Ấn tượng sai lầm - Chương 27 - 28

Chương 27

Anna bước vào phòng đợi của
sân bay Otopeni, sân bay quốc tế của Bucharest. Cô đẩy một chiếc xe chất đầy
một thùng gỗ, một chiếc vali lớn và một chiếc laptop. Cô dừng lại khi trông
thấy một người đàn ông đang lao về phía mình.

Anna nhìn ông ta một cách ngờ
vực. Ông ta khoảng sáu mươi tuổi, tóc đã bắt đầu hói, nước da tươi tắn và mang
một bộ ria mép đen và dầy. Ông ta mặc một bộ complê có vẻ hơi chật, và điều đó
cho thấy trước kia hẳn là ông ta trông thon thả hơn. Ông ta dừng lại trước mặt
Anna.

“Tôi là Sergei”, ông ta nói
bằng tiếng mẹ đẻ. “Anton nói cho tôi biết cô đã gọi điện và yêu cầu được đón ở
sân bay. Ông ấy cũng đã đặt phòng cho cô tại một khách sạn nhỏ trong thành
phố”. Sergei cầm lấy chiếc xe đẩy của Anna và đẩy về phía chiếc tắc xi đang chờ
sẵn của mình. Ông ta mở cửa sau chiếc xe Mercedes màu vàng đã đi được ba trăm
nghìn dặm theo con số ghi trên đồng hồ và chờ cho đến khi Anna đã ngồi vào
trong xe ông ta mới cho hành lý vào cốp sau và ngồi vào sau vô lăng.

Anna nhìn qua cửa sổ xe và
quan sát sự thay đổi của thành phố – nó gần như đã hoàn toàn thay đổi, và giờ
đây đã trở thành một thủ đô đầy sức sống đang khẳng định vị thế của mình ở châu
Âu. Những toà nhà văn phòng hiện đại và trung tâm mua bán đã thế chỗ cho những
toà nhà xám xịt dưới chế độ Cộng sản mà mới chỉ một thập niên trước còn thống
trị nơi này.

Sergei dừng lại bên ngoài một
khách sạn nhỏ náu mình cuối một con phố nhỏ. Ông ta vác chiếc thùng màu đỏ ra
khỏi cốp xe trong khi Anna lấy hành lý và bước vào trong khách sạn.

“Việc đầu tiên tôi muốn làm
là đi thăm mẹ tôi”, Anna nói sau khi đã làm thủ tục đăng ký vào khách sạn.

Sergei nhìn đồng hồ. “Tôi sẽ
đón cô vào lúc 9 giờ. Như thế cô sẽ được chợp mắt vài tiếng”.

“Cảm ơn”, Anna nói.

Ông ta nhìn theo cho đến khi
cô bước vào trong thang máy cùng với chiếc thùng màu đỏ.

Jack đã nhận ra Anna khi anh
đang đứng xếp hàng để lên máy bay. Chỉ là kỹ năng quan sát cơ bản: lùi lại phía
sau, trong trường hợp người bị anh theo dõi lại đang ở phía sau anh. Vấn đề là
đừng để cho người bị theo dõi nhận ra rằng anh đang bám theo họ. Phải hành động
một cách tự nhiên, đừng bao giờ ngoái nhìn lại. Không phải là chuyện dễ.

Thầy giáo của anh tại
Quantico tối nào cũng bắt anh phải luyện kỹ năng theo dõi sau khi tan lớp.
Nhiệm vụ của anh là phải bám theo một lính mới trên đường về nhà. Nếu anh mất
dấu anh ta, anh sẽ bị phạt. Jack đã một lần bị mất dấu anh ta và để bù lại, anh
đã bám theo chính thầy giáo của mình trên đường về nhà mà không bị phát hiện.

Jack bước lên bậc cầu thang
máy bay. Anh không ngoảnh nhìn lại.

Khi Anna bước ra khỏi khách
sạn lúc vừa hơn chín giờ, cô thấy Sergei đang đứng bên cạnh chiếc xe Mercedes
cũ của ông ta.

“Chào ông Sergei”, Anna nói
khi ông ta mở cửa sau xe cho cô.

“Chào cô. Cô vẫn muốn đi thăm
mẹ mình chứ?”

“Có chứ”, Anna nói. “Mẹ tôi
sống ở -”

Sergei xua tay để thể hiện
rằng ông ta đã biết cần phải đưa cô tới đâu.

Anna mỉm cười hài lòng khi
ông ta đánh xe qua trung tâm thành phố, ngang qua một đài phun nước khổng lồ.
Nhưng khi xe ra đến ngoại ô thành phố bức tranh ngay lập tức chuyển sang màu
đen trắng. Khi xe đi đến khu Berceni, Anna nhận ra rằng chế độ mới vẫn còn phải
vượt qua một chặng đường dài nếu họ muốn thành công trong chương trình THỊNH
VƯỢNG CHO TẤT CẢ mà họ đã hứa hẹn với cử tri sau khi chế độ Ceausescu sụp đổ.
Anna nhận ra những hình ảnh quen thuộc của thời thơ ấu. Cô thấy người dân ở đây
trông có vẻ già hơn độ tuổi của họ. Chỉ có bọn trẻ đang chơi bóng đá trên đường
phố là dường như không nhận thấy sự xuống cấp quanh mình. Anna ngạc nhiên khi
thấy mẹ mình vẫn khăng khăng ở lại nơi này sau khi cha cô đã bị sát hại trong
cuộc nổi dậy. Đã bao lần cô cố thuyết phục bà sang Mỹ với họ, nhưng bà là một
người không thể lay chuyển.

Vào năm 1987, Anna được một
người bác mà cô chưa từng gặp mời tới Illinois. Ông bác thậm chí còn gửi cho cô
hai trăm đôla để thêm tiền lộ phí cho cô. Cha cô đã yêu cầu cô lên đường và lên
đường ngay, nhưng chính mẹ cô là người đã tiên đoán rằng cô sẽ không bao giờ
quay trở lại. Cô mua một chiếc vé một chiều, và ông bác của cô đã hứa sẽ trả
tiền cho chuyến trở về của cô bất kỳ khi nào cô muốn trở lại Bucharest.

Lúc đó Anna mới mười bảy tuổi
và cô đã phải lòng nước Mỹ thậm chí từ trước khi tàu cập bến. Vài tuần sau đó
Ceausescu bắt đầu đàn áp những ai dám chống lại chế độ độc tài tàn bạo của ông
ta. Cha cô đã viết thư để cảnh báo Anna rằng cô không nên trở về nước vì tình
hình rất nguy hiểm.

Đó là bức thư cuối cùng của
ông. Ba tuần sau đó, ông tham gia vào cuộc nổi dậy và từ đó chẳng ai gặp lại
ông nữa.

Anna rất nhớ mẹ và liên tục
giục bà sang Mỹ. Nhưng câu trả lời của bà không bao giờ thay đổi. “Đây là quê
hương, nơi mẹ đã sinh ra và cũng là nơi mẹ sẽ nằm xuống. Mẹ đã quá già để có
thể bắt đầu một cuộc đời mới”. Quá già ư? Mẹ mới năm mươi mốt tuổi, nhưng đó là
năm mươi mốt năm đã làm nên sự cứng đầu kiểu Romania, vì vậy Anna buộc phải
chấp nhận thực tế là không ai có thể lay chuyển nổi mẹ mình. Một tháng sau đó,
bác George của cô xin cho Anna vào học tại một trường ở địa phương. Trong khi
sự bất ổn xã hội ở Romania vẫn tiếp diễn, Anna tốt nghiệp đại học và sau đó
kiếm được học bổng làm nghiên cứu sinh tiến sỹ tại đại học Penn, trong một lĩnh
vực không có rào cản ngôn ngữ.

Tiến sỹ Petrescu vẫn đều đặn
hàng tháng viết thư cho mẹ, dù cô biết phần lớn thư từ của cô không đến được
tay bà, vì những bức thư hiếm hoi của bà mà cô nhận được bao giờ cũng chứa đựng
những câu hỏi mà cô đã trả lời.

Quyết định đầu tiên mà cô đưa
ra sau khi tốt nghiệp đại học và đầu quân cho hãng Sotheby là mở một tài khoản
riêng cho mẹ mình ở Bucharest và cứ đến ngày mồng một hàng tháng cô lại chuyển
vào tài khoản đó 400 đôla. Cho dù cô muốn…

“Tôi sẽ chờ cô”, Sergei nói
khi chiếc tắc xi đỗ lại bên ngoài một toà nhà chung cư đổ nát tại khu Piazza
Resitei.

“Cảm ơn”, Anna nói rồi ngước
nhìn toà nhà có từ thời trước chiến tranh nơi cô đã sinh ra và cũng là nơi mẹ
cô hiện giờ đang sinh sống. Anna băn khoăn không hiểu mẹ tiêu tiền vào những
việc gì. Cô bước đi trên lối đi phủ đầy cỏ dại mà ngày xưa cô đã từng cho là
rất rộng vì cô không thể nhảy qua.

Bọn trẻ đang chơi bóng đá
trên đường tò mò nhìn người phụ nữ lạ mặc quần bò mài, áo khoác mỏng, đi một đôi
giày thể thao sành điệu đang bước đi trên con đường đầy ổ gà. Thang máy phớt lờ
việc cô bấm nút – chẳng có gì thay đổi – và đó là lý do tại sao, Anna nhớ lại,
những căn phòng đắt giá nhất bao giờ cũng ở những tầng dưới. Cô không hiểu tại
sao mẹ cô không chịu chuyển đi nơi khác. Số tiền mà cô gửi thừa đủ để bà có thể
thuê một căn hộ sang trọng tại một khu vực khác trong thành phố. Anna cảm thấy
như mình có tội và cảm giác ấy gia tăng theo mỗi bậc cầu thang mà cô bước lên.
Cô đã quên mất sự tồi tệ của cuộc sống nơi này, nhưng giống như những đứa trẻ
đang chơi dưới phố kia, cuộc sống ấy đã từng là một phần của đời cô.

Khi cuối cùng Anna tới được
tầng mười sáu, cô dừng lại để thở. Hèn gì mẹ cô chẳng mấy khi rời khỏi căn hộ.
Những tầng trên cao nữa là nơi sinh sống của các cụ già trên sáu mươi tuổi,
những con người cũng hiếm khi ra khỏi nhà giống như mẹ cô. Anna lưỡng lự một
chút rồi gõ lên chiếc cánh cửa chưa từng được sơn lại kể từ khi cô rời đi.

Cô chờ một lát trước khi một
bà già ốm yếu, tóc bạc trắng, mặc quần áo màu đen mở hé cánh cửa. Mẹ và con
nhìn nhau chằm chằm, cho đến khi Elsa Petrescu mở toang cánh cửa, vòng tay ôm
lấy cô con gái và kêu lên bằng một giọng già nua như chính vẻ ngoài của bà,
“Anna, Anna, Anna”. Cả hai mẹ con cùng oà khóc.

Bà già cứ bám chặt lấy tay
Anna trong khi cô đưa bà vào căn hộ nơi cô đã sinh ra. Mọi thứ đều sạch sẽ và
Anna vẫn có thể nhớ mọi thứ, bởi vì chẳng có gì thay đổi. Bộ bàn ghế mà bà nội
đã để lại cho họ, những bức ảnh đen trắng của gia đình, một chiếc thùng đựng
than không có than, một tấm thảm cũ mòn tới mức không ai biết ban đầu nó có màu
gì. Thứ đồ vật mới duy nhất trong căn phòng này là một bức tranh lớn treo trên
tường. Anna ngắm nhìn bức chân dung của cha mình và càng hiểu rõ hơn tình yêu
nghệ thuật của cô bắt đầu từ đâu.

“Anna, Anna, có quá nhiều
chuyện mẹ muốn hỏi con”, mẹ cô nói. “Mẹ nên bắt đầu từ đâu?” bà già vừa hỏi vừa
nắm chặt tay cô con gái.

Mặt trời đã sắp lặn mà Anna
vẫn chưa trả lời hết các câu hỏi của mẹ mình. Cô lại nài nỉ, “mẹ ơi sang Mỹ
sống với con đi”.

“Không”, mẹ cô trả lời một
cách cương quyết, “tất cả bạn bè và những kỷ niệm của mẹ đều ở đây. Mẹ đã quá
già để có thể bắt đầu một cuộc sống mới”.

“Thế tại sao mẹ không chuyển
tới một căn hộ khác? Con có thể tìm cho mẹ một phòng đẹp hơn ở một tầng thấp
hơn”

“Đây là nơi bố mẹ đã cưới
nhau”, mẹ cô nói nhỏ, “đây là nơi mẹ đã sinh ra con, là nơi mẹ đã sống suốt ba
mươi năm với bố con và cũng là nơi mẹ sẽ nằm xuống”. Bà già nhìn lên và mỉm
cười với con gái “ai sẽ chăm lo cho mồ mả của cha con?” bà hỏi như thể bà chưa
bao giờ hỏi câu hỏi đó. Bà nhìn vào mắt cô con gái. “Con biết là cha rất vui
khi thấy con được sống yên ổn ở Mỹ với bác con” - bà dừng lại - “và bây giờ mẹ
hiểu là cha con đã tính đúng”.

Anna nhìn quanh căn phòng.
“Thế tại sao mẹ không tiêu một ít tiền mà con vẫn gửi về cho mẹ hàng tháng?”

“Mẹ có tiêu đấy chứ”, mẹ cô
nói, “nhưng mẹ không tiêu cho mình”, bà thừa nhận, “bởi vì mẹ chẳng cần gì”.

“Thế thì mẹ tiêu vào việc
gì?” Anna hỏi.

“Anton”.

“Anton?”Anna hỏi lại.

“Đúng thế, Anton”, mẹ cô nói.
“Con biết là cậu ta đã được ra khỏi tù rồi chứ?”

“À vâng”, Anna nói, “Anh ấy
viết cho con ngay sau khi Ceausescu bị bắt và hỏi xem con có giữ một tấm ảnh
nào của cha không để cho anh ấy mượn”. Anna nhìn lên bức chân dung của cha mình
và mỉm cười.

“Giống như là người thật”, mẹ
cô nói.

“Đúng là giống thật”, Anna
nói.

“Họ đã trả lại cho Anton công
việc cũ của cậu ấy tại học viện. Cậu ấy bây giờ là giáo sư rồi đấy. Nếu con lấy
cậu ấy thì bây giờ con đã là vợ của một giáo sư rồi”.

“Anh ấy vẫn còn vẽ chứ ạ?” cô
hỏi để tránh câu hỏi tiếp theo của mẹ mình mà cô đã đoán biết trước.

“Vẫn vẽ”, mẹ cô đáp, “nhưng
công việc chính của cậu ấy bây giờ là dạy học ở trường Đại học Nghệ thuật. Ở
đất nước Romania này có ai sống được bằng nghề vẽ tranh đâu”, mẹ cô nói bằng
một giọng buồn bã. “Người tài như cậu ấy nhẽ ra cũng nên sang Mỹ mà sống”.

Anna lại nhìn lên bức chân
dung khổ lớn của cha mình do Anton vẽ. Mẹ cô nói đúng; với một tài năng như
thế, anh có thể gặt hái được nhiều thành công ở New York. “Nhưng anh ấy làm gì
với khoản tiền mẹ cho?” cô hỏi.

“Cậu ấy mua giấy, sơn, bút vẽ
và tất cả những thứ khác mà sinh viên của cậu ấy không đủ tiền mua và con thấy
đấy, khoản tiền con gửi đã được dùng đúng chỗ và đã giúp ích được cho rất nhiều
người”. Bà cụ dừng lại. “Anton là mối tình đầu của con, đúng không Anna?”

Anna không tin nổi là mẹ cô
vẫn còn có thể làm cho cô phải đỏ mặt. “Vâng ạ”, cô thú nhận, “và có lẽ con
cũng là mối tình đầu của anh ấy”.

“Bây giờ cậu ấy có vợ rồi và
đã có một cậu con trai tên là Peter”. Bà cụ lại dừng lại. “Con có người yêu
chưa?”

“Chưa mẹ ạ”.

“Có phải đó là lý do khiến
con trở về nước không? Hay con đang phải chạy trốn ai?”

“Điều gì khiến mẹ hỏi con như
thế?” Anna hỏi.

“Nhìn vào mắt con là mẹ biết,
vừa có vẻ buồn bã, vừa có vẻ sợ sệt”, bà cụ vừa nói vừa nhìn cô con gái, “cũng
như hồi còn bé, con đâu có dấu nổi mẹ điều gì”.

“Đúng là con có một vài
chuyện”, Anna thừa nhận, “nhưng chẳng có chuyện gì mà không thể giải quyết”. Cô
mỉm cười. “Thực tế thì con nghĩ là Anton có thể giúp con giải quyết một trong
những chuyện đó và có lẽ con sẽ tới học viện để tìm gặp anh ấy và mời anh ấy đi
uống nước. Mẹ có gì muốn nhắn cho anh ấy không?” Mẹ cô không trả lời. Bà cụ đã
ngủ thiếp đi. Anna đắp lại tấm chăn mỏng cho mẹ và hôn lên trán bà. “Con sẽ trở
lại vào sáng ngày mai”, cô thì thầm.

Cô nhẹ nhàng ra khỏi phòng.
Khi xuống đến chân chiếc cầu thang đầy rác bẩn, cô hài lòng khi thấy chiếc xe
Mercedes cũ màu vàng vẫn đang đỗ bên vệ đường.

Chương 28

Anna quay trở lại khách sạn,
rồi sau khi lau qua mình và thay quần áo, người tài xế tắc xi đưa cô tới Học
viện Nghệ thuật.

Toà nhà này vẫn không hề mất
đi vẻ tao nhã và quyến rũ của nó và khi Anna bước lên những bậc thềm về phía
những chiếc cánh cửa khổng lỗ được trạm trổ tinh xảo, những ký ức ập về đầy ắp
trong cô và cô nhớ tới những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại treo trong các phòng
trưng bày mà cô tưởng chẳng bao giờ còn được nhìn thấy. Anna bước tới quầy tiếp
tân để hỏi xem giáo sư Teodorescu sẽ giảng bài ở phòng nào.

“Ở hội trường tầng ba”, cô
gái ngồi sau quầy tiếp tân nói, “nhưng bài giảng đã bắt đầu rồi”.

Anna cảm ơn cô sinh viên và
không cần hỏi đường, cô bước lên những bậc cầu thang rộng bằng đá hoa cương lên
tầng ba. Cô dừng lại nhìn vào tờ thông báo dán bên ngoài hội trường:

ẢNH HƯỞNG CỦA PICASSO

ĐỐI VỚI NỀN NGHỆ THUẬT THẾ KỶ
HAI MƯƠI.

Giáo sư Anton Teodorescu

Bẩy giờ tối nay

Bên cạnh đó là một mũi tên
chỉ đường. Chẳng cần có mũi tên ấy cô cũng biết mình phải đi theo lối nào. Cô
đẩy nhẹ cánh cửa và hài lòng khi thấy bên trong rất tối. Cô bước lên những bậc
thềm sát bên tường và chọn một chỗ ngồi ở phía sau.

Trên màn chiếu là hình ảnh
bức tranhGurernica. Anton đang giải thích với các sinh viên rằng
bức tranh khổng lồ này được vẽ vào năm 1937 trong thời kỳ nội chiến ở Tây Ban
Nha, khi Picasso đang ở đỉnh cao phong độ. Anh nói tiếp rằng Picasso đã mất ba
tuần để phác hoạ lại hình ảnh những trận đánh bom và sự chết chóc này, và rõ
ràng thái độ căm ghét của nhà hoạ sỹ đối với Franco, kẻ độc tài của Tây Ban Nha
thời bấy giờ được thể hiện rõ trong tranh. Các sinh viên đang chăm chú lắng
nghe và ghi chép sự giảng bài say sưa và hấp dẫn của Anton khiến Anna nhớ lại
lý do mà ngày xưa cô đã phải lòng anh, để rồi không chỉ mất đi sự trinh trắng
của mình cho một nhà hoạ sỹ mà còn bắt đầu một cuộc tình không bao giờ phai đối
với nghệ thuật.

Khi buổi thuyết trình của
Anton kết thúc, tiếng vỗ tay không ngớt cho thấy các sinh viên rất hứng thú với
bài giảng của anh. Vẫn như ngày nào, anh luôn biết cách khuyến khích mọi người
nuôi dưỡng lòng nhiệt tình đối với đề tài mà mình đã chọn.

Anna ngắm nhìn mối tình đầu
của mình trong khi Anton nhặt các tài liệu và cho vào chiếc cặp cũ của mình.
Cao lớn, gầy gò, tóc xoăn, áo khoác nhung cũ sờn và sơ mi hở cổ khiến anh trông
giống như một chàng sinh viên chẳng bao giờ già. Cô nhận thấy anh có béo hơn
một chút nhưng trông lại càng quyến rũ hơn.

Khi những sinh viên cuối cùng
đã ra khỏi lớp. Anna đi lên phía bục giảng.

Anton liếc nhìn lên sau cặp
kính, với dáng vẻ như anh đang chờ để đón nhận một câu hỏi từ một cô cậu sinh
viên nào đó. Khi thấy người đó là Anna, anh không nói gì, chỉ nhìn cô chằm
chằm.

“Anna”, cuối cùng anh reo
lên. “Ơn Chúa là anh đã không nhận ra em đang ngồi ở dưới kia vì chắc chắn là
em biết về Picasso nhiều hơn anh”.

Anna hôn lên hai bên má Anton
và vừa cười vừa nói, “Anh vẫn quyến rũ như ngày nào và tán vẫn rất hay”.

Anton nắm tay lại như thể
đang phòng thủ và nhe răng ra cười. “Sergei có tới sân bay đón em không?”

“Có ạ, cảm ơn anh”, Anna nói.
“Anh gặp ông ấy ở đâu?”

“Trong tù”, Anton nói. “Ông
ấy đã may mắn không bị chế độ Ceausescu thủ tiêu. Và em đã đi thăm mẹ chưa?”

“Rồi ạ”, Anna đáp, “và mẹ em
vẫn sống trong những điều kiện chẳng khác nhà tù là mấy”.

“Đúng thế đấy và anh cũng đã
thử hết cách rồi. Nhưng tiền của em và sự hảo tâm của bà cụ đã giúp những sinh
viên giỏi của anh -”

“Em biết”, Anna nói, “mẹ đã
nói với em”.

“Em không thể hình dung hết
đâu”, Anton nói tiếp. “Để anh dẫn em đi xem kết quả đầu tư của em nhé”.

Anton cầm tay Anna như thể họ
còn là sinh viên và dẫn cô tới chiếc hành lang dài ở tầng một, nơi mà các bức
tường được treo đầy những bức tranh đủ loại.

“Tranh của các sinh viên đoạt
giải thưởng của năm”, Anton nói và nắm chặt tay Anna như một người thầy đầy tự
hào về học trò của mình. “Và tiền mua những thứ cần thiết để vẽ các bức tranh
này đều là tiền em gửi. Thực tế là có cả một giải thưởng mang tên em đấy, giải
Petrescu”. Anh dừng lại. “Nếu có em đứng ra lựa chọn người đoạt giải thì không
chỉ vinh dự cho anh mà còn vinh dự cho tất cả những sinh viên nào được em trao
giải”.

“Mũi em sắp nổ rồi đây này”,
Anna vừa nói vừa mỉm cười, rồi cô bước về phía một dãy tranh dài. Cô chầm chậm
đi tới đi lui dọc theo hành lang, thi thoảng lại dừng lại để xem xét kỹ một bức
tranh nào đó. Rõ ràng Anton đã dạy cho sinh viên của mình biết về tầm quan
trọng của việc vẽ tranh bằng các chất liệu đơn giản trước khi cho phép họ sử
dụng các phương tiện khác.Đừng sờ vào bút lông trước khi sử dụng thành
thạo bút chì
là câu anh thường nói. Nhưng những đề tài đa dạng và các
cách tiếp cận táo bạo cho thấy anh luôn khuyến khích sinh viên tự bộc lộ chính
bản thân mình. Nhiều bức tranh ở đây thể hiện một tài năng đáng nể. Cuối cùng
Anna dừng lại bên một bức sơn dầu có tựa đềTự do, vẽ cảnh mặt trời
đang mọc trên bầu trời Bucharest.

“Em biết có một người sẽ rất
thích bức tranh này”, cô nói.

“Em tinh lắm”, Anton vừa nói
vừa mỉm cười. “Danuta Sekalska là sinh viên xuất sắc nhất của năm học này, và
cô bé đã được trường Stale ở London nhận vào học. Vấn đề bây giờ là lấy đâu ra
tiền”. Anh nhìn đồng hồ. “Em có thời gian không, chúng mình đi uống chút gì
nhé?”

“Vâng”, Anna đáp, “vì thú
thật là em cũng muốn nhờ anh giúp một việc”, cô dừng lại, “chính xác là hai
việc”.

Anton lại nắm tay Anna và đưa
cô đi dọc hành lang tới căng tin của học viện. Khi họ bước vào căn phòng lớn,
Anna được đón tiếp bằng những tiếng cười đùa vui vẻ của từng nhóm giảng viên
đang vừa tán chuyện vừa uống cà phê. Họ dường như không nhận thấy rằng mọi thứ
đồ đạc, từ bàn ghế, cốc chén, thậm chí cả bánh quy ở đây đều sẽ bị bất kỳ ai
tìm đến Đội quân Cứu tế ở Bronx từ chối.

Anton rót hai cốc cà phê. “Đen, nếu anh nhớ không nhầm. Không được như
Starbucks”, anh nói đùa, “nhưng cứ từ từ rồi chúng mình cũng sẽ tới đó”. Mọi
người ngoái đầu nhìn khi Anton dẫn cô học trò cũ của mình tới gần lò sưởi. Anh
ngồi đối diện với cô. “Nào, anh có thể giúp gì em, Anna?” anh hỏi. “Bởi vì rõ
ràng anh là người mắc nợ em”.

“Chuyện về mẹ em”, cô nói nhỏ. “Em cần anh giúp. Cụ không chịu tiêu đồng
nào cho bản thân. Thảm không, bàn ghế không, tivi không, điện thoại không”.

“Em nghĩ là anh không thử à?” Anton nói. “Thế theo em thì cái tính ngang
bướng của em từ đâu mà có? Anh thậm chí còn mời cụ đến sống với gia đình anh.
Không phải là cung điện, nhưng vẫn gấp hàng vạn lần cái căn hộ tồi tàn ấy”.
Anton uống một hơi cà phê. “Nhưng anh hứa là sẽ tiếp tục thử xem” - anh dừng
lại – “thử nài ép nữa xem sao”.

“Cảm ơn anh”, Anna nói rồi im lặng nhìn Anton châm thuốc. “Và em thấy là
mình đã thất bại trong việc thuyết phục anh bỏ thuốc lá”.

“Thì ở đây có phải là New
York đâu. Làm gì có những ánh đèn rực rỡ để anh quên được thuốc lá”, anh vừa
cười vừa nói. “Việc thứ hai là gì?”

“Anh sẽ phải suy nghĩ kỹ về
việc này”, Anna nói bằng một giọng đều đều.

Anton đặt cốc cà phê xuống,
rít một hơi thuốc và chăm chú lắng nghe Anna giải thích từng chi tiết.

“Em đã nói với mẹ chưa?”

“Chưa”, Anna thừa nhận. “Em
nghĩ có lẽ tốt nhất là không nên nói với mẹ lý do tại sao em lại về Bucharest”.

“Anh có bao nhiêu thời gian?”

“Ba, có thể là bốn. Tuỳ thuộc vào mức độ thành công của em”, Anna nói mà
không giải thích gì thêm.

“Còn nếu anh bị bắt thì sao?” Anton hỏi rồi lại rít một hơi thuốc.

“Thì anh lại quay trở lại nhà tù”, Anna thừa nhận.

“Còn em?”

“Bức tranh có thể được gửi sang New York để làm bằng chứng chống lại em.
Nếu anh cần thêm tiền để -”

“Không, anh vẫn đang còn cầm 8.000 đôla tiền của mẹ em, vì vậy -”

“Tám nghìn đôla?”

“Ở Romania, đôla tiêu lâu hết lắm”.

“Em có thể hối lộ anh không?”

“Hối lộ anh à?”

“Nếu anh nhận lời giúp em, em sẽ chu cấp tiền cho cô bé sinh viên của anh,
Danuta Sekalska, sang London học”.

Anton suy nghĩ một lát. “Và em sẽ trở lại sau ba ngày?” anh vừa hỏi vừa dụi
tắt mẩu thuốc lá.

“Cùng lắm là bốn ngày”, Anna nói.

“Vậy thì hy vọng anh sẽ không làm em thất vọng”.

“Vincent đây”.

“Cậu ở đâu?”

“Đi thăm mẹ mình”.

“Vậy thì đừng ở đó lâu”.

“Tại sao?”

“Kẻ truy đuổi đã biết cậu ở
đâu”.

“Vậy thì mình e là gã sẽ lại
vồ hụt mình”.

“Chưa chắc đã là đàn ông”.

“Điều gì khiến cậu nghĩ như
vậy?”

“Mình thấy Fenston nói chuyện
với một người phụ nữ mặc đồ đen trong chiếc xe của ông ta khi mình tham dự đám
tang của cậu”.

“Như thế không có nghĩa là-”

“Mình đồng ý, nhưng mình chưa
từng trông thấy cô ta bao giờ”.

“Có thể đó là một trong số
những bạn gái của Fenston”.

“Kiểu đàn bà như cô ta không
thể là bạn gái của bất kỳ ai”.

“Cô ta trông thế nào?”

“Cao năm bộ, tóc đen, dáng thể thao”.

“Chỗ mình sắp tới có rất nhiều người như thế”.

“Và cậu có đem theo bức tranh đi cùng không?”

“Không, mình đã để nó ở một chỗ không ai có thể nhìn thấy”.

Cuộc nói chuyện kết thúc ở đó.

Leapman ấn chiếc nút tắt. “Một chỗ
không ai có thể nhìn thấy”, ông ta nhắc lại.

“Có thể,không phải là sẽ?” Fenston nói. “Chắc chắn vẫn
còn đựng trong thùng”.

“Đúng thế, nhưng tiếp theo cô
ta sẽ đi đâu?”

“Tới một nơi có nhiều người
cao năm bộ, tóc đen”.

“Nhật Bản”, Leapman nói.

“Sao ông biết?” Fenston hỏi.

“Báo cáo của cô ta cũng đã
nói lên điều đó. Cô ta sẽ tìm cách bán bức tranh cho một người sẵn sàng mất cả
gia tài để có nó”.

“Nakamura”, Fenston nói.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3