Ấn tượng sai lầm - Chương 36 - 37
Chương 36
Fenston vươn một cánh tay qua
giường và rờ tìm máy điện thoại, mắt ông ta vẫn nhắm nghiền.
“Mẹ kiếp, ai lại gọi vào giờ
này thế?”
“Vincent vừa gọi điện”.
“Và lần này cô ta gọi về từ
đâu?”, Fenston hỏi, mắt ông ta thình lình mở to.
“Tokyo”.
“Vậy là cô ta đã gặp Nakamura”.
“Chắc chắn là như thế”, Leapman nói, “và tuyên bố là cô ta đã bán được bức
tranh”.
“Anh không thể bán thứ mà anh không có”, Fenston vừa nói vừa bật chiếc bóng
đèn ở cạnh giường lên. “Cô ta có nói mình sắp đi đâu không?”.
“Đi lấy bức tranh”.
“Cô ta có nói bức tranh để ở đâu không?”.
“Vẫn ở chỗ cũ”, Leapman trả lời.
“Vậy thì chắc chắn là ở London”, Fenston nói.
“Sao ngài biết chắc điều đó?”, Leapman hỏi.
“Bởi vì nếu cô ta đã đưa bức tranh tới Bucharest, tại sao lại không đưa nó
tới Tokyo? Không, chắc chắn cô ta đã để nó lại London”, Fenston nói,“vẫn
ở chỗ cũ”.
“Tôi không dám chắc như thế”, Leapman nói.
“Vậy ông nghĩ nó đang ở đâu?”.
“Ở Bucharest,vẫn ở chỗ cũ,trong chiếc thùng màu đỏ”.
“Không, chiếc thùng chỉ là mồi nhử thôi”.
“Vậy thì làm sao chúng ta có thể tìm được bức tranh?”, Leapman hỏi.
“Quá đơn giản”, Fenston nói.
“Bây giờ khi Petrescu nghĩ rằng cô ta đã bán được bức tranh cho Nakamura, việc
tiếp theo của cô ta sẽ là đi lấy nó. Và lần này Krantz sẽ chờ cô ta, và sau đó
cô ta sẽ có một kết cục có một cái gì đó giống Van Gogh. Nhưng trước hết, tôi
cần phải gọi một cú điện thoại đã”. Ông ta dập máy xuống trước khi Leapman có
cơ hội hỏi xem ông ta định gọi cho ai.
Anna làm thủ tục ra khỏi
khách sạn lúc vừa sau 12 giờ trưa. Cô đi tàu điện để ra sân bay, vì không còn
đủ tiền để đi tắc xi. Cô nghĩ rằng một khi cô đã lên tàu điện, người đàn ông
kia sẽ bám theo cô, và cô muốn tạo điều kiện dễ dàng cho anh ta. Suy cho cùng,
chắc anh ta đã được thông báo về điểm dừng chân tiếp theo của cô.
Điều mà cô không biết là
người bám theo cô đang ngồi phía sau cô tám hàng ghế.
Krantz mở tờ báoShinbuira,
sẵn sàng để đưa nó lên che mặt nếu Petrescu nhìn quanh. Petrescu vẫn ngồi yên.
Đã đến lúc phải gọi điện.
Krantz bấm số và chờ cho đến tiếng chuông thứ mười. Khi đầu dây bên kia đã nhấc
máy, cô ta vẫn không nói gì.
“London”, là từ duy nhất mà
Fenston nói trước khi tín hiệu điện thoại tắt.
Krantz ném chiếc điện thoại
cầm tay ra ngoài cửa sổ, và nhìn theo cho đến khi nó rơi xuống trước một chiếc
tàu khác đang chạy tới.
Khi tàu điện dừng lại tại
cổng vào sân bay, Anna nhảy xuống và đi thẳng tới quầy bán vé của hãng Hàng
không Anh quốc. Cô hỏi giá vé hạng tiết kiệm tới London, cho dù thực ra cô
không hề có ý muốn mua vé. Suy cho cùng lúc này cô chỉ còn lại 35 đôla. Nhưng
Fenston không thể biết điều đó. Cô kiểm tra bảng báo giờ bay. Có 90 phút giữa
hai chuyến bay. Anna chầm chậm đi về phía cửa 91B, và cố gắng để sao cho bất kỳ
ai đang bám theo cô sẽ không thể mất dấu cô. Cô ghé vào tất cả các cửa hàng
trên lối đi tới cửa khởi hành và tới đó vừa khi mọi người bắt đầu lên máy bay.
Cô cẩn thận chọn một chỗ ngồi ở phòng đợi, cạnh một cậu bé. “Những hành khách
từ hàng ghế…”, cậu bé kêu toáng lên và bỏ chạy, và bà mẹ cậu ta vội đuổi theo.
Jack chỉ sao nhãng trong một
tích tắc, và cô đã biến mất. Cô đã lên máy bay hay đã quay trở lại? Có lẽ cô đã
biết rằng có tới hai người đang bám theo mình. Jack nhìn khắp lượt đại sảnh bên
dưới anh. Họ đang đón các hành khách hạng thương gia lên máy bay, và chẳng thấy
tăm hơi cô đâu. Anh điểm mặt những hành khách còn lại đang ngồi trong sảnh, và
chắc chắn anh đã không thể nhận ra người phụ nữ kia nếu cô không sờ lên mái tóc
mình. Không còn là một mái tóc vàng cắt ngắn nữa, mà là một mái tóc giả màu
đen. Cô trông cũng có vẻ bối rối.
Krantz lưỡng lự khi loa thông
báo mời các hành khách hạng nhất lên máy bay. Cô ta bước về phòng vệ sinh dành
cho phụ nữ, ngay sau chỗ Anna vừa ngồi. Một lát sau, cô ta trở lại chỗ ngồi.
Khi họ thông báo lần cuối để mời tất cả các hành khách còn lại lên máy bay, cô
ta là người cuối cùng chìa vé ra.
Jack nhìn theo khi cô ta
khuất dần trong lối lên máy bay. Làm sao cô ta có thể biết chắc rằng Anna sẽ
bay đi London? Phải chăng anh đã bị cả hai người bọn họ bỏ rơi một lần nữa?
Jack đợi cho đến khi cánh cửa
đã đóng lại, và cảm thấy buồn bực trước ý nghĩ rằng cả hai người phụ nữ kia
đang sắp bay đi London. Nhưng anh vẫn băn khoăn: có một cái gì đó khác lạ ở
Anna kể từ khi cô rời khách sạn; có vẻ như cô muốn tạo điều kiện dễ dàng cho
những ai muốn theo dõi mình.
Jack đợi cho đến khi nhân
viên cuối cùng của hãng Hàng không Anh quốc rời đi. Anh vừa chuẩn bị đi xuống
tầng trệt để mua vé chuyến bay tiếp theo tới London thì cánh cửa phòng vệ sinh
nam mở ra.
Anna bước ra ngoài.
“Cho tôi nói chuyện với ông
Nakamura”.
“Xin phép hỏi tên ngài là gì?”.
“Bryce Fenston, chủ tịch công
ty Fenston Finance”.
“Tôi sẽ kiểm tra xem ngài
Nakamura có thể nghe máy không, thưa ông Fenston”.
“Ông ấy phải nghe máy”,
Fenston nói.
Tín hiệu đường dây yên lặng.
Một lát sau, một giọng nói cất lên, “Xin chào, ông Fenston, tôi là Takashi
Nakamura, tôi có thể giúp được gì cho ông?”.
“Tôi gọi điện để cảnh báo cho
ông biết”.
“Cảnh báo ư?”, Nakamura hỏi.
“Tôi được biết là Petrescu
đang tìm cách bán cho ông một bức Van Gogh”.
“Đúng vậy”, Nakamura nói.
“Và cô ta đòi bao nhiêu?”,
Fenston hỏi.
“Tôi nghĩ, theo cách nói của
người Mỹ, một tay và một chân”.
“Nếu ông ngu ngốc đến mức
đồng ý mua bức tranh đó, ông Nakamura ạ, đó sẽ là tay và chân của ông đấy”,
Fenston nói, “vì bức tranh ấy là của tôi”.
“Tôi không nghĩ nó là của
ông. Tôi nghĩ”…
“Vậy thì ông đã nghĩ sai. Có
lẽ ông cũng không biết rằng Petrescu không làm việc cho ngân hàng này nữa”.
“Tiến sỹ Petrescu đã giải
thích rất rõ điều đó, thực tế là…”
“Và cô ta có nói với ông rằng
mình đã bị đuổi việc không?”.
“Có, cô ta đã nói”.
“Nhưng cô ta có nói rõ nguyên nhân không?”.
“Từng chi tiết”.
“Và ông vẫn cảm thấy có thể làm ăn với cô ta à?”.
“Đúng thế. Thực tế là tôi đang thuyết phục cô ấy tham gia vào ban giám đốc
của tôi, với tư cách là giám đốc quỹ của công ty”.
“Bất chấp thực tế là tôi đã sa thải cô ta vì những hành vi không xứng đáng
với tư cách cán bộ của một ngân hàng?”.
“Không phải là một ngân hàng, mà là ngân hàng của ông”.
“Đừng chơi chữ với tôi”, Fenston nói.
“Thế đấy”, Nakamura nói, “vậy thì để tôi nói rõ hơn nhé, nếu Tiến sỹ
Petrescu về làm cho công ty này, cô ấy sẽ nhanh chóng thấy rằng chúng tôi không
chấp nhận chính sách lừa đảo khách hàng để chiếm đoạt gia sản của họ, đặc biệt
khi đó là những quý bà cao tuổi”.
“Vậy ông nghĩ gì về những thành viên ban giám đốc dám ăn cắp những tài sản
trị giá hàng trăm triệu đôla của công ty?”.
“Tôi thấy vui khi ông đánh giá bức tranh cao như thế, bởi vì chủ nhân của
nó…”
“Tôi là chủ nhân của nó”, Fenston hét lên, “theo luật pháp bang New York”.
“Một thứ luật pháp không có giá trị ở Tokyo”.
“Nhưng không phải là công ty của ông cũng có các văn phòng ở New York hay
sao?”.
“Cuối cùng thì chúng ta cũng đã tìm được một điểm để nhất trí với nhau”,
Nakamura nói.
“Vậy thì chẳng có lý do gì tôi không cho ông xem một trát toà ở New York,
nếu ông ngu ngốc đến mức cố mua bức tranh của tôi”.
“Và trát toà ấy sẽ triệu ai?”, Nakamura hỏi.
“Ông muốn nói gì?”, Fenston hét lên trong ống nghe.
“À, tức là các luật sư của tôi sẽ phải tìm hiểu xem họ đang đối mặt với ai.
Đó sẽ là Bryce Fenston, chủ tịch công ty Fenston Finance, hay sẽ là Nicu
Munteanu, kẻ rửa tiền cho Ceausescu, nhà độc tài quá cố của Romania?”
“Đừng doạ tôi, Nakamura, nếu không tôi sẽ…”
“Bẻ gãy cổ tài xế của tôi?”
“Lần sau sẽ không phải là tài xế của ông nữa đâu”.
Yên lặng một lúc, rồi Nakamura nói: “Vậy thì có thể tôi nên xem lại có nhất
thiết phải trả cái giá cao như thế cho bức Van Gogh không”.
“Một quyết định đúng đắn đấy”, Fenston nói.
“Cảm ơn, ông Fenston. Ông đã thuyết phục tôi tin rằng suy cho cùng thì kế
hoạch ban đầu của tôi chưa hẳn là những gì hay nhất”.
“Tôi biết cuối cùng ông cũng sẽ tỉnh ra”, Fenston nói và dập máy điện
thoại.
Khi Anna lên chuyến bay tới Bucharest một giờ sau đó, cô tin rằng mình đã
rũ bỏ được người của Fenston. Sau cú điện
thoại của cô cho Tina, bọn họ sẽ tin rằng cô đang trên đường tới London để lấy
bức tranh, nơi nó vẫn được cất ở chỗ cũ. Đó là một đầu mối mà chắc chắn Fenston
và Leapman sẽ không tranh cãi.
Có lẽ cô đã quá cầu kỳ khi bỏ
ra nhiều thời gian như vậy tại bàn của hãng Hàng không Anh quốc, rồi sau đó lại
đi tới cửa 91B trong khi cô không hề mua vé. Cậu bé kia hoá ra là một phần
thưởng dành cho cô, nhưng chính cô cũng ngạc nhiên vì sự ầm ĩ mà cậu ta gây ra
khi cô tóm được cậu ta.
Mối lo lắng duy nhất của cô
chính là Tina. Vào giờ này ngày mai, Fenston và Leapman chắc chắn sẽ phát hiện
ra rằng cô đã lừa bọn họ, và biết rằng cô đã phát hiện ra việc bọn họ nghe trộm
các cuộc nói chuyện của cô với Tina. Anna sợ rằng mất việc chỉ là chuyện nhỏ nhất
trong những gì sẽ xảy đến với Tina.
Khi máy bay cất cánh rời khỏi
đất nước Nhật Bản, đầu óc của Anna lại hướng tới Anton. Cô hy vọng khoảng thời
gian ba ngày không phải là quá dài.
Gã sát thủ của Fenston đuổi
theo cô dọc theo một con đường rợp bóng cây. Ở cuối con đường là một bức tường
đá cao với những hàng rào dây thép gai. Anna biết cô không còn lối thoát. Cô
quay lại để đương đầu với kẻ thù của mình, lúc này đã dừng lại và đứng cách cô
chỉ vài bộ. Gã người lùn xấu xí rút khẩu súng lục ra khỏi bao, mở khoá an toàn,
cười nhăn nhở và chĩa thẳng họng súng vào ngực cô. Cô quay đi và cảm thấy viên
đạn đang xuyên qua vai mình… “Bà nên chỉnh đồng hồ, lúc này ở Bucharest là 3
giờ 20 phút chiều”.
Cô giật mình tỉnh dậy. “Hôm
nay là ngày bao nhiêu?”, Anna hỏi cô chiêu đãi viên hàng không.
“Thứ Ba, ngày 20, thưa bà”.
20/9
Chương 37
Anna dụi mắt và chỉnh lại
đồng hồ. Cô đã giữ đúng hẹn với Anton là sẽ trở về trong vòng bốn ngày. Bây giờ
vấn đề lớn nhất của cô là đưa bức tranh tới London, đồng thời … “Kính thưa các
quý ông và các quý bà, trưởng phi hành đoàn đã bật tín hiệu báo thắt dây an
toàn. Chúng ta sẽ hạ cánh xuống Bucharest trong vòng hai mươi phút nữa”.
Cô mỉm cười trước ý nghĩ rằng
vào giờ này, người của Fenston chắc đã hạ cánh xuống Hồng Kông, và chắc đang băn
khoăn không hiểu tại sao cô chưa xuất hiện ở khu bán hàng miễn phí hải quan.
Anh ta sẽ tiếp tục bay tới London, hay anh ta sẽ đánh liều chuyển sang một
chuyến bay đi Bucharest? Có lẽ anh ta sẽ hạ cánh xuống Bucharest vừa lúc cô lên
đường đi London.
Khi Anna bước ra ngoài, cô
vui mừng khi thấy Sergei đang đứng bên cạnh chiếc Mercedes màu vàng của ông ta
và đón cô bằng một nụ cười. Ông ta mở cửa sau cho cô. Vấn đề của Anna lúc này
là cô chỉ còn vừa đủ tiền để trả tiền tắc xi.
“Tới đâu?”, ông ta hỏi.
“Trước tiên, cháu muốn tới Học viện”, cô nói với ông ta.
Anna rất muốn chia sẻ với Sergei tất cả những gì mà cô vừa trải qua, nhưng
cô cảm thấy ông ta chưa đủ thân thiết với mình để cô có thể làm điều đó. Không
tin tưởng mọi người là một kinh nghiệm mà cô chẳng thấy dễ chịu chút nào.
Sergei đỗ xe lại dưới chân bậc thềm, nơi cô đã chia tay Anton trước khi ra sân
bay. Cô không cần phải yêu cầu anh đợi nữa. Cô sinh viên ở bàn tiếp tân nói với
Anna rằng bài giảng của Giáo sư Teodorescu về “Tác giả” vừa mới bắt đầu.
Anna lên thính đường trên tầng hai. Cô bước theo hai người sinh viên vào
trong và tìm một chỗ ngồi ở cuối hàng ghế số hai. Cô hy vọng sẽ có được vài
phút cách ly khỏi thế giới hiện thực. “Tác giả và nguồn gốc”, Anton bắt đầu, và
đưa tay vuốt tóc theo cái cách quen thuộc mà các sinh viên thường nhại lại sau
lưng anh, “là nguồn gốc của những bàn cãi và bất đồng giữa các học giả trong
giới nghệ thuật hơn bất kỳ đề tài nào khác. Tại sao? Bởi vì nó là một đề tài
mở, quyến rũ và không có hồi kết. Không nghi ngờ gì nữa, một vài phòng tranh
nổi tiếng nhất trên thế giới gần đây đã trưng bày những tác phẩm không phải do
những hoạ sỹ được ghi tên trên khung tranh vẽ nên. Tất nhiên là cũng có trường
hợp khi nhà hoạ sỹ vẽ những nét chính, chẳng hạn như với bứcĐồng trinhhay
bứcKi tô, rồi để cho người trợ giúp hoàn thành nốt tác phẩm. Vì
vậy, chúng ta cần phải xem một số bức tranh nào đó, cùng vẽ một đề tài, là do
một hoạ sỹ bậc thầy vẽ nên, hay một vài bức trong số đó là tác phẩm của những
sinh viên ngôi sao của hoạ sỹ ấy, mà vài trăm năm sau người ta tưởng lầm là
những tác phẩm của chính người hoạ sỹ bậc thầy ấy”. Anna mỉm cười khi nghe anh
dùng cụm từ “sinh viên ngôi sao”, và nhớ tới bức thư mà cô phải chuyển cho
Danuta Sekalska.
“Chúng ta hãy cùng xem xét một vài ví dụ”, Anton tiếp tục, “và thử xem các
bạn có thể phát hiện bàn tay của một người non nớt hơn hay không. Đầu tiên là
một bức tranh hiện đang được trưng bày ở bảo tàng Frick tại New York”. Một hình
chiếu được đưa lên màn hình phía sau Anton. “Rembrandt, tôi đã nghe các bạn
đồng thanh nói thế, nhưng dự án nghiên cứu Rembrandt, được thực hiện vào năm
1974, đã cho một câu trả lời khác. Người ta tin rằng có ít nhất là hai người đã
góp tay làm nên tác phẩmKỵ sỹ Ba Lan. Một người trong số đó có thể
là Rembrandt. Bảo tàng Metropolitan, chỉ cách bảo tàng Frick vài toà nhà ở phía
bên kia của đại lộ số Năm, đã không giấu nổi sự lo lắng khi cũng chính các nhà
học giả danh tiếng này khẳng định rằng hai bức chân dung của Gia đình
Beresteyn, được bảo tàng này mua vào năm 1929, không phải là tác phẩm của hoạ
sỹ bậc thầy người Hà Lan này”.
“Đừng mất ngủ thái quá vì những chuyện mà hai bảo tàng này gặp phải, bởi vì
trong số mười hai bức tranh mà người ta cho là của Rembrandt trong bộ sưu tập
Wallace của London, chỉ có bứcTitus, Con trai Hoạ sỹ,đã được
chứng minh là do chính hoạ sỹ này vẽ”. Anna bắt đầu quan tâm tới mức cô lấy
giấy bút ra ghi chép. “Hoạ sỹ thứ hai mà tôi muốn các bạn quan tâm là Goya, nhà
hoạ sỹ vĩ đại người Tây Ban Nha. Bảo tàng Prado ở Madrid đã mất ăn mất ngủ khi
Juan Jose Junquera, một chuyên gia hàng đầu về Goya, cho rằng “những bức tranh
đen”, trong đó có những hình ảnh đầy ám ảnh nhưSa tăng ăn thịt con,
không thể là tác phẩm của Goya, và ông chỉ ra rằng căn phòng mà các bức tranh
này được vẽ lên tường chỉ được hoàn thành sau khi nhà hoạ sỹ đã qua đời. Nhà
phê bình nghệ thuật xuất sắc người úc là Robert Hughes, trong cuốn sách của
mình về Goya, cho rằng đó là các tác phẩm của con trai nhà hoạ sỹ”.
“Và bây giờ tôi sẽ nói về các hoạ sỹ ấn tượng. Nhiều bức tranh của Manet,
Monet, Matisse và Van Gogh hiện đang được trưng bày tại các phòng tranh hàng
đầu trên thế giới chưa được các học giả xác nhận tính chân thực. Chẳng hạn
bứcHoa Hướng Dương, được nhà đấu giá Christie bán ra với cái giá
chưa đến 40 triệu đôla vào năm 1987, vẫn còn cần phải được Louis van Tilborgh
của bảo tàng Van Gogh công nhận tính xác thực”.
Khi Anton chuẩn bị đưa một hình ảnh khác lên màn chiếu, ánh mắt anh dừng
lại chỗ Anna đang ngồi. Cô mỉm cười, và anh chiếu lên màn ảnh một bức tranh của
Raphael thay vì một bức tranh của Van Gogh khiến các sinh viên cười khúc khích.
“Như các bạn thấy đấy, tôi cũng nhầm lẫn, không phân biệt được bức tranh nào là
của hoạ sỹ nào”. Tiếng cười biến thành tiếng vỗ tay. Rồi Anna ngạc nhiên khi
thấy anh quay mặt lại và nhìn thẳng vào chỗ cô. “Thành phố vĩ đại này”, anh nói
mà không nhìn vào những ghi chú của mình, “đã sinh ra một học giả bậc thầy cho
chính mình trong lĩnh vực này. Người đó hiện nay đang làm việc tại New York.
Thời chúng tôi còn là sinh viên, chúng tôi đã có những buổi thảo luận thâu đêm
về bức tranh đặc biệt này”. Bức tranh của Raphael lại xuất hiện trên màn hình.
“Sau các buổi học, chúng tôi thường gặp nhau tại điểm hẹn ưa thích”, anh lại
nhìn về phía Anna,“Koskies, nơi mà tôi biết nhiều bạn vẫn chọn làm
điểm hẹn. Chúng tôi thường gặp nhau vào lúc9 giờ, sau buổi học
tối”. Anh hướng sự chú ý lên bức tranh trên màn hình. “Đây là một bức chân dung
có tên gọi làMadonna mặc áo hồng, mới được Phòng tranh Quốc gia
London mua về gần đây. Các chuyên gia về Raphael không phải lúc nào cũng nhất
trí với nhau, nhưng nhiều người trong số họ lo ngại khi có quá nhiều những bức
tranh vẽ cùng một đề tài và được cho là của cùng một tác giả. Một số cho rằng
bức tranh này là tác phẩm của “trường phái Raphael”, hoặc “hậu Raphael”“. Anton
lại nhìn xuống thính đường: chiếc ghế cuối cùng ở hàng ghế thứ hai đã không còn
người ngồi.
Anna tới Koskies vài phút trước giờ hẹn. Chỉ có duy nhất một cô sinh viên trong thính đường nhận ra việc người
thầy trên bục giảng đã đi lạc đề một lúc để ám chỉ cho cô biết họ sẽ gặp nhau ở
đâu sau giờ học. Cô không thể không nhận ra cái nhìn đầy lo lắng trong đôi mắt
Anton, một cái nhìn chỉ có ở những ai đã sống sót qua một chế độ độc tài.
Anna nhìn quanh căn phòng. Cô
nhớ lại cái thời sinh viên của mình. Vẫn những chiếc bàn nhựa và ghế nhựa đó.
Không phải là một nơi gặp gỡ thích hợp của một giáo sư nghệ thuật và một nhà
buôn bán các tác phẩm nghệ thuật. Cô gọi hai ly rượu vang đỏ. Anna vẫn nhớ cái
thời khi đối với cô một buổi tối ở Koskies, nơi cô có thể thảo luận với bạn bè
về Constantin và U2, Tom Cruise và John Lennon, và mút kẹo bạc hà trên đường về
nhà để mẹ cô không phát hiện ra rằng cô đã hút thuốc và uống rượu, là một cái
gì đó rất quyến rũ. Cha cô luôn đồng loã với cô - ông sẽ nháy mắt và chỉ cho cô
biết mẹ cô đang ở trong phòng nào.
Anna nhớ lại cái lần đầu tiên
khi cô và Anton làm tình với nhau. Trời lạnh đến mức cả hai vẫn mặc áo khoác
trên mình, và khi xong chuyện ấy, Anna thậm chí còn băn khoăn không hiểu sau
này mình có muốn làm lại một lần nữa hay không. Dường như hồi ấy chưa có ai
giải thích với Anton rằng phụ nữ cần nhiều thời gian hơn để đạt cảm giác cực
khoái.
Anna nhìn lên khi có một
người đàn ông cao gầy bước về phía mình. Cô gần như không dám chắc rằng đó là
Anton. Người đàn ông ấy mặc một chiếc áo khoác nhà binh quá cỡ, với một chiếc
khăn len to xù quấn quanh cổ. Trên đầu anh ta là một chiếc mũ lông trùm lấy cả
hai tai. Một lối ăn mặc thích hợp với mùa đông New York, là ý nghĩ đầu tiên của
cô.
Anton ngồi xuống chiếc ghế
đối diện với cô và bỏ mũ ra, những vẫn giữ nguyên những gì khoác trên người.
Anh biết chiếc lò sưởi duy nhất hoạt động trong căn phòng này nằm ở góc phía
xa.
“Anh vẫn còn giữ được bức
tranh đấy chứ?”, Anna hỏi. Cô không thể chờ lâu hơn.
“Vẫn còn nguyên”, Anton nói. “Bức tranh ấy chưa phút nào rời khỏi phòng vẽ
của anh trong thời gian em đi xa, và thậm chí ngay cả những sinh viên vô tâm
nhất của anh cũng có thể thấy đó không phải là phong cách quen thuộc của anh”,
anh nói thêm trước khi nhấp một ngụm rượu. “Dù thú thật là anh sẽ rất vui nếu
rũ bỏ được cái kẻ cụt tai ấy. Anh không sợ đi tù, nhưng đúng là bốn ngày qua
anh mất ăn mất ngủ vì nó. Thậm chí vợ anh cũng bắt đầu nghi ngờ có cái gì đó
không ổn ở anh”.
“Em xin lỗi”, Anna nói khi Anton bắt đầu vê một điếu thuốc. “Nhẽ ra em
không nên đặt anh vào một hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, và điều tệ hơn là em lại
phải nhờ anh giúp một chuyện nữa”. Anton tỏ vẻ thông cảm, và chờ để xem thỉnh
cầu cuối cùng của cô là gì. “Anh nói là anh còn giấu 8.000 đôla của mẹ em ở nhà
anh”.
“Đúng thế, phần lớn người Romania thường giấu tiền dưới đệm, đề phòng có sự
thay đổi chính quyền vào lúc nửa đêm”, Anton nói rồi châm điếu thuốc.
“Em cần mượn một ít trong số đó”, Anna nói. “Em sẽ trả lại đầy đủ ngay khi
về tới New York”.
“Đó là tiền của em, Anna, em có thể lấy hết mà dùng”.
“Không, đó là tiền của mẹ em, nhưng đừng để cho bà biết đấy nhé, nếu không
bà lại lo là em đang gặp khó khăn về chuyện tiền nong và đang bắt đầu bán hết
đồ đạc”.
Anton không cười. “Nhưng đúng là em đang gặp khó khăn, phải không?”.
“Sẽ qua ngay, khi em lấy lại bức tranh”.
“Em có muốn anh giữ hộ nó cho em một ngày nữa không?”, anh vừa hỏi vừa nhấp
một ngụm rượu.
“Không, cảm ơn anh”, Anna nói, “nhưng điều đó chỉ có nghĩa là cả anh và em,
không ai có thể ngủ ngon. Em nghĩ đã đến lúc giải thoát cho anh khỏi bức tranh
ấy”.
Anna đứng lên mà không nói thêm lời nào. Cô không hề đụng đến ly rượu.
Anton uống cạn ly của mình, dụi tắt điếu thuốc lá và để lại vài đồng xu
trên mặt bàn. Anh đội mũ lên và bước theo Anna. Anna nhớ lại lần cuối cùng mà
cả hai người cùng nhau bước ra khỏi quán rượu này.
Anna nhìn dọc con phố trước khi nắm lấy tay Anton, lúc này đang thì thầm
vào tai Sergei.
“Em có thời gian để thăm mẹ không?” Anton hỏi khi Sergei đang mở cửa sau ra
cho Anna.
“Không, khi mà mỗi bước chân em đều đang bị theo dõi”.
“Anh có thấy ai đâu”, Anton nói.
“Anh không thể nhìn thấy”, Anna nói. “Anh chỉ có thể cảm thấy”. Cô dừng
lại. “Và em đã nhầm khi nghĩ rằng mình đã rũ bỏ được anh ta”.
“Cô nói đúng”, Sergei nói và cho xe chạy.
Không ai nói gì trên chặng đường ngắn tới nhà Anton. Khi Sergei cho xe dừng
lại, Anna nhảy ra ngoài rồi bước theo Anton vào nhà. Anh vội dẫn cô tới một căn
gác xép trên tầng thượng. Cho dù cô có thể nghe thấy tiếng Sibelius vọng lên từ
một căn phòng ở tầng dưới, rõ ràng Anton không muốn cô gặp vợ anh.
Anna bước vào một căn phòng toàn tranh. Đôi mắt cô ngay lập tức dừng lại
trên chân dung người cụt tai trong bức tranh của Van Gogh. Cô mỉm cười. Bức
tranh vẫn nằm trong chiếc khung quen thuộc, trong một chiếc thùng màu đỏ được
mở nắp.
“Không thể tốt hơn”, Anna nói. “Bây giờ tất cả những gì em cần làm là
chuyển nó đến tay người cần chuyển”.
Anton không bình luận gì, và khi Anna quay lại, cô thấy anh đang quỳ ở một
góc phòng để nhấc một tấm ván lên. Anh thò tay vào trong và lấy ra một chiếc
phong bì dày, rồi đút vào túi áo trong. Sau đó anh quay lại chỗ chiếc thùng đỏ,
đậy nắp lại và bắt đầu đóng chặt đinh vào chỗ cũ. Điều đó chỉ càng chứng tỏ
rằng anh muốn rũ bỏNgười cụt taicàng sớm càng tốt. Sau khi
đã đóng chặt chiếc đinh cuối cùng, không nói một lời, anh nâng chiếc thùng lên
và dẫn Anna ra khỏi phòng rồi đi xuống cầu thang.
Anna mở cửa trước để Anton bước ra phố. Cô cảm thấy mừng khi thấy Sergei
đang đứng chờ ở đuôi xe với cốp xe đã được mở sẵn. Anton đặt chiếc thùng màu đỏ
vào cốp xe rồi xoa hai tay vào nhau. Cứ chỉ đó thể hiện sự vui sướng của anh
khi được thoát khỏi bức tranh. Sergei dập mạnh nắp cốp rồi quay trở lại chỗ
ngồi của mình sau vô lăng.
Anton rút chiếc phong bì dày từ trong túi áo ra rồi đưa cho Anna.
“Cảm ơn anh”, cô nói, và đưa cho anh một chiếc phong bì khác, nhưng không
phải là thư gửi cho anh.
Anton nhìn tên người nhận trên phong bì, mỉm cười và nói, “Anh sẽ đưa tận
tay cô bé. Cho dù kế hoạch của em là gì”, anh nói thêm, “anh mong là em sẽ
thành công”.
Anh hôn vào cả hai bên má cô trước khi biến vào trong nhà.
“Tối nay cô sẽ ở đâu?”, Sergei hỏi khi cô ngồi lên chiếc ghế cạnh ông ta.
Anna nói với ông ta địa chỉ cần tới.