Vụ giết người bí ẩn - Chương 6 - Phần 1
Chương 6
Tôi gọi điện cho
cảnh sát trưởng Mason trong một cabin điện thoại bên đường cái. Bill Anderson
nhanh chóng nhấc máy.
- Bill hả? Mình báo
cho cậu biết là ngôi nhà của Fred đã bị đập phá tan hoang, - tôi nói. - Mình
nghĩ rằng cần phải báo cho các cậu biết.
- Đập phá tan hoang kia à?
- Đúng thế.
Im lặng một lúc lâu rồi Bill hỏi tôi:
- Hãy tha lỗi cho tôi, Dirk ạ. Anh đang làm gì ở đó thế?
- Mình buồn quá, chợt thấy quan tâm tới lũ ếch.
- Tôi sẽ tới đó ngay.
- Chính vì thế mà mình gọi cho các cậu. Nhớ đưa cả Mason, bác sĩ Steed, xe
cấp cứu và hai người thật khỏe mang ủng lội bùn đấy.
- Anh nói sao?
- Mình quên chưa nói với cậu chi tiết này. Harry Weatherspoon đang uống no bùn trong đầm nuôi ếch. Chắc là hắn
ngoẻo rồi và lũ ếch chẳng tỏ ra đau buồn gì. (Tôi gác máy).
Tôi quay lại ngôi
nhà của Fred, ngồi xuống chiếc ghế dưới bóng râm và chờ đợi.
Một giờ sau mới
thấy xe của cảnh sát trưởng rẽ vào con đường hẹp. Bill Anderson ngồi sau tay
lái, Mason và bác sĩ Steed ngồi ở ghế sau. Trong chiếc xe cứu thương chạy phía
sau có hai người da đen cao lớn và hai người da trắng mắc quần áo bảo hộ.
Tôi tiến tới đón
mọi người xuống xe. Cảnh sát trưởng Mason vẫn còn đang ngà ngà, chân đứng không
vững. Bác sĩ Steed có vẻ hơi lo lắng. Bill Anderson mặt vẫn chưa hết ngạc
nhiên.
- Trước hết ta hãy
xem qua trong nhà đã, - tôi nói. - Ông Weatherspoon cũng chẳng có gì phải vội.
Sau khi nhìn tôi
với ánh mắt ngờ vực, Mason và Steed cùng bước vào nhà.
- Cậu cũng nên vào
xem, Bill ạ.
Anderson liền nhập
bọn với hai người kia.
Người da đen nhìn
tôi và nói:
- Một nạn nhân mới à?
- Đúng thế. Anh ta ướt sũng rồi. Nếu anh có vải mưa thì hãy lấy ra đi.
Ba người trong nhà
đi ra.
- Chà… chà…, - bác
sĩ Steed lẩm bẩm. - Cái bọn trẻ bây giờ đúng là lũ phá hoại. Chúng không còn
coi ai ra gì nữa.
- Ông nghĩ sao,
Mason? - Tôi hỏi.
Mason chớp mắt và
gật đầu.
- Đ... úng thế, bọn
phá hoại.
- Các ông có cảm
thấy bọn nó tới đây là để tìm kiếm cái gì đó không?
- Bọn phá hoại
thôi! - Mason nhắc lại.
- Thế còn ông
Weatherspoon thì sao? - Bác sĩ Steed hỏi. - Anh nói ông ta chết rồi phải không?
- Đó mới chỉ là cảm
tưởng của tôi thôi, biết đâu các ông có thể nghĩ rằng ông ta giả vờ cũng nên.
(Tôi quay sang người đi ủng). Các anh cần phải tìm một cái sào có móc.
Người này nhìn tôi
toét miệng cười.
- Tôi có một cái
rồi, - anh ta lấy từ xe cứu thương ra một chiếc sào dài.
Một người đi ủng
nữa cũng lấy xuống một mảnh vải mưa lớn. Xem ra Anderson cũng khá tháo vát.
Rồi tôi dẫn đầu
đoàn người đến đầm. Mason có vẻ khó nhọc lê bước theo con đường hẹp.
Những con ếch lại
nhảy lên ngồi trên xác Weatherspoon như trên một cái bè. Thấy chúng tôi tới,
chúng lại nhảy hết xuống đầm. Cuối cùng, bác sĩ Steed lên tiếng:
- Tội nghiệp ông
ta. Thật là kinh khủng! Thôi nào, các anh, hãy vớt ông ta lên đi.
Hai người cứu
thương trải tấm vải mưa xuống đất, còn hai người đi ủng lội xuống kéo xác
Weatherspoon vào. Họ đặt ông ta lên tấm vải mưa rồi lùi lại.
Tôi vẫn đứng nguyên
tại chỗ nhìn cái xác. Miệng và lỗ mũi ông ta chứa đầy bùn nhão xanh lét. Tay
phải ông ta nắm chặt một vật dài và đầy lông lá cuốn xung quanh cổ tay ông ta.
- Lạy Chúa, Larry!
- Mason kêu lên khi nhìn Weatherspoon. - Chuyện gì đã xảy ra thế này?
- Cho tôi mấy phút
nào, Tim. - Ông bác sĩ Steed bình tĩnh nói.
Ông quỳ xuống, xem
xét đầu Weatherspoon, rồi nhìn xung quanh và gật đầu.
- Chết do tai nạn,
Tim ạ. - Ông nói. - Chuyện này hiển nhiên như mũi ở giữa mặt người.
Tôi bèn tới gần
viên bác sĩ.
- Ông ta cầm gì ở
tay thế kia? - Tôi hỏi.
Tôi quỳ xuống, cầm
lấy vật đó và nhẹ nhàng gỡ ra trong khi Steed đứng quan sát tôi.
- Một bộ tóc giả! -
Tôi kêu lên và giơ cao mớ tóc vàng ướt sũng.
Đúng là một bộ tóc
giả rất bình thường mà người nào cũng có thể mua ở bất cứ cửa hiệu nào.
- Không có gì quan
trọng cả, - bác sĩ Steed nói. - Thật tội nghiệp.
Mason bước lên lắp
bắp:
- Có phải chết do
tai nạn không, Larry?
- Không còn nghi
ngờ gì nữa! Thì cứ nhìn đây này, - ông nói và chỉ những cái rễ cây mọc đâm
xuống tận đầm. - Có một vết bầm máu bình thường ở gáy ông ta. Rõ ràng là ông ta
bị trượt chân ngã, đập đầu vào rễ cây, lăn xuống nước và chết đuối. Nghĩa là
chết vì tai nạn.
Cảnh sát trưởng thở
phài nhẹ nhõm.
- Thế thì khỏi cần
báo cảnh sát bang, hả?
- Trong trường hợp
chết do tai nạn thì khỏi cần, - bác sĩ Steed khẳng định. - Thôi nào, các chàng
trai, hãy đưa ông ta về nhà xác. Tôi sẽ tới đó ngay.
- Ấy, đi đâu mà
vội, - tôi nói. - Cần phải kiểm tra các túi ông ta đã.
- Tôi sẽ làm điều
đó ở nhà xác.
- Tốt nhất là nên
làm khi có mặt mọi người làm chứng. (Tôi quay sang Anderson). Cậu hãy lục soát
các túi xem.
Anderson lưỡng lự.
Nhưng thấy cảnh sát trưởng không nói gì, anh ta quỳ xuống cạnh cái xác và nhanh
chóng lộn hết các túi trên người Weatherspoon. Tất cả chỉ có một bao thuốc đã
ướt sũng, một cái bật lửa bằng vàng và một cái ví có hai trăm đô tiền lẻ.
Anderson lập danh
sách các vật mà anh ta đã tìm thấy trong túi Weatherspoon rồi đưa cho bác sĩ
Steed.
- Vết thương là do
đập vào rễ cây này, phải không bác sĩ? - Tôi hỏi.
Steed gật đầu
- Điều đó không còn
nghi ngờ gì nữa.
- Thế nhỡ có ai tới
từ phía sau và đập vào gáy ông ta thì sao?
Sau một lát im
lặng, viên cảnh sát trưởng nói:
- Anh đã nghe bác
sĩ Steed nói rồi đấy. Cho phép tôi báo cho anh biết bác sĩ đây hành nghề từ khi
anh còn chưa đẻ kia. Tôi không cần bận tâm tới nhận xét của anh. Mà anh đã làm
gì ở đây?
- Tôi đi tìm Johnny
Jackson, - tôi đáp. - Thế ông tự hỏi Harry Weatherspoon tới đây làm gì chưa?
- Ông ta muốn mua trang trại này. Ông ta tới đây để xem thực trạng ra sao.
Chuyện đó cũng tự nhiên thôi, phải không?
- Đúng thế. Nhưng ông ta tới đây xem và mang cả rìu theo.
Viên cảnh sát trưởng nổi cáu.
- Anh đi đi, anh không có quyền ở đây. Anh chỉ gây chuyện những chuyện rắc
rối.
- Ông có tự hỏi Weatherspoon tới đây bằng cách nào không? Không có xe của
ông ta ở đây. Hay là ông ta đi bộ tới?
Nói xong, tôi đi về phía ngôi nhà để mặc cho Masoon và Steed lúng túng nhìn
theo.
Tôi tính toán rằng phải mất một thời gian người ta mới gói xong và chở cái
xác đi. Ra khỏi tầm nhìn của họ, tôi vùng bỏ chạy. Tới ngôi nhà tôi lẻn vào.
Trước hết phải tìm cho ra chiếc rìu, sự đập phá chỉ có thể làm bằng dụng cụ
này.
Sau hai ba phút, tôi tìm thấy nó được giấu trong đám vật liệu nhồi ghế
phô-tơi. Đó là một chiếc rìu cán ngắn, lưỡi khá sắc. Tôi cuộn tay trong chiếc
mùi soa rồi cầm lưỡi nhấc lên và kiểm tra phần sống rìu. Không có kết quả gì.
Tôi chợt thấy trên cán rìu có một cái nhãn nhỏ ghi: “Tài sản của nhà Morgan và
Weatherspoon”. Tôi đặt chiếc rìu vào nơi Anderson có thể nhìn thấy, rồi đi ra
khỏi nhà và vòng ra phía sau.
Quay về chỗ bóng cây. Tôi thấy một chiếc xe máy Honda. Tôi nghĩ đây là
chiếc xe mà Weatherspoon đã đến đây. Tôi cũng cho rằng ông ta tới đây có mang
theo cả rìu và dùng nó đập phá một cách hệ thống trong nhà. Ông ta tìm kiếm gì?
Rõ ràng ông ta chỉ tìm thấy một bộ tóc giả màu vàng. Tôi nhớ Abe Levi nói ông
ta thấy ở nhà Fred có một cô bé tóc vàng. Và người ta cũng nói Johnny là một
đứa ái nam ái nữ. Johnny có thể mua mua tóc giả ở Searle và đội nó vào những
ngày ông già Fred không ở nhà và bất chợt bị Levi nhìn thấy.
Điều này giải thích được sự có mặt của cô gái bí ẩn. Wally hoàn toàn có lý
khi nói rằng nếu Levi thấy đứa con gái ở nhà Fred thì chỉ có thể là Johnny.
Khi đi ra con đường hẹp dẫn tới chỗ đỗ xe, bất chợt tôi nảy ra một ý. Đó là
có thể Weatherspoon sau khi phát hiện ra một thứ khác ngoài bộ tóc giả đã bị
tên theo dõi giết chết. Liệu có phải hắn cũng là tên giết Jackson không?
Tôi quyết định tiếp tục đào bới cho tới khi Parnell trở về. Tôi sẽ báo cáo
với ông tất cả những điều tôi biết và để ông ấy quyết định.
***
Tới Searle, tôi đậu xe trước khách sạn và đi vào. Mọi người có mặt ở đó đều
nhìn chằm chằm tôi và xì xào bàn tán. Hàng chục người đang ngồi ăn cũng nhìn
tôi với ánh mắt đầy hy vọng.
Tôi gọi một chiếc bánh sandwich nhồi thịt gà và dăm bông cho vào một cái
túi.
- Chuyện xảy ra với ông Weatherspoon thật khủng khiếp! - Một người hầu bàn
nói.
Tất cả mọi người đều dừng ăn và dỏng tai nghe.
- Có ai sống mãi được đâu, - tôi đáp và không ngạc nhiên là tin tức đã loan
về đến Searle, rồi tôi trả tiền.
- Xin lỗi, ông Wallace, - một người nhỏ thó đang nhồm nhoàm nhai nói. – Tôi
nghe là ông đã phát hiện ra xác của ông Weatherspoon, phải vậy không?
- Nếu đó không phải là ông ta thì là ai đó mặc quần áo của ông ta, - tôi
nói rồi bước ra.
Tôi phóng xe tới nhà máy Morgan và Weatherspoon, đậu xe trước cổng, rồi đi
tới kho chế biến. Tôi thấy Levi ngồi ăn trong cái vỏ hộp như lần trước. Ông già
Levi vẫy tay gọi tôi. Tôi đi tới và ngồi xuống cạnh ông.
- Bác vẫn thích món đậu hay cùng ăn bữa trưa với cháu? - Tôi hỏi và mở cái
túi giấy ra.
- Bánh mì à? Không bao giờ. Tôi thích món đậu này hơn. Đã hơn hai mươi năm
nay tôi chỉ ăn món này.
Tôi đành rút bánh ra nhai.
- Ông chủ đã bị ngã xuống đầm nuôi ếch và chết đuối, phải không? - Levi hỏi
và dùng thìa vét thức ăn trong hộp.
- Đúng thế. Nhưng rồi nhà máy sẽ ra sao?
- Tôi cóc cần biết. Tôi sẽ xin về hưu. Tôi cũng ngán đi thu gom ếch lắm
rồi. Tôi có một bà vợ hiền thục, một ngôi nhà đàng hoàng và một ít tiền để
dành. Thế thì can cớ gì tôi phải lo cho số phận nhà máy.
- Weatherspoon có
vợ con gì không?
Một ánh nhìn tinh
quái lại lóe lên trong mắt ông già.
- Anh lại cần thông
tin phải không?
Tôi đáp đúng thế.
- Thế thì chi hai
mươi đô đây, sự tò mò của anh sẽ được thỏa mãn.
Thời gian rất gấp
rút. Tôi mở ví lấy ra tờ năm đô và đưa cho ông.
- Để xem bác có
thỏa mãn được sự tò mò của cháu hay không.
- Anh hỏi tôi, ông
chủ có vợ con gì không, đúng thế không?
- Này bác Levi,
đừng có chơi trò mèo vờn chuột nữa. Bác sẽ có hai mươi đô nếu bác cung cấp đúng
thông tin mà cháu cần. Weatherspoon có vợ con gì không?
- Không. Nhưng ông
ta ngủ khắp lượt. Với cả con Peggy ông ta cũng không thạ Con bé cứ nghĩ ông ta
cưới nó đến nơi, nhưng ông ta đâu có phải loại người làm chồng, thế mà con bé
cứ hoắng cả lên.
- Bác có biết ai sẽ
là người thừa kế nhà máy này không?
- Tôi nghĩ là chẳng có ai. Weatherspoon
là người độc thân. Nhà máy này có giá lắm đấy. Khi mua lại của Morgan, ông chủ
mới bắt đầu cho đóng hộp ếch. Nhờ thế, ông ấy cung cấp đùi ếch cho hầu hết các
khách sạn sang trọng và hốt bạc.
- Ếch đóng hộp? Thế
mà cháu không biết người ta đóng hộp cả ếch kia đấy, - tôi nói vẻ chế nhạo. -
Người ta chỉ ướp lạnh đùi ếch, chứ ai lại đóng hộp bao giờ.
- Anh còn lạ gì,
Wallace. Phụ nữ bây giờ lười nhác lắm. Họ cho chồng con ăn toàn đồ hộp thôi.
Riêng tôi vẫn thích đậu Hà Lan đóng hộp.
- Thế ra ông ta đã
xây dựng cả một nhà máy đóng hộp ếch.
- Thì chứ sao. Đây
không phải là chỗ của tôi. Tôi chỉ chuyên đi thu gom ếch thôi. Còn xưởng đóng
hộp dưới kia kìa. Phụ trách nó là một cô gái thông minh lắm. Cô ta lo chuyện
này từ khi ông chủ mua nhà máy. (Ông ta nhìn tôi hỏi). Anh có muốn biết thêm
nữa không?
- Nếu bác muốn có
mười lăm đô còn lại thì phải nói thêm nữa.
Ông già vét hết số
đậu còn lại trong hộp, rồi nói:
- Ông chủ là tay
bẩn thỉu lắm. Ông ta lúc nào cũng chạy theo đồng tiền. Ông ta lập cả một băng
găngxtơ nữa kia. (Ông già lại nhìn tôi). Mà không hiểu tại sao thứ năm nào ông
ta cũng cưỡi Honda đi và trở về với cái túi da buộc phía sau. Tôi thường gặp
ông ta đi và khi tôi đang dỡ hàng thì ông ta về. Thi thoảng còn có một tay
Mêhicô cũng lai vãng đến đây. Họ thì thầm bí mật trong văn phòng ông chủ. Cứ như
buôn bạc giả ấy.
- Gã Mêhicô ấy
trông thế nào?
- Một thằng bẩn
thỉu với hàng ria mảnh. Tháng nào hắn cũng tới. Rồi có một gã nữa đi chiếc xe
Jaguar. Tôi chỉ gặp hắn một lần. Hôm đó tôi sửa xe tới tối muộn. Tôi thoáng
thấy hắn và không hiểu hắn là ai. Tôi nghe thấy hắn to tiếng với ông chủ.
Tôi đưa thêm cho
ông mười đô nữa.
- Hắn nói những gì?
- Tôi không nhớ
chính xác. Chỉ nhớ là chuyện tiền bạc gì đấy. Hắn hét: “Trả đi”. Sau đó không
thấy ầm ĩ nữa. Tôi không quan tâm đến chuyện của họ, tôi đang sửa xe mà.
- Thế cô gái phụ
trách xưởng đóng hộp tên gì?
- Cloe Smith. Anh
có định nói chuyện với cô ấy không, Wallace?
- Tại sao lại
không?
- Đừng có đút tiền
cho cô ấy đấy. Đối với một người da đen thì cô ấy thuộc loại khá giả rồi.
- Xin nghe lời bác.
Tôi đưa nốt năm đô
dự trữ cho ông già.
- Nếu cháu nghĩ
thêm được ý gì, cháu sẽ tìm bác.
Tôi chia tay ông
già Levi rồi đi vào nhà kho cuối sân. Tôi mở cửa bước vào một căn phòng dài và
hẹp. Cạnh cửa sổ là một dãy vỏ hộp chưa đóng. Trong góc có một thiết bị hàn và
cả đống nắp vỏ hộp.
Một cô gái da đen
cao lớn từ phòng bên cạnh bước ra và chòng chọc nhìn tôi. Cô ta rất đẹp. Người
cân đối, nước da đen như mun và khuôn ngực căng tròn. Trông cô chỉ trạc độ trên
dưới ba mươi.
- Cô Smith? - Tôi
hỏi và mỉm cười thân thiện.
Từ chỗ râm, cô bước
ra chỗ có ánh nắng xuyên qua các cửa sổ.
- Đã đến giờ đóng
cửa rồi, - cô nói bằng một giọng nghiêm nghị nhưng du dương.
- Tôi chỉ muốn hỏi
cô hai ba câu hỏi thôi. Tôi là Dirk Wallace.
Cô gái gật đầu.
- Có báo cho cô tin buồn này chắc cũng vô ích thôi, cô Smith ạ. Vì ở Searle
này tin tức lan truyền nhanh kinh khủng.
Lại gật đầu.
- Cô có biết Johnny Jackson không?
- Không.
- Chắc là cô biết tôi đang tìm anh ta chứ?
- Tôi có nghe nói.
- Cô Smith ạ, biết đâu cô có thể giúp được tôi cũng nên. Vì ông Weatherspoon muốn mua trang trại của Jackson mà. Người
ta nói với tôi là ông chủ của cô bán ếch cho các khách sạn, nhưng tôi lại không
biết ông ấy cho đóng hộp.
Cô gái nhìn tôi dò
xét và suy nghĩ.
- Thế thì có quan
hệ gì đến Johnny Jackson?
Tôi cố nở một nụ
cười cầu thân.
- Tôi cũng không
biết. Nghề của tôi là tìm kiếm thông tin mà. Đôi khi thông tin này lại xác nhận
một thông tin khác. Ông Weatherspoon có bán nhiều ếch đóng hộp không?
- Không. Chúng tôi
chỉ bán khoảng năm trăm hộp mỗi tháng. Nhưng ông Weatherspoon nói đó mới chỉ là
bắt đầu thôi. Tôi nghĩ chắc sẽ còn tăng nữa.
- Cô có thể cho tôi
biết cách chế biến không?
Cô gái nhún vai.
- Ếch được đưa đến
chỗ chúng tôi từ phân xưởng ở đầu kia. Chúng được tẩm bột rồi đem rán và sau đó
đóng hộp. Khách hàng chỉ việc mở hộp đặt trên đĩa rồi hâm nóng trên bếp chỉ
mười lăm phút là ăn ngon lành.
- Chỉ có thế thôi
sao?