Ấn tượng sai lầm - Chương 16 - 17
12/9
Chương 16
Suốt đêm hôm đó, Anna chỉ
chợp mắt được vài phút. Cô suy nghĩ về tương lai của mình. Cô đi đến kết luận
rằng có lẽ cô sẽ trở về Danville để mở một phòng tranh trưng bày các tác phẩm
của những hoạ sỹ trong vùng, bởi vì chắc chắn Fenston sẽ kể cho tất cả các nhà
tuyển dụng tiềm năng về câu chuyện của cô theo cách mà ông ta muốn. Cô bắt đầu
cảm thấy rằng hy vọng sống sót duy nhất của cô là vạch mặt Fenston, và cô hiểu
rằng cô sẽ không thể làm được điều đó nếu không có được sự hợp tác toàn diện
của Victoria, và một phần trong sự hợp tác ấy là đốt bỏ toàn bộ các tài liệu
liên quan đến vụ giao dịch, kể cả bản báo cáo của cô.
Anna ngạc nhiên thấy mình vẫn
hoàn toàn mạnh khoẻ khi Tina gõ cửa phòng cô vào lúc 4 giờ sáng.
Cô đi tắm, rồi gội đầu và cảm
thấy gần như đã lấy lại hoàn toàn sức sống.
Bên bàn ăn sáng với cà phê và
bánh mỳ, Anna cùng Tina rà soát lại toàn bộ kế hoạch. Họ thống nhất với nhau
một số nguyên tắc mà cả hai phải tuân thủ trong lúc cô đi xa. Anna không còn
điện thoại di động và thẻ tín dụng, vì vậy cô thống nhất chỉ liên lạc với Tina
bằng số điện thoại nhà của Tina, và phải luôn gọi từ máy điện thoại công cộng -
không bao giờ gọi từ cùng một số máy. Anna sẽ xưng tên là “Vincent”, và không
được sử dụng bất kỳ một cái tên nào khác. Mỗi cú điện thoại không được kéo dài
quá một phút.
Anna rời căn nhà của Tina lúc
4:52. Cô mặc quần bò, áo phông, áo khoác mỏng và đội mũ lưỡi trai. Cô không
biết chắc điều gì đang đợi mình khi cô bước đi trên vỉa hè vào buổi sáng tinh
mơ đó. Trên phố chẳng có mấy người, và tất cả đều cúi đầu-ánh mắt nhìn xuống của
họ thể hiện thành phố này đang có tang. Không ai liếc nhìn Anna lần thứ hai khi
cô bước nhanh trên hè phố với một chiếc va li phía sau và một chiếc máy tính
đeo ở một bên vai. Dù nhìn theo hướng nào, cô vẫn trông thấy một đám mây khổng
lồ xám xịt phủ trên thành phố. Đám mây khói bụi dầy đặc kia đã tan, nhưng giống
như một căn bệnh, nó đã lây lan đến những vùng khác của cơ thể. Không hiểu sao
lúc mới thức dậy, Anna lại nghĩ là nó đã tan biến, nhưng giờ đây cô nhận ra
rằng nó sẽ còn ở đó rất lâu nữa.
Anna đi qua một hàng người
đang đứng xếp hàng để chờ được cho máu với hy vọng người ta sẽ tìm được thêm
những người còn sống sót. Cô là một người sống sót, nhưng lúc này cô không muốn
ai phát hiện ra điều đó.
Fenston ngồi bên bàn làm việc
của mình trong văn phòng mới của ông ta trên Phố Wall. Lúc này là 6 giờ sáng. Ở
London là 11 giờ. Cú điện thoại đầu tiên trong ngày của ông ta là gọi cho Ruth
Parish.
“Bức Van Gogh của tôi đâu?”
ông ta hỏi mà chẳng thèm chào hỏi cũng chẳng thèm xưng danh.
“Chào ông Fenston”, Ruth nói.
“Chắc ông cũng biết là mọi chuyến bay đều bị hoãn, và chiếc máy bay chở bức
tranh của ông đã phải quay trở lại sau khi đã bay được nửa đường. Vì thảm kịch
xảy ra hôm qua”.
“Thế bây giờ nó ở đâu?”
Fenston lại hỏi.
“Đã được cất an toàn tại một
trong những phòng được đảm bảo an ninh tuyệt đối ở khu vực phi hải quan. Tất
nhiên, chúng ta sẽ phải làm lại thủ tục khai báo hải quan và xin lại giấy phép
xuất khẩu. Nhưng chẳng cần phải bận tâm tới những chuyện đó trước khi -”
“Làm ngay hôm nay đi”,
Fenston nói.
“Sáng nay tôi có kế hoạch
chuyển bốn bức của Vermeers từ -”
“Vermeer cái cục c… Nhiệm vụ
đầu tiên của bà là đảm bảo rằng bức tranh của tôi đã được bọc gói cẩn thận và
sẵn sàng lên đường”.
“Nhưng công việc giấy tờ cũng
phải mất vài ngày”, Ruth nói. “Chắc ông cũng biết là hiện nay có rất nhiều đơn
hàng bị tồn đọng vì -”
“Vì cái chết tiệt”, Fenston
nói. “Ngay khi FAA dỡ bỏ lệnh cấm, tôi sẽ cho Karl Leapman tới nhận bức tranh
ngay”.
“Nhưng nhân viên của tôi cũng
đang phải làm suốt ngày đêm để giải quyết những chuyện phát sinh do...”
“Tôi cho bà biết nhé”,
Fenston nói. “Nếu bức tranh đã sẵn sàng khi máy bay của tôi hạ cánh xuống sân
bay Heathrow, tôi sẽ trả gấp ba tiền công cho bà”.
Fenston đặt ống nghe xuống,
và tin chắc rằng những từ duy nhất mà Ruth ghi nhớ là “gấp ba”. Ông ta đã lầm.
Ruth ngạc nhiên khi thấy ông ta không đề cập gì đến những cuộc tấn công vào toà
Tháp đôi, và cũng không nhắc gì đến Anna. Cô ấy có còn sống không? Và nếu cô ấy
còn sống thì tại sao người đi nhận bức tranh lại không phải là cô ấy?
Tina đã nghe lỏm được mọi chi
tiết của cuộc nói chuyện giữa Fenston với Ruth Parish từ máy nhánh trong văn
phòng của cô mà Fenston không hề hay biết. Tina ước chị có thể liên lạc với
Anna để báo tin cho Anna biết – một sự việc mà hai người không tính đến. Có lẽ
tối nay Anna sẽ gọi về cho chị.
Tina tắt nút chuyển đường dây
điện thoại, nhưng vẫn để nguyên màn hình camêra theo dõi trên góc bàn làm việc
của chị. Điều đó cho phép chị quan sát mọi thứ, và quan trọng hơn là có thể
biết những ai ra vào văn phòng chủ tịch. Fenston không hay biết gì về chuyện
này, bởi vì ông ta chẳng bao giờ hỏi. Ông ta cũng chẳng bao giờ thèm bước chân
vào phòng chị, một khi ông ta có thể triệu tập chị bằng cách ấn một chiếc nút.
Còn nếu Leapman bước vào phòng mà không gõ cửa, chị sẽ tắt màn hình ngay lập
tức.
Khi Leapman thuê trụ sở mới
trên tầng 32 của toà nhà này, ông ta không để ý gì đến phòng làm việc của thư
ký. Dường như mối quan tâm duy nhất của ông ta là làm thế nào để vị chủ tịch có
được một không gian rộng rãi nhất trong điều kiện cho phép, trong khi chính ông
ta thì chiếm một phòng ở cuối hành lang. Tina không nói gì với ông ta về những
thiết bị an ninh và điện tử đặc biệt trong phòng làm việc của chị. Chị hiểu
rằng đến một lúc nào đó sẽ có người phát hiện ra chuyện này, nhưng chị hy vọng
đến khi đó chị đã thu thập đủ thông tin cần thiết để khiến Fenston phải chịu
một số phận tồi tệ hơn cả những gì mà ông ta đã gây ra cho chị.
Sau khi đặt ống nghe xuống,
Fenston ấn một chiếc nút ở cạnh bàn làm việc của ông ta. Tina cầm bút chì, sổ
ghi chép và đi sang văn phòng chủ tịch.
“Việc đầu tiên tôi muốn cô
phải làm”, Fenston bắt đầu, trước cả khi Tina kịp khép cửa lại, “là tìm hiểu
xem tôi còn lại bao nhiêu nhân viên. Hãy thông báo với họ về địa điểm mới của
chúng ta, và yêu cầu họ đi làm ngay”.
“Tôi thấy trưởng ban an ninh
là người đầu tiên đã có mặt ở đây sáng nay”, Tina nói.
“Đúng, anh ta có tới”,
Fenston nói, “và anh ta khẳng định đã ngay lập tức yêu cầu tất cả các nhân viên
của công ty sơ tán sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào Tháp Bắc”.
“Và anh ta đã làm gương cho
mọi người”, Tina nói mỉa.
“Ai nói thế với cô?” Fenston
hỏi mà không thèm ngửng đầu lên.
Tina ngay lập tức hối hận vì
đã trót nói ra những lời đó. Chị nói, “Tới trưa tôi sẽ gửi danh sách cho ngài”,
và vội quay mình bước ra ngoài.
Suốt buổi sáng hôm ấy, chị
tìm cách liên lạc với bốn mươi ba nhân viên của Fenston Finance từng làm việc
trong Tháp Bắc. Đến 12 giờ trưa, chị liên lạc được với ba mươi tư người trong
số đó. Chị đặt danh sách chín người mất tích, có lẽ là đã chết, lên bàn của
Fenston trước khi đi ăn trưa.
Anna Petresculà cái tên thứ sáu trong danh sách đó.
Khi Tina đặt danh sách những
người mất tích lên bàn của Fenston cũng là lúc Anna tới được Cầu tàu 11 bằng
tắc xi, xe buýt, đôi chân, rồi lại tắc xi. Một hàng người dài đang kiên nhẫn
chờ phà đi New Jersey. Cô đứng vào cuối hàng, rồi đeo một cặp kính đen lên, và
kéo sụp mũ lưỡi trai xuống che gần kín mắt. Cô đứng khoanh tay trước ngực, cổ
áo khoác dựng lên, đầu cúi xuống, và như thế thì chỉ những ai không biết giữ ý
mới bắt chuyện với cô.
Cảnh sát kiểm trả thẻ căn
cước của tất cả những ai rời khỏi Manhattan. Cô nhìn theo khi một anh chàng tóc
đen, da ngăm đen bị lôi sang một bên. Anh ta có vẻ kinh ngạc khi thấy có tới ba
nhân viên cảnh sát vây quanh mình, một người hỏi, hai người lục soát.
Phải mất gần một giờ đồng hồ,
Anna mới tiến đến đầu hàng. Cô bỏ chiếc mũ lưỡi trai ra, để lộ mái tóc vàng và
làn do mịn màng của mình.
“Cô tới New Jersey vì việc
gì?” một viên cảnh sát hỏi khi kiểm tra thẻ căn cước của cô.
“Một người bạn của tôi làm
việc ở Tháp Bắc, và chị ấy vẫn còn mất tích”. Anna dừng lại. “Và tôi nghĩ tôi
nên tới thăm bố mẹ chị ấy”.
“Xin lỗi cô”, viên cảnh sát
nói. “Tôi hy vọng họ sẽ tìm thấy cô ấy”.
“Cảm ơn anh”, Anna nói rồi
nhanh chóng xách hành lý lên cầu thang xuống phà. Cô đã nói dối và cô xấu hổ vì
chuyện đó tới mức cô không dám nhìn lại phía sau. Cô đứng tựa vào lan can phà
và ngước nhìn đám mây xám xịt vẫn còn lơ lửng trên khu Trung tâm Thương mại Thế
giới và những toà nhà cạnh đó. Cô băn khoăn không hiểu phải mất bao nhiêu ngày,
bao nhiêu tuần thì đám mây ấy mới tan biến. Rồi họ sẽ làm gì với khu đất tan
hoang đó, và họ sẽ làm gì để tưởng nhớ những người đã thiệt mạng? Cô nhìn lên
bầu trời trong xanh trên đầu mình. Thiếu vắng một cái gì đó. Dù nơi đây chỉ
cách JFK và La Guardia vài dặm, trên trời không có bóng một máy bay nào, như
thể tất cả các máy bay trên trái đất này đều đã bất ngờ di tản đến một thế giới
khác mà không hề báo trước.
Động cơ nổ phành phạch, và
chiếc phà già nua chầm chậm rời khỏi cầu tàu bắt đầu hành trình vượt qua Hudson
để tới New Jersey.
Đồng hồ trên tháp cầu tàu
điểm một giờ. Nửa ngày đã trôi qua.
“Ít nhất phải vài ngày nữa
máy bay mới được phép cất cánh từ sân bay JFK”, Tina nói.
“Kể cả máy bay tư nhân à?”
Fenston hỏi.
“Không có ngoại lệ”, Tina
đáp.
“Hoàng gia Arập được phép rời
vào ngày mai”, Leapman, lúc này đang đứng bên cạch vị chủ tịch, nói xen vào,
“nhưng có vẻ đó là trường hợp ngoại lệ duy nhất”.
“Trong khi đó, tôi sẽ cố gắng
để ngài có tên trong danh sách mà báo giới gọi là ưu tiên”, Tina nói, mặc dù
chị biết rằng cơ quan cảng vụ sẽ không bao giờ xếp việc ông ta muốn đi lấy bức
Van Gogh vào danh sách những trường hợp khẩn cấp.
“Chúng ta có bạn ở JFK
không?” Fenston hỏi.
“Có vài người”, Leapman đáp,
“nhưng tất cả bọn họ đều thình lình có rất nhiều mối quan hệ với những nhân vật
cỡ bự”.
“Có cách nào khác không?”
Fenston vừa hỏi vừa nhìn cả hai người.
“Có lẽ ông nên lái xe đến
Mêhicô hoặc Canada”, Tina nói, “và đi máy bay hạng thương gia tới đó”. Chị thừa
biết rằng ông ta sẽ không bao giờ chọn cách đó.
Fenston lắc đầu và quay sang
nói với Leapman, “Hãy cố tìm lấy một người bạn, một ai đó đang cần một thứ gì
đó. Bao giờ cũng có những người như vậy”.
Chương 17
“Tôi sẽ lấy bất cứ chiếc xe
nào mà các anh có”, Anna nói.
“Bây giờ chúng tôi không còn
chiếc nào”, chàng thanh niên trông có vẻ mệt mỏi ngồi sau chiếc bàn làm việc
trong cửa hiệu cho thuê xe mang tên Happy Hire nói bằng một giọng phân bua. “Và
có lẽ phải đến sáng mai mới có xe về”, anh chàng đeo tấm thẻ mang tên Hank ấy nói
thêm. Anh ta đã hoàn toàn quên câu phương châm của cửa hàng đặt trên mặt bàn
tiếp tân, Không ai rời khỏi cửa hiệuHappy Hire của chúng tôi mà không
mang theo một nụ cười hạnh phúc. Anna không che dấu nổi vẻ thất vọng.
“Tôi không nghĩ là chị muốn
đi xe tải?” Hank ướm thử. “Không phải là mô đen mới nhất, nhưng nếu chị vội”.
“Tôi sẽ thuê”, Anna nói và
nghĩ đến hàng người dài dằng dặc xếp hàng sau cô ở bến phà. Chắc chắn họ đều
muốn cô nói không thuê. Hank đặt một mẫu đăng ký lên mặt bàn và bắt đầu điền
vào những ô trống. Anna đưa bằng lái xe cho anh ta để anh ta điền tiếp vào một
số chỗ trống còn lại trong mẫu đăng ký. “Chị muốn thuê trong bao lâu?” Hank
hỏi.
“Một ngày, có thể là hai –
tôi sẽ để nó lại sân bay Toronto”.
Sau khi đã điền đầy đủ các ô
trống nhỏ trên mẫu đăng ký, Hank xoay ngược tờ giấy lại để Anna ký.
“Hết 60 đôla, và tôi cần 200
đôla tiền đặt cọc”.
Anna chau mày, rồi đưa cho
anh ta 260 đôla.
“Và tôi cần thẻ tín dụng của
chị”.
Anna đẩy một tờ 100 đôla về
phía anh ta qua mặt bàn. Lần đầu tiên cô biết đến hành động hối lộ.
Hank cho tiền vào túi. “Đó là
chiếc xe tải trong ô ba mươi tám”, Hank vừa nói vừa đưa chìa khoá cho cô.
Khi Anna tìm thấy ô ba mươi
tám, cô hiểu tại sao đây là chiếc xe cuối cùng còn sót lại. Cô mở cửa sau rồi
cho chiếc va li và chiếc máy tính lên xe. Sau đó cô đi về phía trước xe và ngồi
vào chiếc ghế lái bọc nhựa. Cô kiểm tra các đồng hồ. Chiếc xe đã chạy được 98.617
dặm, và vận tốc tối đa là 90 dặm một giờ. Cô nghĩ may ra thì chiếc xe có thể
chạy với vận tốc bằng một nửa con số đó. Rõ ràng chiếc xe này đã đi đến chặng
cuối cùng của cuộc đời nó, và bốn trăm dặm tiếp theo sẽ làm nó tắt thở. Cô băn
khoăn không hiểu nó có còn bán được nổi 360 bảng hay không.
Anna khởi động chiếc xe và
tập trung tâm trí để đưa nó ra khỏi lô đỗ xe. Cô trông thấy một người đàn ông
trong gương chiếu hậu ở cửa xe; anh ta vội nhảy tránh sang một bên. Chỉ vài
trăm mét sau đó, cô đã phát hiện ra rằng chiếc xe này không phải sinh ra để đua
tốc độ hay để đem đến cho ta sự thoải mái. Cô liếc nhìn xuống tấm bản đồ về các
tuyến đường mà cô đã trải ra trên chiếc ghế còn lại bên cạnh mình, và bắt đầu
tìm kiếm những biển chỉ đường dẫn tới Jersey Turnpike và Del Water Gap. Cho dù
từ sáng tới giờ cô chưa có gì vào bụng, Anna quyết định phải cho xe chạy vài
chục dặm trước khi nghĩ đến chuyện ăn uống.
“Anh nói đúng, sếp ạ”, Joe
nói, “cô ta không tới Danville”.
“Vậy cô ta tới đâu?”
“Sân bay Toronto”.
“Xe hơi hay xe lửa?”
“Xe tải”, Joe đáp.
Jack thử tính xem chuyến đi
sẽ mất bao nhiêu thời gian, và kết luận rằng phải tới cuối chiều ngày hôm sau
Petrescu mới tới Toronto.
“Tôi đã gắn thiết bị định vị
toàn cầu lên thanh ba đờ sốc sau xe của cô ta”, Joe nói thêm, “vì vậy chúng ta
có thể theo dõi cô ta suốt ngày đêm”.
“Và hãy bố trí một nhân viên
theo dõi cô ta ở sân bay”.
“Anh ta đã được thông báo chi
tiết”, Joe nói, “với yêu cầu là phải báo cho tôi biết cô ta định bay tới đâu”.
“Cô ta sẽ bay đi London”,
Jack nói.
Đến 3 giờ chiều hôm đó, Tina
đã có thể loại thêm bốn cái tên khỏi danh sách những người mất tích. Ba người
trong số đó đang tham gia bỏ phiếu vòng đầu để bầu thị trưởng, người còn lại bị
nhỡ tầu.
Fenston nhìn qua danh sách. Leapman đứng cạnh và đặt một ngón tay lên cái
tên duy nhất mà ông ta quan tâm. Fenston gật đầu và mỉm cười.
“Đỡ mất công”, Leapman bình luận.
“Có tin gì mới từ JFK không?” Fenston hỏi.
“Ngày mai họ cho phép một vài chiếc cất cánh”, Leapman nói, “các nhà ngoại
giao khách mời, các đội cứu thương của bệnh viện, và một số chính khách cao cấp
do Bộ Ngoại giao bảo lãnh. Nhưng tôi đã thu xếp để chúng ta được cất cánh vào
sáng sớm ngày thứ Sáu”. Ông ta dừng lại. “Có người cần một chiếc xe mới”.
“Mô đen nào?” Fenston hỏi.
“Một chiếc Ford Mustang”,
Leapman trả lời.
“Tưởng là Cadillac”, Fenston mỉm cười.
Vào lúc 3 giờ chiều hôm đó, Anna đã tới ngoại ô của thành phố Scraton,
nhưng cô quyết định cho xe chạy tiếp thêm vài giờ nữa. Trời quang đãng, không khí khô hanh, và con đường cao
tốc ba làn xe đông nghịt xe cộ chạy theo hướng bắc, và hầu hết mọi chiếc xe
khác đều vượt xe của cô. Anna thư giãn một chút khi những toà nhà cao tầng đã
được thay thế bằng những hàng cây to hai bên đường. Hầu hết các xa lộ đều có
vận tốc tối đa là 55 dặm một giờ và vận tốc như vậy là phù hợp với cô. Nhưng cô
vẫn phải nắm chặt vô lăng để chiếc xe tải không dạt sang làn khác. Anna liếc nhìn
bảng đồng hồ. Cô tính sẽ tới Baffalo vào lúc 7 giờ, và có thể cô sẽ phải nghỉ
một lát tại đó.
Cô nhìn vào gương chiếu hậu,
bỗng nhiên cô có cảm giác của một kẻ tội phạm đang trên đường chạy trốn. Ta
không được sử dụng điện thoại di động hay thẻ tín dụng, và tiếng hú của xe cảnh
sát làm nhịp tim ta tăng gấp đôi. Một cuộc sống phải luôn dè chừng những người
xa lạ, và cứ chốc chốc lại phải ngoái nhìn qua vai. Ngay lúc này, Anna ước gì
được trở lại New York, được sống giữa bạn bè và được làm công việc mà cô yêu
thích. Cha cô đã từng nói – “Ôi, Chúa ơi”, Anna nói to một mình. Nếu mẹ cô nghĩ
cô đã chết thì sao? Còn bác George và gia đình ở Danville thì sao? Cô có nên
liều gọi điện cho họ không? Tệ thật, cô không thích hợp với hoàn cảnh của một
kẻ tội phạm.
Leapman bước vào phòng Tina
mà không thèm gõ cửa. Chị vội vàng tắt chiếc màn hình bên cạnh bàn làm việc của
mình.
“Anna Petrescu có phải là bạn
của cô không?” Leapman hỏi mà không giải thích lý do.
“Phải”, Tina nói mà không
ngửng đầu lên.
“Phải à?” Leapman hỏi lại.
“Đã từng”, Tina chữa lại.
“Vậy cô chưa có thêm tin gì về cô ta à?”
“Nếu có, sao tôi lại phải đưa tên chị ấy vào danh sách mất tích?”
“Sao lại không?” Leapman nói.
“Tôi không nhận được tin gì
về chị ấy”, Tina nhìn thẳng vào mặt Leapman. “Nếu ông biết được tin gì về chị
ấy, làm ơn cho tôi biết”, chị nói thêm.
Leapman cau mày và bước ra
khỏi phòng.
Anna đánh xe vào một quán ăn
vắng khách. Cô yên lòng khi thấy chỉ có hai chiếc xe khác đang đỗ trong bãi để
xe, và khi cô bước vào trong quán, chỉ có ba vị khách đang ngồi gần quầy thu
tiền. Anna tìm một chỗ ngồi quay lưng lại với quầy thu tiền, kéo sụp mũ xuống
và đọc qua thực đơn. Cô gọi món xúp cà chua và món gà rán.
Mười đôla và ba mươi phút
sau, cô lại lên đường. Cho dù từ sáng tới giờ cô không uống gì ngoài cà phê,
chỉ một lúc sau cô đã thấy buồn ngủ. Cô đã cho xe chạy một mạch suốt 8 giờ và
đi được hơn ba trăm dặm trước khi dừng lại để ăn tối, và bây giờ thì cô phải cố
gắng để mi mắt đừng sụp xuống.
NẾU CẢM THẤY MỆT, HÃY DỪNG
LẠI ĐỂ NGHỈ NGƠI, dòng chữ in đậm ấy
trên một tấm biển bên đường càng khiến cô ngáp nhiều hơn. Cô phát hiện thấy một
chiếc xe tải mười hai bánh đang dạt vào điểm tạm nghỉ phía trước mặt cô. Anna
liếc nhìn đồng hồ – hơn mười một giờ. Cô đã ở trên đường gần chín tiếng. Cô
quyết định phải nghỉ ngơi vài giờ trước khi đi hết chặng đường còn lại. Suy cho
cùng, cô còn khối thời gian để ngủ trên máy bay.
Anna cũng bắt chước chiếc xe
tải, cô đánh xe vào điểm tạm nghỉ và cho xe dừng lại ở đầu xa nhất. Cô đỗ xe
của mình sau một chiếc khác rồi nhảy ra khỏi xe, kiểm tra tất cả các cửa xe
trước khi trèo lên thùng sau. Cô yên tâm vì phía sau cô không có một chiếc xe
nào. Anna cố gắng tạo một chỗ nằm thoả mái, và lấy chiếc máy tính xách tay làm
gối. Chưa bao giờ cô phải nằm trong một tư thế khó chịu như thế này, nhưng chỉ
vài phút sau cô đã ngủ thiếp đi.
“Petrescu vẫn làm tôi lo
lắng”, Leapman nói.
“Sao một mụ đàn bà đã chết
lại có thể doạ được ông?” Fenston hỏi.
“Bởi vì tôi không tin rằng cô
ta đã chết”.
“Làm sao cô ta có thể sống
sót?” Fenston vừa nói vừa nhìn đám mây vẫn chưa chịu tan đang lơ lửng trên khu
Trung tâm Thương mại Thế giới bên ngoài cửa sổ.
“Cũng giống như chúng ta đã
sống sót”, Leapman nói.
“Những chúng ta đã kịp rời
khỏi toà nhà ngay”, Fenston nói.
“Có thể cô ta cũng đã kịp rời
khỏi toà nhà. Chính ngài đã ra lệnh cho cô ta phải rời khỏi đó trong vòng mười
phút”.
“Barry lại nghĩ khác”.
“Barry vẫn sống”, Leapman
nhắc nhở ông ta.
“Cho dù Petrescu có sống sót,
cô ta cũng chẳng làm được gì”, Fenston nói.
“Cô ta có thể tới London
trước tôi”, Leapman nói.
“Nhưng bức tranh đã được cất
an toàn tại Heathrow”.
“Nhưng tất cả mọi giấy tờ
chứng minh bức tranh đó là của ngài đều được cất trong chiếc két ở văn phòng
ngài tại Tháp Bắc, và nếu Petrescu có thể thuyết phục -”
“Thuyết phục ai? Victoria
Wentworth thì đã chết rồi, đừng có quên là Petrescu đang mất tích, và chắc là
cũng đã chết rồi”.
“Nhưng nếu thế thì cũng tiện
lợi cho cô ta nếu cô ta thực sự còn sống”, Leapman nói.
“Vậy thì hãy làm cho điều đó
trở nên bất tiện đối với cô ta”.