Giấc mơ Trung Quốc - Chương 07 - Phần 03
II. Muốn “trỗi dậy hòa
bình” ắt phải “trỗi dậy về quân sự”
Người Trung Quốc nói phát triển là nói “phát triển
hòa bình”; nói “trỗi dậy” là nói “trỗi dậy hòa bình”; nói “thống nhất” là “thống
nhất hòa bình”; nói ngoại giao là “ngoại giao hòa bình”. Thực ra, lực lượng
quân sự lớn mạnh, sự trỗi dậy nhanh chóng về quân sự chính là nền tảng của tất
cả những nguyện vọng hòa bình ấy.
Muốn “hòa bình” thì phải chuẩn bị “chiến tranh”
Nhà văn cổ La Mã Vegetius[8] có câu cách ngôn kinh
điển: “Nếu bạn muốn hòa bình, thế thì bạn hãy chuẩn bị đánh nhau!” Câu này luôn
luôn được các nhân vật theo chủ nghĩa hiện thực trong giới lý luận quan hệ quốc
tế phương Tây tôn lên làm một danh ngôn chí lý.
[8] Vegetius, tức
Publius Flavius Vegetius Renatus, 400 AD, có viết một số tác phẩm về đề tài chiến
tranh, quân sự.
Giáo huấn cổ Hy Lạp nói: “Muốn có hòa bình thì hãy
chuẩn bị chiến tranh”.
Binh thư cổ đại Trung Quốc “Tư Mã Pháp” có danh
ngôn: “Thiên hạ tuy yên bình, nếu quên chiến đấu ắt sẽ nguy hiểm”.
Phỏng theo lời các bậc tiên hiền, người Trung Quốc
đương đại nói: “Muốn trỗi dậy một cách hòa bình thì tất phải trỗi dậy về quân sự”,
“Muốn có hòa bình thì hãy chuẩn bị chiến tranh”.
Hòa bình có những hình thái lịch sử khác nhau. Cộng
đồng quốc tế hồi thế kỷ XIX có hòa bình dưới sự thống trị của đế quốc Anh, lấy
chinh phục thuộc địa làm cơ sở. Trong nửa cuối thế kỷ XX, hòa bình xuất hiện dưới
hình thái chiến tranh lạnh giữa Mỹ với Liên Xô, là hòa bình lạnh dưới sự đe dọa
hạt nhân. Hòa bình thế giới sau chiến tranh lạnh là nền hòa bình dưới sự bá chủ
của một siêu cường duy nhất là Mỹ. Thế giới trong thế kỷ XXI cần một nền hòa
bình có nhiều cực chế ước lẫn nhau. Trung Quốc trong thế kỷ XXI cần một nền hòa
bình có thể bảo đảm sự phát triển hòa bình, trỗi dậy hòa bình của nước mình. Nền
hòa bình như vậy không thể có được nhờ vào sự “hữu hảo” đối với kẻ mạnh, cũng
không thể có được nhờ vào cách “tỏ ra yếu ớt” của sự giấu mình chờ thời, mà chỉ
có thể dựa vào dũng khí và lực lượng của mình để giành được.
Tháng 5 năm 2004, trong một buổi thảo luận về con đường
phát triển hòa bình của Trung Quốc tổ chức tại Bắc Kinh, có người nói: Trung Quốc
yêu hòa bình, kiên trì trỗi dậy hòa bình, nhưng nếu có nước dùng vũ lực ngăn chặn
Trung Quốc trỗi dậy thì làm thế nào? Trung Quốc không đánh người ta, nhưng nếu
người ta đánh chúng ta thì chúng ta làm thế nào?
Trung Quốc trỗi dậy hòa bình lấy tiền đề là các quốc
gia khác, đặc biệt là Mỹ, đối xử với Trung Quốc theo cung cách hòa bình. Nhưng
Trung Quốc trỗi dậy hòa bình, phải chăng Mỹ nhất định đối xử với chúng ta một
cách hòa bình hay là ngăn chặn hòa bình? Nếu Mỹ đã không ủng hộ Trung Quốc trỗi
dậy hòa bình lại không hạn chế bởi, không thỏa mãn với sự ngăn chặn hòa bình
Trung Quốc, mà tiến hành ngăn chặn quân sự với sự trỗi dậy của Trung Quốc, thậm
chí tiến hành chiến tranh áp chế, dùng vũ lực ngăn trở Trung Quốc trỗi dậy hòa
bình, như thế thì chỉ có thể ép Trung Quốc lên Lương Sơn[9], buộc Trung Quốc có
thể thông qua chiến tranh để bảo vệ quyền trỗi dậy của nhà nước mình, phá tan sự
ngăn chặn bằng vũ lực, bằng chiến tranh của quốc gia bá quyền, thực hiện trỗi dậy
chiến đấu. Trung Quốc không thể vì hòa bình mà không trỗi dậy, cũng không thể
vì tránh chiến tranh mà không trỗi dậy. Hệt như trên vấn đề Đài Loan, Trung Quốc
kiên trì hòa bình thống nhất, nhưng khi thế lực Đài Loan độc lập dưới sự ủng hộ
của thế lực bên ngoài muốn chia cắt tổ quốc thì Trung Quốc không thể vì hòa
bình mà không thống nhất, không thể vì hòa bình mà nhẫn nhịn dung thứ chia cắt
đất nước. Khi không thể nào thực hiện được hòa bình thống nhất, ắt phải dùng vũ
lực để ngăn chặn chia rẽ và thực hiện thống nhất, dùng chiến tranh để ngăn chặn
Đài Loan độc lập, dùng vũ lực để xúc tiến thống
nhất là tất yếu, tất phải. Dĩ nhiên cho dù Trung Quốc buộc phải chiến đấu
trỗi dậy cũng khác với sự trỗi dậy bàmh trướng, trỗi dậy bá quyền của một số quốc
gia trỗi dậy trong lịch sử.
[9] Lên Lương
Sơn: lấy tích trong tiểu thuyết Thủy Hử,
do chịu không nổi sự đàn áp và thối nát của triều đình nhà Bắc Tống, 108 hảo
hán lên Lương Sơn nhập bọn với nhau khởi nghĩa chiến đấu chống lại triều đình.
Muốn được “an toàn”
thì phải thực hiện “lớn mạnh”
Theodor Roosevelt từng nói: “Nếu không có vũ lực làm
hậu thuẫn thì ngoại giao chỉ là vô dụng; nhà ngoại giao là nô bộc của quân nhân
chứ không phải là người chủ của quân nhân”. Dĩ nhiên Trung Quốc không thể hoàn
toàn tán thành câu nói này. Thế nhưng không thể phủ nhận tác dụng của lực lượng
vũ trang đối với an ninh quốc gia. Nhà ngoại giao chơi trò trí tuệ, song trí tuệ
chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sức mạnh, trở thành nghệ thuật vận dụng sức mạnh
thì mới có thể phát huy được tác dụng thiết thực. Với tư cách là một nước lớn
trỗi dậy, việc bảo đảm an ninh quốc gia vừa cần có trí tuệ lớn cũng cần có sức
mạnh lớn, chỉ dựa vào trí tuệ lớn để chơi “kế bỏ trống thành” thì khó có thể
lâu dài được.
John Mearsheimer giáo sư môn chính trị học Đại học
Chicago khi trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc có nói:
“Bất cứ người Mỹ nào cũng đều biết muốn bảo đảm an ninh tối đa cho nước Mỹ thì
phải bảo đảm nước Mỹ là quốc gia lớn mạnh nhất trên thế giới”. “Muốn bảo đảm sinh tồn, biện pháp tốt nhất là
trở thành kẻ lớn mạnh nhất trong một vùng hoặc lớn mạnh nhất trên toàn cầu.
Trung Quốc hiện nay còn chưa có lực lượng quân sự rất mạnh; về quân sự Trung Quốc
còn rất yếu”.
“Tôi cho rằng, cạnh tranh lớn vẫn là trên vai trò
kinh tế và vai trò quân sự. Trên hai góc độ, vai trò kinh tế rất quan trọng: Thứ
nhất, lý do quân sự và lý do an ninh. Bạn phải có thực lực kinh tế rất mạnh thì
mới có thể xây dựng được một lực lượng quân sự đủ mạnh để bảo vệ mình. Nguyên
nhân thứ hai là mọi người cần có tài sản, mọi người đều muốn được sống trong một
quốc gia phồn vinh, vì vậy giành phần thắng trên thị trường bao giờ cũng được
vô cùng coi trọng. Có sức mạnh kinh tế lớn mạnh là điều then chốt để có thể
sinh tồn, nhưng nếu không có lực lượng quân sự mạnh thì sẽ gặp rủi ro rất lớn.
Nếu nước láng giềng của bạn có quyết định sai lầm thì bạn sẽ bị trừng phạt. Ý
tôi muốn nói là Trung Quốc rất hiểu rõ điều đó, từ năm 1930 trở đi, hoặc nhớ lại
thời kỳ cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc là một quốc gia rất yếu về quân sự; kết quả
là gót sắt châu Âu và Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, làm những chuyện rất đáng sợ.
Bởi vậy, đối với người Trung Quốc, không phát triển sức mạnh quân sự lớn mạnh để
tự bảo vệ là điều vô cùng ngu xuẩn. Ở bất cứ thời nào, cạnh tranh quân sự không
bao giờ bị xóa bỏ. Tôi cho rằng cạnh tranh xuất hiện giữa Trung Quốc với Mỹ rất
có thể không chỉ là cạnh tranh về hình thái ý thức, càng có thể là cạnh tranh về
sức mạnh kinh tế và quân sự”. “Bạn cần phải tự bảo vệ mình; cách duy nhất để bảo
vệ mình là trở thành vô cùng lớn mạnh. Mỹ không muốn thấy một Trung Quốc lớn mạnh.
Nếu sau đây Trung Quốc trở thành một quốc gia mạnh nhất thì Trung Quốc cũng
không muốn thấy quốc gia khác trỗi dậy, không mong muốn bất kỳ quốc gia nào trỗi
dậy”.
Sự phân tích nói trên của chuyên gia Mỹ tuy không
hoàn toàn phù hợp thực tế của Trung Quốc, nhưng tư duy kiểu Mỹ điển hình của ý
tưởng chiến lược “có lớn mạnh mới có an toàn; muốn an toàn thì phải lớn mạnh”
là có ý nghĩa tham khảo đối với Trung Quốc. Trung Quốc trong thế kỷ XXI muốn an
toàn thì ắt phải lớn mạnh.
Theo đuổi “trỗi dậy hòa bình” thì không sợ “trỗi dậy
chiến đấu”
Cơ sở và điều kiện Trung Quốc hòa bình trỗi dậy là lấy
từ hơn 400 chiến dịch quân sự. Trung Quốc muốn thực hiện hòa bình trỗi dậy thì
phải thực hiện trỗi dậy về quân sự. Thực lực quân sự Trung Quốc phải lớn mạnh tới
mức bất kỳ kẻ địch mạnh nào trên thế giới đều không dám và cũng không thể dùng
lực lượng quân sự để ngăn chặn trình độ, mức độ trỗi dậy của Trung Quốc. Trong
quá trình Trung Quốc trỗi dậy, thách thức và khảo nghiệm lớn nhất thì đến từ sự
“ngăn chặn bằng chiến tranh” của quốc gia bá quyền đối với sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Clausewitz nói: “Một bên tuyệt
đối chịu đựng thì sẽ không trở thành chiến tranh”. Một quốc gia chỉ cần áp dụng
thái độ và chính sách tuyệt đối chịu đựng thì có thể có hòa bình. Nhưng sự trỗi
dậy hòa bình của Trung Quốc thì không thể là sự trỗi dậy tuyệt đối chịu đựng. Sự
trỗi dậy đó không loại trừ một khả năng là trỗi dậy trong chiến tranh chống
ngăn chặn. Khi quốc gia bá quyền dùng chiến tranh để ngăn chặn Trung Quốc trỗi
dậy thì Trung Quốc tất phải dùng lực lượng quân sự để bảo vệ sự trỗi dậy của quốc
gia, sao cho mục tiêu chiến lược và tiến trình chiến lược của sự trỗi dậy không
bị dừng lại. Trung Quốc cần trỗi dậy hòa bình, vì sao lại nhất định phải ra sức
tiến hành trỗi dậy về quân sự? Đó là do trỗi dậy hòa bình là kết quả cố gắng của
cả hai bên: Mỹ muốn cho phép Trung Quốc trỗi dậy hòa bình thì Mỹ không được tiến
hành chiến tranh lạnh để ngăn chặn, càng không được tiến hành áp chế về quân sự
và áp chế bằng chiến tranh.
Ngày 9 tháng 7 năm 2004, tờ “Tín báo” Hong Kong đăng
bài “Trên trái đất chưa bao giờ có trỗi dậy hòa bình”. Tác giả bài báo cho rằng:
“Trung Quốc hiện nay về mặt quan hệ đối ngoại, ngay cả nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
cũng rất căng thẳng. Nhiệm vụ chính của Trung Quốc giờ đây là phải giữ gìn tốt
chủ quyền của Hong Kong, Đài Loan, chớ để kẻ khác cuỗm mất. Nhiệm vụ giai đoạn
trung hạn là thay đổi môi trường xung quanh, chớ để cho thế lực nước khác bao
vây Trung Quốc như cái thùng tôn. Vào “thời điểm then chốt” vòng vây đó sẽ khiến
Trung Quốc kiếm không được nguồn năng lượng, kết quả là máy móc ngừng chạy,
thông tin gián đoạn, các thành phố tối om. Tất cả các cường quốc trên thế giới
đều mong muốn trỗi dậy hòa bình, không nổ một tiếng súng, không bắn một viên đạn;
thế nhưng trên trái đất này chưa hề xảy ra sự trỗi dậy hòa bình. Lịch sử trỗi dậy
của nước Mỹ là một bộ lịch sử chiến tranh; lịch sử Mỹ giành bá quyền cũng là lịch
sử chiến tranh; lịch sử nước Mỹ duy trì bá quyền cũng vẫn là lịch sử chiến
tranh. Trong thời đại vô chính phủ ngày nay, hòa bình là nguyện vọng, bá quyền
là sự thực, tự vũ trang bản thân là điều căn bản. Nhật Bản giàu có rồi nhưng vì
ỷ lại Mỹ về quân sự nên chưa thể trỗi dậy. Mỹ tuy trỗi dậy rồi nhưng vẫn không
ngừng tăng chi phí quân sự, giữ ưu thế quân sự tuyệt đối. Chỉ vì giữ nhà giữ nước
mà Trung Quốc cần có bom nguyên tử, cần có khí phách anh hùng của chiến tranh
Triều Tiên, cần có quân đội lớn mạnh”. Quan điểm của tác giả bài viết nói trên
rất có tầm nhìn.
Đúng thế, cộng đồng quốc tế trước đây không có trỗi
dậy hòa bình, nhưng điều đó không có nghĩa là từ nay trở đi sẽ không có trỗi dậy
hòa bình. Trung Quốc đã làm một tiền lệ trỗi dậy hòa bình cho trái đất này
trong tình hình xưa nay chưa từng có trỗi dậy hòa bình. Nhưng để tạo ra tiền lệ
đó cần có sự cố gắng chung của Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt cần có hành động văn
minh và tiến bộ của nước Mỹ.
Sau chiến tranh lạnh, Mỹ thông qua việc mở rộng NATO
về phía Đông để khống chế Nga và ở châu Á, Mỹ áp dụng chiến lược bao vây Trung
Quốc: tại phía Đông Trung Quốc, Mỹ cùng Nhật, Hàn Quốc lập liên minh quân sự, lợi
dụng Đài Loan kiềm chế Trung Quốc; ở phía Tây Nam, Mỹ ủng hộ Ấn Độ bành trướng
trên tiểu lục địa Nam Á; tại biển Nam Trung Hoa, Mỹ cũng tích cực hành động,
kín đáo đẩy mạnh việc liên minh các quốc gia vùng này để đối phó Trung Quốc. Có
thể thấy, để trỗi dậy hòa bình, Trung Quốc tất phải trỗi dậy về quân sự. Lực lượng
quân sự Trung Quốc càng mạnh, sức răn đe
đối với chủ nghĩa bá quyền càng lớn thì càng có lợi cho sự trỗi dậy hòa bình của
Trung Quốc.
Phát triển hòa bình, trỗi dậy hòa bình đã trở thành
lợi ích quốc gia cốt lõi của Trung Quốc trong thế kỷ XXI. Quyền phát triển, quyền
trỗi dậy đã trở thành chủ quyền quốc gia Trung Quốc ắt phải bảo vệ. Nếu có thế
lực nào cản trở và ngăn chặn sự phát triển và trỗi dậy của Trung Quốc, nếu sự
ngăn chặn ấy vượt quá hạn độ “ngăn chặn hòa bình” mà dùng thủ đoạn vũ lực tiến
hành “ngăn chặn bằng chiến tranh” thì Trung Quốc ắt phải chiến đấu để bảo vệ sự
phát triển và trỗi dậy của quốc gia mình.
Không được biến dân tộc Trung Hoa thành một “dân tộc
kinh tế”
Trỗi dậy về kinh tế mà không kèm theo trỗi dậy về
quân sự là sự trỗi dậy nguy hiểm, vì nó sẽ làm cho một dân tộc biến ra thành
dân tộc kinh tế. Weber[10] nói: “Cần phải chuyển biến từ một dân tộc kinh tế
thành một dân tộc chính trị, trở thành một dân tộc chín muồi về chính trị”.
Theo cách nói của Weber, “Dân tộc kinh tế là một dân tộc chưa chín muồi về chính
trị”, biểu hiện rõ nhất là say mê với “phương thức dùng kinh tế học để xem xét
mọi vấn đề”, biến mục tiêu của dân tộc mình thành mục tiêu kinh tế. Biểu hiện nổi
bật là ở chỗ: một, khi xác định chính sách kinh tế thậm chí chính sách đối ngoại
của nhà nước lại quên mất sứ mệnh chính trị của quốc gia dân tộc; hai, đơn giản
đánh đồng sự phồn vinh kinh tế với sự lớn mạnh của quốc gia, tuy rằng mức độ
giàu có thì khác với mức độ an ninh quốc gia. Cần có quyết tâm và năng lực chuyển
hóa một phần của cải thành năng lực bảo đảm an ninh.
Dân tộc kinh tế là dân tộc sẽ gặp nguy hiểm, sẽ làm
cho một dân tộc biến ra thành “động vật kinh tế”, khiến cho dân tộc đó đi lên
con đường giàu mà yếu, giàu mà suy, giàu mà mất nước. Machiavelli[11] cho rằng
xây dựng quân đội là cái gốc của việc xây dựng đất nước, quân đội mạnh là nền
móng của việc cai trị thế gian. Hồi ấy ông đã chứng kiến các thành bang nước Ý
như Florence, Milan tuy giàu có của cải nhưng lại không yên được lòng dân,
không thắng được giặc ngoài; điều đó khiến ông xúc động sâu sắc. Ông cho rằng
kinh tế quá phồn vinh, mọi người quá theo đuổi phúc lợi sẽ khiến cho phong tục
tập quán xã hội suy đồi, dân tộc mất tinh thần chiến đấu, đất nước sớm muộn sẽ
suy yếu thất bại.
[10] Weber: Có
nhiều người cùng tên Weber; ở đây có lẽ tác giả muốn nói về Max Weber, người Đức,
1864-1920, một trong 3 nhà tiên phong về lý thuyết quản lý cổ điển, người đặt nền
móng cho ngành xã hội học.
[11] Machiavelli
tức Nicolo Machiavelli, 1469-1527, nhân vật trung tâm của bộ máy chính trị nước
Ý thời kỳ Văn nghệ phục hưng, nhà chính trị nhân văn kiệt xuất kiêm nhà thơ,
nhà âm nhạc; có cống hiến lớn về chính trị, quân sự, văn học; nổi tiếng với hai
tác phẩm The Prince (Bàn về Quân chủ) và Discourses on Livy (Bàn về chủ nghĩa cộng
hòa).
Hà Lan đi lên con đường lầm lạc làm một dân tộc kinh
tế, bài học này rất đau xót. Nước đầu tiên ở châu Âu tiếp thu tư tưởng cải cách
quân sự của Machiavelli không phải là một nước lớn mà là một nước nhỏ xíu - Hà
Lan. Nước này hồi ấy gọi là Netherlands (nghĩa là “vùng đất thấp”), ban đầu là
thuộc địa của Tây Ban Nha, từ năm 1568 dân Hà Lan phát động cuộc chiến tranh độc
lập, kiên trì cho đến năm 1648 mới chính thức giành được độc lập, tổng cộng lâu
tới 80 năm. Hồi ấy, Tây Ban Nha là cường quốc thế giới, người Hà Lan muốn lấy
nhỏ thắng kẻ địch lớn thì ắt phải tìm kiếm biện pháp khác thường có thể tăng cường
và nâng cao sức chiến đấu. Họ tìm được con đường đặc biệt là làm cuộc cách mạng
quân sự. Từ đó Hà Lan trở thành nơi phát xuất cuộc cải cách quân sự của châu Âu
và là nhà tiên phong trong cuộc cách mạng quân sự ở châu Âu. Thành tích cải
cách quân sự của Hà Lan được các nước châu Âu quan tâm rộng rãi. Nhiều thanh
niên có chí nghiên cứu học thuật quân sự đều hăng hái đến Hà Lan để tiếp nhận
giáo dục quân sự. Đến Hà Lan học quân sự trở thành phong trào hồi ấy. Thế nhưng
người ta thường chỉ nhìn thấy sáng tạo về kinh tế của Hà Lan trỗi dậy mà chưa
thấy những sáng tạo về quân sự của họ trong sự trỗi dậy đó.
Sự trỗi dậy của Hà Lan bắt đầu từ cuộc chiến tranh
giành độc lập dân tộc, nhưng “thương mại là chính trị của chính phủ Hà Lan”. Để
phát triển thương mại viễn dương, Hà Lan rất chú trọng xây dựng quân đội và họ
có một lực lượng hải quân hùng hậu. Trong cuộc chiến tranh Anh - Hà Lan lần thứ
nhất, trong mỗi chiến dịch, Hà Lan đều có thể huy động trên 200 tàu chiến, các
tàu này trang bị 6.000 - 8.000 khẩu pháo lớn và chở theo 20 - 30 nghìn thủy
binh. Trong cuộc chiến tranh Anh - Hà Lan lần thứ hai, hải quân Hà Lan từng
xông vào tận sông Thames của Anh Quốc, trực tiếp đe dọa thành London. Trong các
trận hải chiến, hạm đội Hà Lan chẳng những nhiều lần đánh bại hạm đội Tây Ban
Nha ở Slake, Dunkir và Dans, có khi còn một mình đối địch với liên quân Anh,
Pháp, Thụy Điển, Đức mà không hề tỏ ra yếu kém. Trong cuộc đấu tranh giành giật
thuộc địa với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sở dĩ Hà Lan đi sau đến trước là do họ
có ưu thế quân sự. Hà Lan có ưu thế về kỹ thuật quân sự: công nghệ đóng tàu chiến
của họ, nhất là công nghệ đặt trọng pháo trên tàu, đều là tấm gương để các nước
châu Âu học hỏi. Đại đế Peter I rất hâm mộ ngành đóng tàu của Hà Lan, chính ông
đã hai lần sang Hà Lan học nghề đóng tàu.
Hà Lan là một kho của được bảo vệ bằng hạm đội.
Nhưng ngày 11 tháng 4 năm 1713, người Hà Lan đã ký hòa ước với Pháp, Tây Ban
Nha, Anh, Thụy Điển nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh giành ngôi vua ở Tây Ban
Nha, đồng thời cũng kết thúc tác dụng của nước Cộng hòa Hà Lan vĩ đại. Sau hơn
một thế kỷ làm cường quốc châu Âu, nước Cộng hòa này tự nguyện rút ra khỏi hàng
ngũ cường quốc. Quân đội Hà Lan bị tước vũ khí, tàu chiến hạm đội bị bỏ không
cho tới mục nát trong các hải cảng, các tướng lĩnh và đô đốc cởi bỏ quân phục về
nhà lĩnh lương hưu. Vị trí của các tướng lĩnh được thay bằng các nhà ngoại giao
để tóc dài và rủng rỉnh tiền của. Số tiền bạc ấy được dùng để mua hòa bình. Tìm
kiếm hòa bình bằng bất cứ giá nào thậm chí dùng cả những thủ đoạn mờ ám, trở
thành quốc sách mới của nước cộng hòa.
Trong suốt thế kỷ XVIII, Hà Lan không thực sự xây dựng
quân đội; đây là một hành động tự sát. Nước Cộng hòa Hà Lan từng là cường quốc
chủ yếu trên biển nay không thể không chiêu mộ sĩ quan hải quân từ nước ngoài.
Hạm đội Hà Lan nhỏ yếu nhiều lần về nước cùng với những tin thua trận nhục nhã.
Các thương nhân Hà Lan trên Đại Tây Dương và các tàu cá Hà Lan trên Biển Bắc
lâm vào tình cảnh bị nước khác bắt giữ, xua đuổi, phải trốn đi khắp nơi.
Trên đất nước Hà Lan không ngừng suy yếu trong thế kỷ
XVIII, mọi người chỉ biết gào lên chúng tôi cần tiền, tiền, nhiều tiền nữa vào.
Người Hà Lan vứt đi “túi đạn” trên người mình, còn “túi tiền” của họ cũng trở
thành vật săn lùng của lũ cướp biển.
Nước Pháp cũng có bài học về mặt này. Tướng Pháp
Beaufre viết trong sách “Năm 1940: sự sụp đổ của nước Pháp”: Cho tới đêm trước
Thế chiến II nước Pháp còn tương đối ổn định về mặt kinh tế, nhân dân hưởng cuộc
sống giàu có sung sướng. Tình hình kinh tế Pháp tương đối tốt nhưng tình hình
chính trị lại rất tồi tệ. Khi Thế chiến II nổ ra, người Pháp không còn đoàn kết
nhất trí trung thành với đất nước như hồi năm 1914, nước Pháp không có nhà lãnh
đạo kiệt xuất, cả nước trên dưới sống trong bầu không khí chính trị hỗn loạn,
bước vào chiến tranh với đầu óc mơ hồ, trong nước tràn đầy tâm lý chán ghét chiến
tranh, nhiều người thà chịu đựng bất kỳ nỗi nhục nhã nào chứ không dám liều
thân quyết chiến. Trước chiến tranh, một nhà văn Đức từng có lời bình luận sâu
cay như sau: “Pháp là một dân tộc hấp hối chết tiêu chuẩn. Dân tộc này đã không
có mục đích hoặc giá trị. Dân nước họ từ lâu đã đánh mất vinh dự và tinh thần
truyền thống của mình. Họ buông xuôi bỏ mặc cho số phận tự sinh tự diệt mà bất
tất phải coi trọng điều đó”. Sự việc nước Pháp nhanh chóng sụp đổ vào năm 1940
đã chứng minh điều này.
Người Mỹ nhất thế giới về tinh thần thương mại, của
cải của họ cũng nhất thế giới, song dân tộc Mỹ không phải là dân tộc kinh tế.
Giáo sư Joseph Nye ở Học viện Chính trị Kennedy thuộc Đại học Harvard từng nói:
“Sức mạnh quân sự cũng rất quan trọng. Tôi cho rằng địa vị quân sự của nước Mỹ
là nòng cốt của quốc lực nước này”. Tại Mỹ, những nhân tài tố chất cao không phải
đều làm việc trong các ngành nghề và lĩnh vực có lợi nhuận cao. Theo điều tra,
số người có học vị từ thạc sĩ trở lên chỉ chiếm 19% trong tầng lớp giám đốc thuộc
giới doanh nhân Mỹ, nhưng lại chiếm 88% trong tổng số sĩ quan cấp chuẩn tướng.
Tại Mỹ, đội ngũ nhân tài phục vụ công việc quân đội có ưu thế về học lực cao gấp
bốn lần so với đội ngũ nhân tài làm việc trong các ngành kinh tế. Cường quốc
kinh tế Mỹ thực sự là quốc gia lấy địa vị quân sự làm nòng cốt quốc lực.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc cần phải thống nhất nước
giàu với quân đội mạnh, vừa phải trỗi dậy thành cường quốc kinh tế lại vừa phải
trỗi dậy thành cường quốc quân sự, quyết không được trở thành một “dân tộc kinh
tế” béo mỡ mà không có xương cốt, có sức nặng mà không có sức mạnh.