Ấn tượng sai lầm - Chương 23 - 24
Chương 23
Anna lái xe ra khỏi Lâu đài
Wentworth, quay lên đường M25, và tìm kiếm biển chỉ đường tới sân bay Heathrow.
Lúc này đã gần hai giờ chiều, vì vậy cô không còn cơ hội gọi điện cho Tina nữa,
bởi vì chắc chắn Tina đang ngồi bên bàn làm việc của mình tại Phố Wall. Nhưng
cô thực sự cần phải thực hiện một cuộc gọi khác nếu cô muốn có cơ hội thành
công trong kế hoạch của mình.
Vừa lái xe qua làng
Wentworth, Anna vừa cố nhớ lại quán ăn mà Victoria đã từng đưa cô tới để ăn
tối. Rồi cô nhìn thấy một lá cờ của dòng họ Wentworth đang bay trong gió, ngang
thân cột cờ.
Anna đỗ xe ngay cạnh lối ra
vào quán ăn mang tên Wentworth Arms. Cô bước qua quầy tiếp tân và tiến thẳng
tới quầy bar.
“Cô có thể đổi cho tôi 5 đôla
được không?” cô hỏi cô gái phục vụ quầy. “Tôi cần thực hiện một cuộc gọi điện
thoại”.
“Tất nhiên, cưng”, cô ta trả
lời ngay, rồi mở ngăn kéo đựng tiền và đưa cho Anna hai đồng tiền xu mệnh giá
một bảng Anh. Đúng là đồ cướp ngày, Anna muốn nói với cô ta như vậy, nhưng cô
không có thời gian để cãi cọ.
“Điện thoại ở ngay sau nhà
ăn, phía bên phải”.
Anna quay số điện thoại mà cô
đã thuộc lòng trong đầu. Chỉ sau hai tiếng chuông và một giọng nói cất lên,
“Xin chào, Sotheby xin nghe”.
Anna cho một đồng xu vào khe,
và nói, “Làm ơn cho tôi nói chuyện với Mark Poltimore”.
“Cô chờ một chút, tôi sẽ nối
máy ngay”.
“Mark Poltimore xin nghe”.
“Mark, Anna đây, Anna
Petrescu”.
“Anna, một bất ngờ thật tuyệt
vời. Tất cả bọn tôi đều lo cho cô. Thế cô đã ở đâu vào hôm thứ Ba?”
“Amsterdam”, cô đáp.
“Cảm ơn Chúa vì điều đó”,
Mark nói. “Khủng khiếp quá. Còn Fenston?”
“Lúc đó không có mặt trong
toà nhà”, Anna nói, “và đó là lý do tại sao tôi lại gọi cho anh. Ông ấy muốn
biết quan điểm của anh về bức Van Gogh”.
“Về tính xác thực hay về giá
cả?” Mark hỏi. “Bởi vì nếu nói đến chuyện nguồn gốc của các bức tranh, tôi chỉ
là đàn em của cô”.
“Không có gì phải nói về
nguồn gốc của bức tranh này”, Anna nói, “nhưng tôi cần tham khảo thêm ý kiến
của anh về giá trị của nó”.
“Tôi có biết bức này không?”
“Chân dung người cụt tai”, Anna nói.
“Bức chân dung của Lâu đài
Wentworth à?” Mark hỏi lại. “Tôi đã biết gia đình này từ lâu và không nghĩ rằng
họ sẽ bán bức tranh đó”.
“Tôi đâu có nói là họ sẽ
bán”, Anna nói mà không giải thích gì thêm.
“Cô có thể đưa bức tranh tới
đây để tôi xem kỹ hơn được không?”
“Tôi rất muốn thế, nhưng tôi
không có phương tiện vận chuyển đủ độ an toàn. Tôi hy vọng anh có thể giúp cho
chuyện đó”.
“Bây giờ bức tranh ở đâu?”
Mark hỏi.
“Trong một nhà kho an toàn ở
Heathrow”.
“Thế thì tốt rồi”, Mark nói.
“Hàng ngày chúng tôi đều có một chuyến hàng gửi đi từ Heathrow. Chiều mai có
được không?”
“Hôm nay thì tốt hơn”, Anna
nói, “anh biết ông chủ của tôi rồi đấy”.
“Cứ giữ máy nhé, tôi cần phải
kiểm tra xem họ đã bay chưa”. Đường dây rơi vào yên lặng và Anna có thể nghe rõ
tiếng đập thình thịch của tim mình. Cô đút đồng xu còn lại vào khe. Mark đã
quay trở lại. “Cô may mắn nhé. Người phụ trách của chúng tôi sẽ nhận một vài
thứ cho hãng vào lúc khoảng 4 giờ chiều. Thế nào, có ổn không?”
“Tốt, nhưng anh có thể làm ơn
giúp tôi một chuyện nữa không? Nhờ anh yêu cầu họ gọi cho Ruth Parish của công
ty Art Locations, ngay trước khi xe tới?”
“Không có vấn đề gì. Và bao
lâu nữa chúng ta sẽ phải định giá bức tranh ấy?”
“Bốn mươi tám giờ nữa”.
“Cô sẽ chọn Sotheby nếu cô có
ý định bán bức tranh ấy chứ, Anna?”
“Tất nhiên”.
“Tôi nóng lòng muốn được thấy
bức tranh ấy quá rồi đấy”, Mark nói.
Anna gác ống nghe, và cảm
thấy kinh sợ khi thấy mình nói dối một cách dễ dàng như vậy. Cô bắt đầu nhận ra
rằng đối với Fenston, việc đánh lừa cô là một chuyện hết sức đơn giản.
Cô lái xe ra khỏi Wentworth
Arms, và hiểu rằng mọi chuyện bây giờ tuỳ thuộc vào việc lúc này Ruth Parish có
mặt ở văn phòng hay không. Khi ra đến đường lớn, Anna cho xe chạy trên làn tốc
độ thấp và vừa điều khiển xe vừa suy nghĩ về những tình huống xấu có thể xảy
ra. Liệu Ruth có biết về việc cô đã bị sa thải hay không? Biết đâu Fenston đã
nói với bà ta rằng cô đã chết? Liệu Ruth có chấp nhận tư cách của cô trong một
việc quan trọng như vậy? Anna biết mình chỉ có một cách duy nhất để tìm hiểu về
tất cả những chuyện này. Cô thậm chí còn định gọi điện cho Ruth, nhưng rồi cô
hiểu rằng bất kỳ sự cảnh báo trước nào đều giúp cho bà ta có thêm thời gian để
kiểm tra lại. Nếu muốn có cơ hội, cô phải làm cho Ruth không kịp trở tay.
Anna chìm sâu vào những suy
nghĩ của mình tới mức cô suýt đi qua lối rẽ vào sân bay Heathrow. Sau khi rời
khỏi đường M25, cô cho xe chạy qua các biển chỉ đường tới cổng số một, số hai,
số ba, số bốn và hướng thẳng tới khu nhà kho này ngay sát đường Southern
Perimeter.
Cô đánh xe vào khu vực đỗ xe
dành riêng cho khách ngay bên ngoài văn phòng của công ty Art Locations. Cô
ngồi trong xe một lúc để lấy lại bình tĩnh. Tại sao cô không bỏ mặc mọi chuyện
và chỉ việc đánh xe đi khỏi nơi này? Cô đâu có cần phải dính líu vào chuyện
này, đâu có cần phải mạo hiểm như vậy. Rồi cô nghĩ tới Victoria, và vai trò vô
tình của cô trong cái chết của người phụ nữ hiền lành ấy. “Xông lên đi, cô em”,
Anna nói to với chính mình. “Hoặc là họ chưa biết gì, hoặc là họ đã biết tất
cả, và cho dù họ đã được cảnh báo, cô em vẫn có thể thoát ra và leo lên xe chỉ
trong vòng hai phút”. Anna nhìn vào gương. Có nét gì khác thường khiến họ phát
hiện ra không? “Tiến lên”, cô lại tiếp tục khích lệ mình và cuối cùng cô mở cửa
xe ra. Cô hít một hơi thở thật sâu và bước qua đường nhựa về phía lối vào toà
nhà.
Cô đẩy cửa ra và bước tới chỗ
người nhân viên tiếp tân mà cô chưa từng gặp. Một sự khởi đầu không thuận lợi.
“Ruth có ở đây không?” Anna
hỏi một cách vui vẻ, như thể ngày nào cô cũng ghé qua văn phòng này.
“Không, bà ấy đang ăn trưa ở
Học viện Hoàng gia để thảo luận về cuộc triển lãm tranh Rembrandt sắp tới”.
Anna hết sức thất vọng.
“Nhưng có lẽ bà ấy sắp về”.
“Vậy thì tôi sẽ đợi”, Anna
nói và cố nở một nụ cười.
Cô ngồi xuống một chiếc ghế
trong phòng đợi, cầm lên một tờ báoNewsweekcũ có in hình Al Gore ở
trang bìa và giở qua các trang báo. Cô liên tục nhìn lên chiếc đồng hồ treo
tường trong quầy tiếp tân; kim đồng hồ chầm chậm quay: 3.10, 3.15, 3.20.
Cuối cùng, Ruth bước qua cửa
vào lúc 3.22 phút. “Có tin nhắn không?” bà hỏi cô nhân viên tiếp tân.
“Không”, cô gái đáp, “nhưng
có một người phụ nữ đang chờ bà”.
Anna nín thở khi Ruth tiến
lại chỗ cô.
“Anna”, bà reo lên. “Thật
tuyệt vời khi được gặp lại cô”. Vậy là đã vượt qua rào cản đầu tiên. “Tôi đang
băn khoăn không biết cô có còn theo đuổi công việc này sau thảm kịch ở New York
hay không”. Rào cản thứ hai đã được dỡ bỏ. “Đặc biệt là khi ông chủ của cô nói
với tôi rằng một ông Leapman nào đó sẽ đích thân tới lấy bức tranh”. Qua rào
cản thứ ba. Không ai nói với Ruth rằng Anna bị liệt vào danh sách mất tích và
có nhiều khả năng là đã chết.
“Trông cô có vẻ hơi mệt”,
Ruth nói. “Cô không sao chứ?”
“Tôi khoẻ mà”, Ann vừa nói
vừa loạng choạng bước qua rào cản thứ tư, nhưng ít nhất thì cô vẫn còn đứng
trên đôi chân của mình, cho dù còn đến sáu rào cản nữa mới tới đích thì cô vẫn
tiến lên.
“Cô ở đâu vào hôm thứ Ba ấy?”
Ruth hỏi bằng một giọng đầy quan tâm. “Chúng tôi sợ xảy ra tình huống xấu nhất.
Tôi thực sự muốn hỏi ông Fenston, nhưng cô biết đấy, chẳng ai có cơ hội hỏi han
ông ấy điều gì”.
“Đang giải quyết công việc
của công ty ở Amsterdam”, Anna đáp, “nhưng Karl Leapman gọi điện cho tôi tối
hôm qua và yêu cầu tôi bay qua đây để kiểm tra xem mọi thứ đã sẵn sàng chưa, để
khi ông ta hạ cánh thì chỉ việc đưa bức tranh lên máy bay”.
“Chúng tôi đã sẵn sàng hơn cả
mức mà ông ấy mong muốn”, Ruth nói, “nhưng tôi sẽ lấy xe đưa cô tới nhà kho và
cô sẽ được thấy tận mắt. Chờ một phút nhé. Tôi cần kiểm tra xem có ai gọi điện
không và báo cho thư ký biết tôi sắp đi đâu”.
Anna đi đi lại lại một cách
lo âu, băn khoăn không biết Ruth có gọi tới New York để kiểm tra câu chuyện của
cô không. Nhưng bà ta gọi để làm gì? Chưa bao giờ bà ta làm chuyện đó.
Vài phút sau, Ruth đã quay
trở lại. “Cái này vừa được chuyển tới bàn làm việc của tôi”, Ruth vừa nói vừa
đưa cho Anna một bức thư điện tử. Tim Anna như ngừng đập. “Khẳng định lại rằng
ông Leapman sẽ hạ cánh vào lúc khoảng 7 giờ tối nay. Ông ta muốn chúng ta đợi
trên đường băng, chuẩn bị sẵn sàng để chuyển bức tranh lên máy bay, vì ông ta
định sẽ cho máy bay đỗ lại trên đường băng chỉ khoảng một giờ”.
“Đúng là Leapman”, Anna nói.
“Vậy thì chúng ta nên đi ngay
bây giờ”, Ruth vừa nói vừa bước ra phía cửa.
Anna gật đầu, đi theo Ruth ra
khỏi toà nhà và nhảy lên ghế ngồi dành cho hành khách trên chiếc xe Range Rover
của Ruth.
“Khủng khiếp thật, chuyện xảy
ra với Phu nhân Victoria ấy”, Ruth vừa nói vừa đánh xe hướng về phía Nam của
cổng hàng hoá. “Báo chí đang làm ầm lên về một vụ giết người – kẻ sát nhân bí
hiểm, cắt cổ họng bằng dao làm bếp – nhưng cảnh sát vẫn chưa bắt được ai”.
Anna không nói gì, những từ
“cắt cổ” và “kẻ sát nhân bí hiểm” vang trong đầu cô. Phải chăng đó chính là lý
do khiến Arabella gọi cô là một phụ nữ dũng cảm?
Ruth cho xe dừng lại bên
ngoài một toà nhà bê tông không có nét gì đặc biệt. Trước kia Anna cũng đã từng
tới chỗ này vài lần. Cô nhìn đồng hồ: 3 giờ 40 phút chiều.
Ruth đưa cho người nhân viên
bảo vệ xem thẻ ra vào của mình. Anh ta ngay lập tức mở khoá chiếc cửa bằng thép
dầy. Anh ta đi theo hai người dọc theo hành lang dài màu xám bằng bê tông. Anna
có cảm giác như đang ở trong một boong ke. Người nhân viên bảo vệ dừng lại ở
chiếc cánh cửa thứ hai. Trên chiếc cánh cửa này có một bảng mã. Chờ cho đến khi
nhân viên bảo vệ đã lùi ra xa, Ruth bấm mật mã gồm sáu con số của mình lên bảng
mã. Bà kéo mạnh chiếc cánh cửa nặng nề và hai người bước vào một căn phòng bê
tông hình vuông. Một chiếc nhiệt kế trên tường cho biết nhiệt độ trong phòng là
20 độ C.
Bao quanh phòng là những giá
gỗ, trên đó xếp đầy những bức tranh sắp được chuyển tới khắp nơi trên thế giới,
tất cả đều được đóng gói trong những chiếc thùng màu đỏ đặc trưng của công ty
Art Locations. Ruth kiểm tra kho hàng của mình, trước khi bước qua căn phòng
tới một chiếc giá xếp đầy tranh. Bà gõ nhẹ lên chiếc thùng có ghi con số 47 ở
cả bốn góc.
Anna bước theo Ruth và cố câu
giờ. Cô cũng xem xét cả kho hàng, rồi xem đến thùng số 47, Vincent Van
Gogh,Chân dung người cụt tai, 24x18 insơ.
“Mọi thứ đều có vẻ ổn”, Anna
nói vừa khi người nhân viên bảo vệ xuất hiện ở cửa.
“Xin lỗi đã ngắt lời bà, thưa
bà Parish, nhưng có hai nhân viên của Sotheby đang chờ ở ngoài, nói rằng họ
được lệnh nhận bức Van Gogh để đem đi thẩm định”.
“Cô có biết gì về chuyện này
không?” Ruth quay sang hỏi Anna.
“Ồ, tất nhiên”, Anna nói,
không để lỡ một nhịp nào, “chủ tịch yêu cầu tôi đem bức Van Gogh đi định giá để
làm bảo hiểm trước khi đưa về New York. Họ chỉ cần bức tranh trong vòng một
giờ, và sau đó họ sẽ trả lại ngay”.
“Ông Leapman không đề cập gì
đến chuyện này”, Ruth nói. “Không thấy nói đến trong thư điện tử của ông ta”.
“Thành thật mà nói”, Anna
nói, “Leapman là một người hoàn toàn mù tịt, ông ta không phân biệt nổi một bức
Van Gogh với một bức Van Morrison”. Anna dừng lại. Thường thì cô chẳng bao giờ
làm liều, nhưng cô không thể để Ruth gọi điện cho Fenston để kiểm tra lại. “Nếu
bà còn nghi ngờ chuyện gì, tại sao không gọi điện cho Fenston để kiểm tra xem?”
cô nói. “Như thế mọi chuyện sẽ rõ ràng hơn”.
Anna chờ đợi một cách lo âu trong
khi Ruth cân nhắc đề nghị của cô.
“Làm thế để ông ta đập vỡ đầu
tôi à”, cuối cùng Ruth nói. “Không, cảm ơn, tôi nghĩ tôi sẽ nghe theo lời cô.
Nhưng cô phải ký vào lệnh xuất kho?”
“Tất nhiên”, Anna nói, “Cũng
chỉ là công việc bình thường của một nhân viên ngân hàng”. Cô hy vọng giọng
mình nghe vẫn bình thường.
“Và cô sẽ giải thích sự thay
đổi này với Leapman chứ?”
“Không cần thiết”, Anna nói,
“bức tranh sẽ được trả lại từ rất lâu trước khi Leapman hạ cánh”.
Ruth trông có vẻ yên tâm, bà
quay sang nói với người nhân viên bảo vệ, “Số 47”.
Cả hai người cùng đi theo anh
ta và theo dõi anh ta lấy chiếc thùng bọc giấy đỏ trên giá xuống rồi đưa ra
chiếc xe tải chống cướp của hãng Sotheby.
“Ký vào đây”, người tài xế
nói.
Anna bước lên và ký vào giấy
xuất kho.
“Khi nào thì anh sẽ đưa trả
lại bức tranh?” Ruth hỏi người lái xe.
“Tôi không biết gì về điều
đó”
“Tôi đã yêu cầu Mark
Poltimore gửi trả lại bức tranh trong vòng vài giờ”, Anna nói chen vào.
“Tốt nhất là bức tranh phải
được trả lại trước khi Leapman tới”, Ruth nói, “tôi không muốn có rắc rối với
ông ta”.
“Có lẽ bà sẽ yên tâm hơn nếu
tôi cùng đi với họ tới hãng Sotheby?” Anna hỏi một cách ngây thơ. “Như thế tôi
có thể giục họ làm nhanh hơn một chút”.
“Không quá phiền đến cô chứ?”
Ruth hỏi.
“Trong hoàn cảnh này, như thế
là tốt nhất”, Anna nói rồi trèo lên chiếc xe tải và ngồi giữa hai nhân viên bảo
vệ của Sotheby.
Ruth vẫy tay theo cho đến khi
chiếc xe tải khuất sau chiếc cổng và hoà vào dòng xe chạy về hướng trung tâm
London.
Chương 24
Chiếc máy bay Gulfstream V
của Fenston hạ cánh xuống sân bay Heathrow vào lúc 7.22, và Ruth đã đứng chờ
sẵn trên đường băng để đón chào khách hàng của mình. Bà đã làm việc kỹ lưỡng
với bên Hải quan và cung cấp cho họ đầy đủ mọi chi tiết liên quan để các giấy
tờ cần thiết sẽ được chuẩn bị xong ngay khi Anna trở về.
Trong suốt một giờ qua, Ruth
càng lúc càng hay nhìn về phía cổng. Bà sốt ruột mong cho chiếc xe tải kia mau
trở lại. Bà đã gọi cho hãng Sotheby, và được một cô gái làm trong phòng Ấn
tượng của họ cho biết là bức tranh đã được đưa về đó. Nhưng đã hơn hai tiếng
đồng hồ trôi qua. Có lẽ nhẽ ra bà nên gọi sang Mỹ để kiểm tra lại, nhưng tại
sao lại phải nghi ngờ một trong những khách hàng đáng tin cậy nhất của mình.
Ruth hướng sự chú ý của mình sang chiếc máy bay và quyết định chưa nói gì. Suy
cho cùng, Anna chắc chắn sẽ trở lại trong vòng vài phút nữa.
Chiếc cánh cửa trên thân máy
bay mở ra và những bậc cầu thang được hạ xuống. Cô chiêu đãi viên bước sang một
bên để nhường lối đi cho vị hành khách duy nhất của mình. Karl Leapman bước
xuống đường băng và bắt tay Ruth, trước khi cùng với bà bước lên một chiếc
limousine của sân bay để tới đại sảnh dành riêng cho chủ nhân của những chiếc
máy bay tư nhân cách đó không xa. Ông ta chẳng thèm giới thiệu về bản thân
mình, Ruth phải tự biết ông ta là ai.
“Có vấn đề gì không?” Leapman
hỏi.
“Chẳng có gì theo như tôi
biết”, Ruth trả lời một cách tự tin. Lúc đó chiếc limousine vừa đỗ lại bên
ngoài toà nhà điều hành. “Chúng tôi đã làm theo mọi chỉ thị trong thư của ông,
dù đã xảy ra cái chết thương tâm của Phu nhân Victoria”.
“Được”, Leapman vừa nói vừa
bước ra khỏi xe. “Công ty chúng tôi sẽ gửi một vòng hoa tới viếng bà ta” và
không dừng lại, ông ta nói thêm, “mọi thứ đều đã sẵn sàng để máy bay có thể cất
cánh bay trở về Mỹ trong vòng một giờ nữa?”
“Vâng”, Ruth nói. “Chúng tôi
sẽ đưa bức tranh lên máy bay khi phi công tiếp xong nhiên liệu – có lẽ không
đến một giờ. Sau đó ông có thể lên đường”.
“Rất tốt”, Leapman vừa nói
vừa đưa tay đẩy cánh cửa xoay. “Chúng tôi đã đặt giờ bay vào lúc 8:30 và tôi không
muốn bị muộn giờ”.
“Thế thì có lẽ tôi nên để ông
ngồi lại đây, còn tôi sẽ đi xem xét mọi chuyện”, Ruth nói, “nhưng tôi sẽ thông
báo cho ông biết ngay khi bức tranh được đưa lên máy bay một cách an toàn”.
Leapman gật đầu và lại ngồi
xuống chiếc ghế da to. Ruth quay mình bước đi.
“Ngài có uống gì không?”
người nhân viên quầy Bar hỏi.
“Rượu Scotch pha đá”, Leapman
nhìn lướt qua thực đơn rồi nói.
Khi ra đến cửa, Ruth quay đầu
lại nói, “Khi Anna quay trở lại, nhờ ông nói với cô ấy rằng tôi đang ở chỗ Hải
quan, chờ hoàn thiện thủ tục giấy tờ”.
“Anna?” Leapman la lên và
đứng bật dậy.
“Vâng, cô ấy đã đến đây từ
đầu giờ chiều”.
“Làm gì?” Leapman vừa hỏi vừa
lao lại chỗ Ruth.
“Chỉ là để kiểm tra lại bức
tranh, và để đảm bảo rằng chỉ thị của ông Fenston được thực hiện chính xác”,
Ruth nói và cố tỏ ra như không có chuyện gì quan trọng.
“Chỉ thị gì?” Leapman hét
lên.
“Đưa bức Van Gogh tới nhà đấu
giá Sotheby để định giá cho việc làm bảo hiểm”.
“Chủ tịch đâu có yêu cầu
thế”, Leapman nói.
“Nhưng Sotheby đã cho xe đến,
và Tiến sỹ Petrescu đã khẳng định việc này”.
“Petrescu đã bị sa thải từ ba
hôm trước. Liên lạc với Sotheby ngay”.
Ruth chạy vội tới chỗ để máy
điện thoại và quay số tổng.
“Cô ta giao dịch với ai ở
Sotheby?”
“Mark Poltimore”, Ruth vừa
nói vừa đưa ống nghe cho Leapman.
“Poltimore”, ông ta hét lên
ngay khi vừa nghe thấy lời chào trong máy, rồi nhận ra rằng mình đang nói
chuyện với một chiếc máy trả lời tự động. Ông ta dập mạnh chiếc ống nghe xuống.
“Bà có số máy nhà riêng của anh ta không?”
“Không”, Ruth nói, “nhưng tôi
có số máy di động của anh ta”.
“Vậy thì gọi đi”.
Ruth nhanh chóng tìm số điện
thoại trong máy của mình và lại quay số.
“Mark?” bà hỏi to.
Leapman giật lấy chiếc ống
nghe. “Poltimore?”
“Xin nghe”.
“Tôi là Leapman. Tôi là -”
“Tôi biết ông, ông Leapman ạ”, Mark nói.
“Tốt, bởi vì theo tôi biết thì anh đang giữ bức Van Gogh của chúng tôi”.
“Đã từng giữ, nói thế thì chính xác hơn”, Mark trả lời, “cho đến khi Tiến sỹ Petrescu,
giám đốc nghệ thuật của các ông, thông báo với chúng tôi rằng ông đã đổi ý và
yêu cầu đưa bức tranh trở lại phi trường Heathrow ngay lập tức để ông đưa nó
sang New York”.
“Và anh đã nghe theo?”
Leapman hỏi bằng một giọng cao dần theo mỗi từ thoát ra từ miệng ông ta.
“Chúng tôi không còn lựa chọn
nào khác, ông Leapman ạ. Suy cho cùng, cô ấy là người được uỷ thác”.