góc cạnh anh trông thấy rõ ràng hơn hết, ít nữa là bên ngoài, anh có cảm nghĩ một cách khá chủ quan là có bàn tay Pháp hướng dẫn đâu đó. Cho nên không ai tin ai, vì vậy dò xét lẫn nhau, đi đến tố cáo nhau.
Điều này không làm cho anh lo ngại, nhưng chỉ buồn thảm và thất vọng thôi, khi anh tiếp xúc với một vài nhân vật anh tin tưởng.
Anh nhận ra rằng, nhóm cách mạng ở miền nam này tuy cũng một chủ trương quốc gia dân tộc, nhưng lại “đồng sàng dị mộng”.
Từ đó anh mất đi cái hào hứng buổi ban đầu. Trong một vài bài thơ đăng trên báo Tân thời, anh viết bài tỏ nỗi ngao ngán.
CẢM TÁC
Thường thường trâu cột ghét trâu ăn
Vạch lá tìm sâu ngó dữ dằn
Nhát khỉ rung cây cho bỏ ghét
Úp voi lấy thúng quyết làm hăng
Chờ con nước đục cò đi rảo
Đợi lúc canh khuya chó sủa rân
Thù oán nhau chi gà một mẹ
Rồi đây vẽ rắn lại thêm chân
THANH NHÀN
Kiếp người nghĩ lại có là bao
Phú quý mây bay chẳng khác nào
Chi dụng từng vay kho tạo hóa
Bình sinh đã nhiễm thói phong lưu
Sóng dồi mặt đá phơi đầu bạc
Nắng dọi lưng cây suốt động đào
Ba vạn công danh ừ cũng bỏ
Thoát trần ta thử hát ngêu ngao.
Mặc dù không còn hào hứng đeo đuổi sự nghiệp cách mạng, nhưng hình bóng cụ Phan trên con đò vẫn còn làm cho anh ray rứt.
Đầu năm 1935 anh về Huế, lang thang trên bờ sông Hương trong một đêm nhiều ký ức, anh viết tặng cụ một bài (đăng trên Công luận 2-3-1935)
ĐÊM KHUYA TỰ TÌNH VỚI SÔNG HƯƠNG
Bây giờ chỉ có đôi ta
Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi
Thủa nước non đến hồi non nước
Sông Hương đành xuôi ngược đông tây
Soi lòng chỉ có đám mây
Đám mây phú quý những ngày lao đao
Sao mặt sông xanh xao ra dáng
Sao tình sông lai láng khôn ngăn?
Vì ai lắm nỗi chứa chan
Hay còn đợi khách quá giang một lần
Này thử hỏi thuyền nan thả lá
Thuyền ai đây nấn ná bấy lâu?
Mặc ai khanh tướng công hầu
Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng
Sao trời đất đãi đằng ra thế
Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm
Trong thành yến ẩm vui thêm
Tiếng ca lanh lảnh lọt rèm rèm thưa
Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu
Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ
Vì đâu nước chảy lững lờ
Hay cho thế sự cuộc cờ chiêm bao
Ghét xa mã nao nao uốn khúc
Giận thời gian những lứa xuân xanh
Nhà ai khiêu vũ năm canh
Hơi men sực nức dưới thành đô xưa
Sao tức tối trôi bừa đi mãi
Chẳng buồn nghe cô lái thở than
“Thuyền em đậu bến Hương Giang
Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên”.
Thuyền lặng lẽ nằm yên với bóng
Nước sống xuôi dợn sóng bến thuyền
Trong thành ngủ chết con đen
Khóa xuân bỏ lỏng đến then chẳng gài
Hãy trông thử đền đài dinh thự
Dấu xưa, xưa tình tứ làm sao
Ô hay! Sóng chảy dạt dào
Chiếc thuyền vô định lạc vào bến mê
Sao trai gái đi về trong mộng
Mà sông Hương chẳng động niềm riêng
Trong thành để lạnh hương nguyền
Tiếng gà gáy nguyệt láng giềng còn say.
Huế, Mồng hai Tết Ất Hợi
Có lẽ đây là bài thơ cuối cùng Hàn Mặc Tử viết về cụ Sào Nam.
Tuy nhiên về phần anh, trong một phạm vi hạn hẹp, anh vẫn tìm mọi cách để trung thành giúp đỡ bạn bè, những người lỡ bước mà anh cũng như họ từng vất vả thiếu thốn ở Sài Gòn.
Chủ thuyết kiêm ái của Mặc Địch, một đại triết gia thời Chiến Quốc, được anh vẫn đeo đuổi chân thành sốt sắng. Bút hiệu Hàn Mặc Tử cũng mang ý nghĩa kiêm ái đó.
Ở Sài Gòn, nhờ anh viết cho nhiều tờ báo, nhuận bút rộng rãi. Có tháng anh kiếm được gần trăm đồng, nhưng sắm sửa cho nhu cầu riêng anh, ngoại trừ bộ “tuýt xo” tơ Delignon, cái mũ Panama cố hữu và đôi giày “Vécni” đen, anh không sắm sửa gì hơn nữa, năm ba cái sơ mi, áo lót quần đùi là đủ.
Chỉ thỉnh thoảng mới mua bộ đồ ngủ, bị tiệm giặt xiết khi phải trả thiếu tiền, mà không có tháng nào anh trả đủ được. Chẳng những đồ của anh mà còn của mọi người.
Ngoài ra bao nhiêu tiền, bạn bè kéo nhau đi ăn nhậu cả. Không có khi nào trong túi được 2 đồng bạc. Họa hiếm mới có, thì cũng chưa nóng túi đã tiêu đi mất.
Anh cũng biết bạn bè tiêu hoang nhưng không nỡ nói. Anh rất thương họa sĩ Hồ Viết Tự. Tự thiệt thà, không hoang đàng như Thúc Tề. Tự cũng vẽ được, nhưng không theo kịp các họa sĩ đã có cơ sở. Anh chỉ còn vẽ biếm họa trên một vài tờ báo. Một lần anh hí họa thế nào động chạm đến tay tổ ở Sài Gòn, bị rượt đánh hoảng hồn. Sống rất thiếu thốn, tương lai rất lờ mờ.
Vì vậy áo quần anh phải để cho Tự và Tề dùng chung vì cả ba đều thấp bé như ngang với nhau thôi. Chật hẹp không kể, thế cũng vui vẻ cả.
Bạn bè ở Quy Nhơn đều biết anh sống cho thiên hạ nhiều hơn cho anh. Mẹ tôi hay phàn nàn áo quần anh bị thất lạc. Cái va-li mỗi lần về thăm nhà, “thu hình” lại chỉ bằng cái hộp máy đan của mấy anh “cúp dạo” (thợ hớt tóc dạo).
Gần một năm đi về của anh, cuộc sống tình cảm không có gì thay đổi.
Ngoài việc tiếp xúc văn thơ với các bạn gái trên tờ báo, độc giả của tờ Trong Khuê Phòng, anh vẫn không có bạn gái. Những mối tình kỳ ngộ vắn vỏi ở Huế như “chuyến đò ngang”, mà anh đã lỡ bước, để đò sang ngang mất, thỉnh thoảng lại làm cho anh nhớ tiếc.
Trong bài thơ Bước giang hồ gởi đăng ở báo Tràng An, Huế, có ý nhắn tin người cũ, anh kể lại ở một vài kỷ niệm của những con đò bến cũ…
BƯỚC GIANG HỒ
Suốt đời phiêu lãng mặc tiêu dao
Non nước từng phen tự thưở nào
Đúc lại can tràng nhờ hạo khí
Rồi ra thân thế được thanh cao
“Chút tình bến cũ còn đeo đẳng
“Hụt chuyến đò đưa nghĩ nghẹn ngào
Gặp gỡ cố nhân rằm tháng trước (1)
Cầm tay thuật lại nỗi lao đao.
(1) Có lẽ nhắc đến cô Thu Hà (NBT)
Tuy anh có đọc một vài bài của Mộng Cầm mà Thúc Tề mối mai cho anh, nhưng mối tình đó vẫn còn trong mơ màng, chưa ngã ngũ ra sao cả.
Bạn bè hay rủ rê vào nếp sống buông thả, nhưng anh vẫn từ chối, hoặc né tránh những cơ hội tiếp xúc với đàn bà, đến nỗi họ chê cười anh là quê mùa, ngốc nghếch.
Đã có một lần anh nổi xung, tính chuyện bỏ Sài Gòn về Quy Nhơn, chỉ vì một bài báo xiên xỏ dung tục quá đáng (điều này ở Sài Gòn thỉnh thoảng lại xảy ra).
Nguyên do, hai anh Trọng Miên và Thúc Tề được nổi tiếng về phóng sự xã hội. Hai cây bút sắc bén nhất hồi đó. Không biết các anh bươi móc đời tư không đẹp của một nhân vật nào đó mà thế lực và “nha trảo” (đồ đệ) rất mạnh. Họ phản ứng thật tồi tệ, gây nên trêu cợt thiếu lễ độ với nhóm nhà viết báo Trong Khuê Phòng.
Trên một tờ báo ở Sài Gòn, mục “câu chuyện tầm phào” có người nói mỉa mai đến những trang nam tử trí thức, lập sự nghiệp trong phòng the, ngụ ý trong khuê phòng. Lại còn đùa cợt những anh chàng chạy theo gái bằng câu tiếng Pháp: Courir après les jupes. (jupes nghĩa đen là cái váy).
Bài này châm biếm bằng nhiều câu dung tục, khiến anh cảm thấy hổ thẹn không đến tòa soạn nữa, nhà báo phải cho người đến nhà lấy bài. Anh chán nản muốn bỏ Sài Gòn về Quy Nhơn. Bà Bút Trà muốn xoa dịu, hứa với anh sẽ xin giấy phép ra một tờ Phụ Nữ Tân Văn, để anh làm chủ biên. Anh có vẻ bằng lòng, và chịu ở lại Sài Gòn.
Hồng Tiên, nhà văn, vốn là em bà Bút Trà, rất có cảm tình với anh, lại cũng có bà con sao đó với Mộng Cầm, cho nên đây cũng là dịp để giúp Hàn làm quen với Mộng Cầm. Vốn họ muốn kéo anh Trí vào nhóm nhà thơ theo môn phái thác loạn Baudelaire, mà Bích Khê cậu ruột của chị Mộng Cầm đang thai nghén tập thơ Tinh Huyết, cũng muốn Hàn đề tựa cho tập thơ của anh ấy.
Mối tình anh và Mộng Cầm cũng chỉ là các cuộc gặp gỡ du ngoạn ở Phan Thiết, ở Mũi Né. Nhưng tại Sài Gòn, thì theo tôi được biết, hai người vẫn không có dịp tâm sự. Chắc là Hàn hổ ngươi, vì có đông đảo bạn bè trêu chọc.
Cuộc tình kéo dài đến nửa năm 1936 thì gián đoạn, đến phải giải ước cho nhau, vì Hàn đã bắt đầu đau phong có triệu chứng.
Anh cũng bỏ cả lời hứa với bà Bút Trà không trở vào Sài Gòn nhận chủ biên tờ Phụ Nữ Tân Văn, mà giấy phép xuất bản vừa được cấp.
Dù sao thì năm 1936 vẫn là năm anh được mãn nguyện với tập thơ Gái Quê, tập thơ đầu tay của anh đã được xuất bản tốt đẹp.
Ước mơ trước hết của anh là những bài thơ nỗi lòng riêng tư của anh, như Tình Quê, Buồn Thu, Chuyến Đò Ngang, sẽ được trao đến tay những người đẹp, những giấc mộng con mà anh khó quên.
Mặc dầu, chị Cúc e ngại không dám nhận tập thơ Gái Quê anh trao tặng trong dịp Hội Chợ Huế, nhưng chị cũng đã đọc hết mối tình của anh qua tay các em chị mà Hàn lưu ý trao tặng hết.
Mộng Cầm, tuy giải ước với anh, nhưng vẫn thỉnh thoảng ghé Quy Nhơn thăm anh. Có lần mang cả con theo nữa: cho nên trong những bạn gái được anh yêu, Mộng Cầm là người vẫn còn may mắn được lắng nghe tâm sự anh qua nhiều bài thơ ràn rụa nức nở, đến bây giờ vẫn còn nóng hổi như bài Phan Thiết, Say chết đêm nay…
Và cuối cùng cũng vì Mộng Cầm, mà Hàn đã “rộng rãi”, đề tựa cho tập thơ Tinh Huyết của Bích Khê. Cử chỉ này làm cho nhiều nhà văn đạo đức ở Huế phải ngạc nhiên với nhiều luận điệu ngờ vực không tốt đẹp lắm cho Hàn.
Đành vậy thôi. Đó là riêng tư của Hàn.