Hàn Mặc Tử Trong Riêng Tư - Phần I - Chương 1
PHẦN I
MỘNG LỚN
1. CÂU CHUYỆN XƯA CỦA BÀ MẸ
Khác với bên nội, những câu chuyện có liên quan đến lịch sử đất nước mà nội
- tổ cấm nhặt không được ai nhắc đến quá khứ Cần Vương, cũng như thành tích
trong quá trình binh nghiệp của cụ, thì bên ngoại, mẹ tôi thường hay kể lại
những biến cố, những thảm họa mà dòng họ đã trải qua trong một thời kỳ ly loạn
cuối triều Tự Đức.
Chẳng những bà không giấu giếm, không e dè, bà còn kể lại tỉ mỉ, buộc con
cái phải ghi nhớ như những vinh quang đáng được hãnh diện. Vì đó không phải là
điều bất hạnh cho dòng họ.
Mẹ tôi là con gái út, trong khi các anh chị trưởng thành gia thất. Lúc bấy
giờ vào khoảng trên dưới mười tuổi, mà trí nhớ của bà không hề bỏ sót một chi
tiết nào.
Bà thường theo bà ngoại vào Đại nội chữa bệnh cho các phi tần cung nữ, cùng
ngồi chung một võng với bà ngoại vì lệnh rất nghiêm, cấm không được ai vào nếu
không có nội thị hướng dẫn. Và cũng không được tiếp xúc riêng tư với các phi
tần cung nữ.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Bà ngoại rất am tường khoa chẩn mạch đông y. Mẹ tôi kể lại, nhiều bệnh khó,
Thái ý và Ngự y phải mời bà ngoại vào tham khảo tranh luận. Vì vậy rất được tin
cẩn. Chính ông ngoại là Ngự y mà cũng không giỏi hơn bà ngoại.
Nhờ vậy, bà ngoại được phép tiếp xúc riêng tư với các phi tần bằng phương
pháp chẩn mạch: Vọng, văn, vấn, thiết (nhìn, nghe, hỏi và gần gũi) được nghe
nhiều chuyện trong thâm cung ghê sợ.
Nguyên nhân mắc bệnh trong cung phần đông do những thiếu thốn về sinh lý,
tâm bệnh mòn mỏi. Và cũng là do những trò chơi quái nghịch của vua chúa xem
mạng người như cỏ rác.
Câu chuyện toán nữ binh lõa thể tập trận, dưới triều vua Thành Thái, một
ông vua điên loạn mà hoàng cung giải thích như kế hoạch đánh lừa chính phủ Pháp
để chờ phen nổi dậy là một ví dụ.
Không có người nào trong đám nữ binh, không mang nhiều thương tích, thậm
chí thành tật vì đao kiếm.
Những cái chết rùng rợn của các vị vua con nít: Hiệp Hòa, Kiến Phước cũng
được nghe kể lại chi tiết. Hiệp Hòa mới mười tuổi bắt lên ngôi báu rồi phải
nhận tam ban Triều Điển (gươm, thuốc độc và giải lụa).
Nghe kể lại ông vua trẻ con đó, khóc la không chịu làm vua, chạy trốn ẩn
trong cầu tiêu, bị lôi ra chận họng đến lòi cả mắt ra để đổ thuốc. Kiến Phước
cũng chết như vậy.
Vua Dục Đức biết trước số phận, đã xé chiếc áo địa xanh (một thứ gấm mỏng)
nuốt hết mà chết trong ngục.
Đó là thời lộng hành của các gian thần, loạn tướng để lại cho lịch sử nước
nhà những chiếc khăn tang và nước mắt đẫm máu.
Những câu chuyện trong thâm cung, tuy bị bưng bít ra ngoài bá tánh nhưng
người nào có cơ hội kể lại, vẫn tự xem như nhẹ bớt nỗi buồn phiền của chính họ.
Cái chết của nàng cung nữ bất hạnh này, chỉ vì ước mơ được gần vua một lần,
dù chết cũng cam tâm. Đó là một cung nữ trẻ đẹp trong số mấy ngàn người trong
tam cung, lục viện sống mòn mỏi không hề có mùa xuân thắm.
Cung nữ này, được nghe kể lại, xuất thân nhà nghèo, được tiến vào cung
nhưng không có tiền lo lót cho nội giám, nên chỉ được quét dọn ở bên ngoài nội
tẩm.
Một lần trông thấy Vua (Minh Mạng) một “Ngài Ngự” trẻ đẹp, đem lòng say
đắm, mong mỏi được gần gũi một lần thôi, mà chết cũng chịu.
Vua Minh Mạng nổi tiếng hiếu sắc và hiếu sát tàn nhẫn hơn hết các vì vua
Nguyễn triều, không kém Dương Quảng (Tùy Đế nước Trung Hoa).
Một hôm, người cung nữ đẹp mà vắn số này, không biết làm thế nào vào được
long sàng, gặp lúc vua đang ngủ. Nhìn sững sờ một hồi, không cầm được nỗi ước
mơ, rón rén hôn nhẹ má vua.
Vua giựt mình tỉnh dậy, nàng hoảng sợ vội vàng bỏ chạy. Còn chưa tỉnh, vua
thét nội thị tìm bắt và đem chém. (Có người nói là vua la lên: thích khách).
Minh Mạng độc ác nên luôn luôn sợ kẻ ám sát.
Cung nữ bị đem ra chém. Theo kể lại, nàng bị chém ngang lưng (yêu trảm)
không khóc than, chỉ hướng về nội tẩm lạy mấy lạy rồi bình tĩnh thụ hình pháp.
Trong nội cung nghe nói đều gạt lệ thầm nhưng không ai dám hở môi.
Hàn Mặc Tử nghe câu chuyện bị xúc động mãnh liệt, anh có làm một bài thơ
nhắc lại thảm kịch đó bằng một giọng tuy oán trách nhẹ nhàng nhưng không thiếu
phần xót xa đau đớn.
NHỚ THƯƠNG
Trầm ngán nghe bay trong lãnh
cung
Xuân thơm bối rối ngọt vô cùng
Ôi chao, thánh thượng vô tâm quá
Lòng thiếp buồn như một tấm nhung
Ở đây châu báu vô tri hết
Pho sách quần phương lộ ý nhiều
Hãy tìm cho được Hoa cung cấm
Xem thử tên Hoa có mỹ miều
Ngoài kia Xuân đã thắm duyên chưa
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có người cung nữ nhớ thương vua.
Đừng ai nhắc nhở đến xuân trong
Vô số là xuân chiếm mọi lòng
Mỗi người đều có xuân riêng cả
Thiếp viết xuân trên mảnh lụa
hồng.
Trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử
mượn cuộc đời cô quạnh khao khát yêu đương trong cung cấm, để diễn tả nỗi lòng
người cung nữ bất hạnh đã chết vì thương yêu vua.
Các phi tần cung nữ trong Đại
Nội, mỗi người một vẻ như bó hoa trăm sắc trăm hương (quần phương) tìm cách phô
bày vẻ thướt tha kiều diễm, tươi mát để mong được Ngài ngự lưu ý.
Nhưng vua chúa (châu báu) vô tình
bước qua đi, giẫm chân lên nỗi lòng buồn thảm của họ, tuy ân ái dịu dàng như
tấm thảm nhưng, nhưng biết bao cay đắng xót xa.
Ôi chao! Thánh thượng vô tâm quá.
Vậy thì ai là người đẹp nhất, có
phúc được vua đoái hoài?
Ngoài kia bá tánh, đã có bao mùa
xuân nên duyên thắm, mà sao nơi đây không hề biết mùa xuân (yêu đương). Không
có trăng không có nhạc, chỉ có vua là ước mơ thầm lặng của mỗi người trong cuộc
đời khép kín.
Người cung nữ nào đây đã phải trả
mùa xuân bằng giá màu hồng. (Thiếp viết Xuân trên mảnh lụa hồng).
Nếu không biết câu chuyện thương
tâm này trong thâm cung bưng bít thì bài thơ Nhớ Thương này là một trong những
bài thơ kỳ lạ khó hiểu nhất từ xưa nay của Hàn Mặc Tử.
Những ngày còn học ở Huế, anh Trí
thường về làng Kim Long, vốn cùng là quê ngoại, để tìm hiểu tông tích người
cung nữ đẹp và vắn số này. Lòng thương xót và hiếu kỳ thúc đẩy anh ra sức tìm
hiểu luôn mấy tháng trời vẫn không biết gì hơn.
Kim Long là một làng nổi tiếng có
nhiều người đẹp. Phần lớn cung nữ trong Đại Nội đều có thân nhân tại đây.
Mẹ tôi kể chuyện bà dì ruột con
thứ hai ông bà ngoại tôi, cũng nổi tiếng đẹp nhất Kim Long. Bà tên là Nguyễn
Thị Hườn.
Vua Dục Đức, thuở còn là ông
Hoàng, nghe tiếng bà đẹp, mượn cớ đến ông Ngự y (ngoại tổ) giấu thuyền một nơi
kín cho lính lùng bắt bà Hườn. Đêm nào cũng rình rập, ông ngoại tôi lo lắng gởi
bà lên trốn trên An Vân. Cuối cùng phải gả chồng gấp. Nhưng số bà yểu, sinh
được hai người con thì bà mất, dượng tôi thương tiếc thành bệnh cũng mất sau đó
không lâu.
*
Mẹ tôi kể lại cái chết bất đắc kỳ
tử, mở đầu thảm họa cho dòng họ, mà ông ngoại tôi đã thọ hình ngay trước mặt
bà.
Đêm ấy, vừa đọc kinh xong, nghe
có tiếng phá rào, chó sủa, rồi một đoàn người đeo gươm vác giáo xông vào nhà,
lôi ông ngoại ra sân bắt quỳ xuống. Đích thân tướng Trấn Soạn rút kiếm chém. Bà
ngoại cũng bị dẫn đi. Không ai hiểu vì sao cả. Cậu cả ký Bích may mắn chạy
thoát, đang đêm đi bộ vào Quảng Nam và không dám trở về nhà nữa.
Bà con trong họ xúm lại tẩm liệm
thi thể ông ngoại và đưa luôn về trên làng An Vân thuộc họ ngoại chôn cất tại
đó. Phải chăng vì bà ngoại hay ra vào cung cấm, liên quan với hoàng tộc? Bà
ngoại bị giữ lại bên Pháp Ty gần một tháng tra khảo rồi tha về, bên má trái có
thích hai chữ Tả đạo. Bà ngoại giữ im lặng không hề thổ lộ những gì đã trải qua
bên Pháp Ty, cho đến khi qua đời. (Ông ngoại thuộc thành phần phái đoán sang
Pháp cầu hòa do Cụ Phan Thanh Giản lãnh đạo).
Trong gia đình chỉ đoán vì bà
Nguyễn Thị Hườn, chị ruột của mẹ tôi được Vua Dục Đức, thuở còn là ông Hoàng
rất mê say, vì vậy bị liên lụy.
Người cậu, anh thứ hai mẹ tôi bỏ
nhà đi theo hoạt động cách mạng do Đông Kinh Nghĩa Thục từ ngày xảy ra biến cố,
và đã tạo ít nhiều huyền thoại trong dòng họ, tác động mạnh tinh thần Hàn Mặc
Tử thuở còn bé.
Mẹ tôi là em út được cậu rất
thương, dạy mẹ tôi học làm thơ, dạy đàn. Về ông, chúng tôi sẽ kể câu chuyện sau
đây:
(Câu chuyện mà tôi kể lại, từng
được nghe từ thuở bé, đã thành văn trong trí nhớ. Vì vậy chưa bao giờ nghĩ đến
tra cứu sử sách. Nếu có những sai lầm nào đó về không gian về thời gian, xin
quý độc giả lượng tình bỏ qua và xem như huyền thoại vậy).
2. CẬU THÔNG OANH (VÀ ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC)
Cậu Nguyễn Văn Oanh từng làm
thông dịch viên nên thường được gọi là Thông Oanh. Một con người kỳ lạ trong
dòng họ, ít ai hiểu được rõ ràng.
Chỉ biết là con người tài hoa,
thơ hay đàn giỏi, phong lưu rất mực và đa tình như cánh bướm vườn xuân.
Theo mẹ tôi kể lại thì ông xấu
trai, hơi rỗ hoa mè nhưng ăn nói rất hấp dẫn, chinh phục được hầu hết những ai
nghe cậu tôi trò chuyện.
Cha tôi khi đổi vào tòa sứ Hội
An, Cậu khuyên ông bỏ tòa sứ qua Thương Chánh, để hoạt động cho Đông Kinh Nghĩa
Thục. Vì Thương Chánh, tức Hải quan có nhiều cơ hội liên lạc với cách mạng hải
ngoại.
Mẹ tôi nghe được chuyện này hơi
lo, nhưng rất tin ở cậu Thông Oanh. Theo Bà kể lại, việc cậu làm nghe rất nguy
hiểm, vào sinh ra tử mà cậu xem như dự một cuộc hòa đàn, một buổi ngâm thơ.
Rượu uống tràn như nước. Những lúc cao hứng thì ngâm bài thơ Đường mà mẹ tôi
thuộc lòng.
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Lại ngã ra ngủ say. Lúc tỉnh dậy,
xách dù ra đi không ai biết. Cậu tôi đi về Quảng Châu Loan – Hội An như đi
chơi, không bao giờ có hành trang, thoắt đi, thoắt đến không báo trước.
Năm cha tôi đổi về Quảng Bình,
cậu tôi ở hải ngoại về, thỉnh thoảng ra thăm trò chuyện rất tương đắc.
Một hôm cậu tôi ra thăm, trông
thấy anh Trí vừa được ba tuổi, cậu xem tướng khen: “Thằng ni được lắm, cô dượng
cho tôi đem nó đi với tôi.” Mẹ tôi nói: “Anh chưa có nơi định trú chắc chắn,
đem nó về ở đâu?” Cậu cười: “Trong thiên hạ không có chỗ nào là không ở được.
Hai năm nữa tôi về đem đi.”
Lúc bấy giờ mẹ tôi dự trữ cá khô,
mắm để cậu tôi đem đi. Hình như trong làng chú ý nhiều lần rồi.
Bỗng một hôm thình lình cậu đến
lúc nửa đêm, nói chuyện rất lâu với cha tôi, gần sáng lại ra đi. Cha tôi vội
vào phòng đem tất cả giấy tờ đốt sạch. Sau lần này, cậu biệt tích luôn. Anh Trí
nghe chuyện cậu, lấy làm thích chí, xem cậu như thần tượng. Anh làm bài thơ tả
ý chí ngang tàng của cậu:
ĐỜI PHIÊU LÃNG
Mây trắng ngang trời bay vẩn vơ
Đời anh nào có khác chi mô
Đi đi đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường, cái ước mơ
Ở chốn xa xôi em có hay
Nắng mưa đã trải biết bao ngày
Nụ cười ý chí như mai mỉa
Mỉa cái nhân tình lúc đổi thay.
Trên đòi gió bụi anh lang thang
Bụng đói như cào, lạnh khớp răng
Không có nhà ai cho nghỉ bước
Vì anh là kẻ chẳng giàu sang.
Ban đêm anh ngủ túp lều tranh
Chỗ tạm dừng chân khách bộ hành
Đến sáng hôm sau anh cất bước
Ra đi với cái mộng chưa thành.
Luôn mấy năm về sau, tìm hỏi các bạn thân của cậu. Chẳng ai biết gì, nhưng
một người Tàu ở Hội An cho hay: Sau một cuộc biến động ở Quảng Châu Loan nhiều
người Việt bị bắt đem đi mất tích, không nghe nói gì. Trong số đó chắc có cậu
Thông Oanh tôi. Đúng như cậu đã tiên tri:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Cuộc chiến cậu đã tham dự có lẽ âm thầm, cũng có thể đã nổ bùng trong một biến
động không biết là trong hay ngoài nước.
Hàn Mặc Tử thương tiếc cậu, so sánh khí phách ngang tàng, xem cái chết nhẹ
như lông hồng của cậu với Cao Bá Quát, khi nghe truyền tụng câu nói họ Cao lúc
đưa ra pháp trường vì tội phản loạn theo giặc Châu Chấu. Câu nói vừa chua chát
đùa cợt, ngạo nghễ.
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một lát gươm đưa bỏ mẹ đời.
Hàn chê vua Tự Đức hẹp hòi, đối xử với một thiên tài đất nước không bằng
Đường Minh Hoàng tha chết cho Lý Bạch, nhà thơ bất hủ đời Đường đã theo phản
loạn An Lộc Sơn. Vậy mà vua Tự Đức cũng đã từng khen:
Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.
Phải chăng vua Tự Đức muốn đề cao văn chương hai ông hoàng, Tùng Thiện
Vương và Tuy Lý Vương lên ngang các thiên tài Siêu, Quát?
Giặc Châu Chấu so với giặc An Lộc Sơn chỉ là một thứ tép riu mà nhà vua Tự
Đức cũng sợ hãi phải giết Quát đi thì thật là tồi tệ, nếu không muốn nói là
mượn cớ giết người tài.
Cha tôi mất mấy năm, mẹ tôi về Quy Nhơn buôn đồ cổ. Mợ Thông Oanh cũng ra
vào mấy lần đem đồ cổ của dòng họ nhờ mẹ tôi bán cho Trường Bác Cổ Viễn Đông.
Chúng tôi đều được trông thấy mợ. Người đàn bà lấy chồng từ thuở mười bảy
tuổi đến nay, mà cuộc sống lứa đôi chỉ đến đuợc có tháng, ngày. Vậy mà bà vẫn
vui vẻ an phận không hề oán trách Cậu. Vẫn cô đơn không nghĩ đi bước nữa, mà
trông mợ trẻ như mới trên ba mươi tuổi thôi.
Anh Trí xót xa cho mợ, mượn câu thơ Phan Thanh Giản đọc cho mợ nghe:
Đường mây cười tớ ham dong ruỗi
Trướng Liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Mợ vẫn cười vui vẻ, vô tư.
Mợ Thông Oanh vốn là con gái của một ông Thông nhì ở huyện Điện Bàn. Ông
Thông nhì cũng là tay lãng mạn, thích ngâm thơ uống rượu, thấy được khí phách
ngang tàng của cậu Thông Oanh, rất quý trọng. Nghe nói Cậu không chịu lấy vợ,
ông đem con gái cưng mới mười bảy tuổi gả cho Câu. Ông nói: “Mi đừng lo, con
gái tao cũng như tao vậy. Tao thích là nó thích.” Vậy là cậu tôi có vợ và bà vợ
này chịu đựng thầm lặng cái tánh “bất cần đàn bà” của cậu. Bà vợ thùy mị, dễ
bảo, kỳ lạ này cũng vẫn thế cho đến ngày nay.
Hàn Mặc Tử rất quý trọng mợ. Anh làm bài thơ Lòng quê mượn câu chuyện một
nhà cách mạng thất bại bị tống giam nhận được thơ vợ ở quê nhà, để tặng cho mợ:
Từ khi trong quán khách
Anh bứt áo ra đi
Nước mắt em ràn rụa
Lòng anh xiết sầu bi
Đạp chân lên đường máu
Anh gây chuyện ly kỳ
Rồi nước mây lưu lạc
Rồi anh ôm tình si
Âm thầm cùng ngày tháng
Không biết ở thôn quê
Em có gầy như liễu
Hay buồn như đám mây
Thương em không dám nghĩ
Đương lúc nước nhà nguy
Mối thù tràn như sóng
Lòng nào anh nỡ si
Cách nhau ngàn sông núi
Còn thấy rõ dung nghi
Phảng phất luôn trước mắt
Dường mới gặp hôm tê
Yêu nhau đành thú thật
Sống thác có hề chi
Trong lúc ngồi tưởng tượng
Lệ em tưới bài thi
Yêu đương cầm đọc mãi
Dưới ngọn đèn vô tri
Xét thân anh vô dụng
Ung hủy kiếp nam nhi
Sống chung cùng kẻ nghịch
Hổ thẹn đến ngàn cây
Có em anh sống gượng
Hồn anh về thôn quê
Theo em trong giấc ngủ.
Theo em bên bánh xe.
Nước mây còn lưu luyến
Tiếng lòng còn lân ly
Tả xong niềm tâm sự
Ruột gan đều tái tê…