Giấc mơ Trung Quốc - Chương 07 - Phần 01

Chương VII: NƯỚC LỚN TRỖI
DẬY TẤT PHẢI CÓ ĐẠI QUÂN

Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc trỗi dậy, để đối phó với
sự đe dọa của Mỹ, để bảo đảm không xảy ra đại chiến với Mỹ, Trung Quốc ắt phải
có đại quân [quân đội lớn mạnh]. Đây là khoản đầu tư an ninh, đầu tư phát triển
và đầu tư trỗi dậy Trung Quốc tất phải tiến hành. Trung Quốc cần chuyển hóa một
phần sức sản xuất thành sức chiến đấu, chuyển hóa một phần của cải thành năng lực
quân sự, biến một số “túi tiền” thành “túi đạn”.

I. Sự phục hưng vĩ đại kêu gọi “Tinh thần thượng võ”

Từ mùa thu năm 1894, tại Honolulu Tôn Trung Sơn
thành lập “Hưng Trung Hội”, đưa ra khẩu hiệu “Chấn hưng Trung Hoa”, cho tới cuối
thế kỷ XX lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất “thực hiện sự phục hưng vĩ đại
dân tộc Trung Hoa”, hơn một thế kỷ qua dân tộc Trung Hoa tiến lên, quyết đấu
trên hành trình chấn hưng và phục hưng. Giờ đây Trung Quốc đang trỗi dậy, đang
thực hiện phục hưng, dân tộc ta vẫn cần gắng sức. Nhưng để thực hiện sự phục
hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, tất phải phục hưng tinh thần thượng võ của
dân tộc Trung Hoa. Trong các thời đại lịch sử khác nhau, tinh thần thượng võ có
những hàm nghĩa khác nhau. Trong thế kỷ XXI, tinh thần thượng võ của Trung Quốc
trong tiến trình phục hưng vĩ đại và trỗi dậy với thế mạnh là một loại tinh thần
dám liều mình vì mạng sống và sự sinh tồn của dân tộc, là một loại tinh thần
dám tăng cường sức mạnh quân sự vì sự phục hưng vĩ đại của quốc gia, là loại
tinh thần dám làm chiến tranh vì hòa bình và phát triển.

Trung Quốc thời đại Hán - Đường là “Trung Quốc anh
hùng”

Ngày 23 tháng 6 năm 1924, khi tiếp đoàn đại biểu giới
lao động Phillippines, Tôn Trung Sơn nói: “2.000 năm trước Trung Quốc cực mạnh,
không chỉ hùng cứ phương Đông mà còn làm châu Âu rung chuyển”.

2.000 năm trước Trung Quốc có thể hùng cứ phương
Đông, nền tảng của sự “hùng cứ” ấy là tinh thần thượng võ. Tinh thần thượng võ
của dân tộc Trung Hoa ở các thời đại khác nhau có những nhân vật đại diện và
hình thức biểu hiện khác nhau. Trong thời đại đặt nền móng và thời đại đỉnh
cao, có ba nhân vật anh hùng từng có tác dụng có tinh tiêu chí đối với sự hình
thành tinh thần thượng võ và sáng tạo văn hóa thượng võ của dân tộc Trung Hoa.

Người đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Ông tập trung truyền
thống thượng võ của cuộc chinh chiến lâu dài của Ngũ Bá Xuân Thu[1] và Thất
Hùng Chiến Quốc[2], dẹp yên 6 nước trong cuộc chiến tranh thống nhất Trung Quốc,
thực hiện nhất thống thiên hạ. Là vị hoàng đế duy nhất trong cả nghìn năm thống
nhất được Trung Quốc bằng vũ lực, thực tiễn thành công thống nhất thiên hạ của
ông nói lên một đạo lý: không có tinh thần thượng võ thì không có sự thống nhất
Trung Quốc. Tinh thần thượng võ của Tần Thủy Hoàng thể hiện nổi bật ở cái “thống”
mà ông tôn sùng, tức tôn sùng sự thống nhất quốc gia, thực hiện thiên hạ nhất
thống.

[1] Ngũ Bá Xuân
Thu: Thời Xuân Thu (770-476 trước CN),
Trung Quốc chia làm hơn 140 tiểu quốc chư hầu, đánh nhau liên miên, thôn tính
nhau, cuối cùng còn 5 nước lớn mạnh lại tiếp tục đánh nhau giành quyền bá chủ
thiên hạ. Vua của 5 nước chư hầu tranh bá chủ lớn nhất là Tề Hoàn Công, Tống
Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Công được sử Trung Quốc gọi
là “Xuân Thu Ngũ Bá”, tức 5 bá chủ thời Xuân Thu.

[2] Thất Hùng
Chiến Quốc: 7 nước chư hầu mạnh nhất cuối thời Đông Chu thuộc thời kỳ Chiến Quốc
(475-221 trước CN), là các nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần.(221 tr. CN
Tần hoàn tất việc diệt 6 nước, thống nhất Trung Quốc).

Người thứ hai là Hán Vũ Đế. Tính cách dân tộc của
Hán Vũ Đế thể hiện không chỉ là yêu hòa bình mà hơn nữa, là không sợ chiến
tranh. Văn hóa chính trị, ngoại giao và văn hóa quân sự của Hán Vũ Đế không những
là văn hóa hòa hảo kết thân mà còn là văn hóa chinh chiến; không chỉ là văn hóa
phòng ngự mà còn là văn hóa tấn công. Trung Quốc thời đại Hán Vũ Đế nếu chỉ yêu
hòa bình mà không dám chiến tranh, nếu chỉ dựa vào hòa hảo kết thân, dựa vào
phòng ngự thôi thì kết quả chẳng phải là Hung Nô bị đánh đuổi mà là Trung
Nguyên bị nô dịch. Thực tiễn thành công của Hán Vũ Đế dùng vũ lực đánh bại Hung
Nô, dùng tấn công diệt tận gốc mọi tai họa của đất nước đã chứng minh một đạo
lý: Không có tinh thần tấn công thì khó có thể xóa bỏ tận gốc các nỗi lo nghĩ sống
còn của dân tộc, khó có thể làm cho đất nước giành được quyền chủ động chiến lược
sinh tồn lâu dài và phát triển ổn định. Tinh thần thượng võ trên người Hán Vũ Đế
thể hiện nổi bật là tinh thần tấn công, tinh thần viễn chinh. Nhưng Trung Quốc
sau đời Tống do thiếu tinh thần tấn công và tinh thần viễn chinh đó mà luôn
luôn gặp họa, cuối cùng bao giờ cũng rơi vào cảnh tranh cãi liên miên giữa hai
phái chủ “hòa” và chủ “chiến”, hạn chế và lần lữa dây dưa giữa hai chủ trương
này, đi tới thất bại và diệt vong trong sự thỏa hiệp bị động, nhường nhịn và bất
đắc dĩ.

Người thứ ba là Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Trong lịch
sử Trung Quốc, triều đại nhà Đường được gọi là “Đại Đường”. Cái lớn của Đại Đường
không chỉ lớn ở cương vực, lớn về quy mô của cải và cái lớn của hoài bão mở cửa
với thế giới, mà là sự “lớn mạnh” vô song trên thế giới hồi đó. Hiện tượng
“Muôn nước đến triều cống” thời đại Thịnh Đường nói lên cái ơn (sức mạnh mềm)
và cái uy (sức mạnh cứng) của triều nhà Đường đều đạt tới trình độ cao nhất thế
giới. Sự vẻ vang của Đại Đường trong lịch sử Trung Quốc chứng minh một đạo lý:
thượng võ ắt phải tôn sùng sức mạnh, một dân tộc thượng võ tất nhiên phải là một
dân tộc “tôn sùng sức mạnh” chứ không phải chỉ là một dân tộc “tôn sùng sự giàu
có”. Nếu chỉ tôn sùng của cải, không thể kết hợp giàu với mạnh, kết quả ắt là
càng giàu thì càng không an toàn.

Sự thống nhất thiên hạ của Hoàng đế nhà Tần, uy vũ của
đời Hán - Đường không những lập công trạng cho thời ấy mà còn để lại cơ nghiệp
muôn đời. Trong lịch sử Trung Quốc, các thời hưng thịnh đều được tạo dựng nên bằng
vũ lực, đều được xây dựng trên cơ sở thượng võ thiện chiến và quân sự lớn mạnh.
Khí phách coi thường mọi kẻ anh hùng, dẹp yên thiên hạ mà Tần Thủy Hoàng thể hiện
trong sự nghiệp thống nhất Trung Quốc, sự quả cảm lấy tấn công làm phòng thủ,
viễn chinh ngàn dặm mà Hán Vũ Đế thể hiện khi xuất kích đánh Hung Nô, hoài bão
hào hùng của cục diện “Muôn nước đến triều cống” mà Đường Thái Tông dùng võ
công vô song sáng lập nên đã thể hiện tính chất chiến đấu quý báu của dân tộc
Trung Hoa. Đây là cái gene tinh thần thượng võ của dân tộc Trung Hoa. Người các
thế hệ sau vì làm suy yếu tính cách chiến đấu của tổ tiên mà kết quả hết lần
này đến lần khác bị đánh, bị xỉ nhục. Sự biến chất tính cách chiến đấu của dân
tộc Trung Hoa đã dẫn tới biết bao nhiêu tấn bi kịch lịch sử. Chỉ sau khi đảng Cộng
sản Trung Quốc đi lên vũ đài lịch sử Trung Quốc thì tính cách chiến đấu của dân
tộc Trung Hoa mới được phát huy rực rỡ.

Có thể nói tinh thần thượng võ của dân tộc Trung Hoa
được thể hiện đầy đủ trong tinh thần thống nhất đất nước của Tần Thủy Hoàng,
tinh thần tấn công viễn chinh của Hán Vũ Đế, tinh thần dùng võ công để dựng nước,
làm đất nước hùng mạnh của Đường Thái Tông, tinh thần chiến đấu dùng chiến
tranh chính nghĩa để cứu nước, giữ nước của Mao Trạch Đông.

Có một chuyện vui như sau: có người chủ trương sửa
totem của Trung Quốc từ “rồng” thành “gấu mèo” với lý do: “rồng” Trung Quốc
trong tiếng Anh là “dragon”, theo nghĩa tiếng Anh là một con vật khổng lồ đầy
tính tấn công và khí thế bá chủ. Rồng bay khắp thiên hạ khiến người khác cảm thấy
bị đe dọa, lo ngại, khó yên tâm. Rồng đại diện cho Trung Quốc cổ đại, nay nên lấy
gấu mèo làm totem của Trung Quốc hiện đại, vì gấu mèo hiền lành, không có sức tấn
công, ai trông thấy cũng mến. Cuộc tranh cãi về totem rồng có nhiều ngụ ý.

Gấu mèo đại diện cho sự tốt lành, nhưng nó không đại
diện cho sự an toàn. Gấu mèo Trung Quốc là loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng,
có thể sinh sôi nẩy nở nhờ vào sự bảo vệ đặc biệt của nhà nước, nhưng sự an
toàn và trỗi dậy của một nước lớn thì không ai khác có thể bảo vệ được.

Tinh thần thượng võ là trụ đá và cốt cách của tòa
lâu đài tinh thần và văn hóa dân tộc của một quốc gia, không có “văn hóa” của
“vũ hóa”, không có văn hóa của tinh thần thượng võ thì chỉ là một đống mỡ văn
hóa. Thực hiện sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa có nghĩa là phải phục hưng
tinh thần thượng võ, tái chấn hưng uy phong hùng vĩ đời Hán - Đường.

Trung Quốc sau đời Tống là “Trung Quốc văn nhược”

Trước đời Đường, ưu thế thượng võ thiện chiến của
dân tộc Trung Hoa được phát huy bình thường, nhưng về sau tinh thần thượng võ bị
nhạt nhòa dần, bị suy yếu đi. Ở thời đại Tiên Tần, từng có từ “quân tử” với hàm
nghĩa “dũng sĩ”; về sau bỗng dưng trở thành đại danh từ “khiêm khiêm quân tử” với
nghĩa nho nhã yếu ớt. Bọn thống trị nhiều triều đại có mốt thời thượng nghỉ việc
võ, lo việc văn, cả dân tộc vùi đầu làm kinh tế, tập đoàn tinh anh cả đời chỉ
lo nghiên cứu các sách kinh điển, tinh thần sức lực đều tiêu hao hết vào kinh
sách Nho giáo. Đối ngoại thì thỏa hiệp lùi bước, triết học chủ hòa trở thành
triết học dòng chính, phái chủ hòa phần lớn là phái chủ đạo, phái dòng chính. Kết
quả là giang sơn tươi đẹp bị ngoại địch giày xéo, của cải văn minh trở thành miếng
mồi săn đuổi của kẻ mạnh, đến nỗi trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, lãnh tụ
Hoa kiều yêu nước Trần Gia Khang từng nói với phái chủ hòa, phái đầu hàng: “Kẻ
địch chưa ra khỏi nước chúng mà ta đã có kẻ nói hòa, kẻ đó tức là Hán gian”.
Sái Nguyên Bồi khi làm hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh cũng đặc biệt nhấn mạnh cần
bồi dưỡng tinh thần thượng võ cho học sinh, xoay chuyển mặt nhu nhược trong văn
hóa Trung Quốc.

Triều đại nhà Tống là điểm ngoặt trong quá trình làm
suy yếu tinh thần thượng võ của dân tộc Trung Hoa. Các bài học về tinh thần thượng
võ của triều nhà Tống thể hiện trên năm mặt sau:

1. Quốc sách cơ bản trọng văn khinh võ. Cung cách mở
nước của nhà Tống khác với nhà Hán, nhà Đường. Triệu Khuông Dận qua cuộc binh
biến Trần Kiều mà lên ngôi vua. Tiếp thu bài học quân nhân ủng hộ việc lập vua
của thời kỳ Ngũ Đại[3], để khống chế quân quyền, đề phòng quân nhân làm đảo
chính, ông áp dụng quốc sách trọng văn khinh võ. Nhà Tống thực hiện nguyên tắc
“văn nhân quản lý quân đội”, chính quyền tôn trọng và ưu đãi quan văn, coi nhẹ
và ức chế quan võ. Lưu Khắc Trang đời Nam Tống có câu thơ: “Vua cha dựng nước sử
dụng bọn nhà nho; phần lớn danh sĩ chỉ lo việc bút nghiên”[4]. Tuy nhà Tống có
thể miễn cưỡng thống nhất Trung Nguyên nhưng trước sau đều không thể xây dựng
được quốc lực cường thịnh như nhà Tùy Đường, không có phong độ và khí thế của một
đại đế quốc, luôn luôn an phận thủ thường, không thể giải quyết các tai họa đến
từ nước ngoài, không thể đối kháng sự bắt nạt của nước ngoài, hình thành sự
tương phản rõ ràng giữa “nhà Đường cường thịnh” với “nhà Tống suy nhược”.

[3] Ngũ Đại tức
5 đời: sau đời Đường, thời gian 907~960 tại miền Bắc Trung Quốc lần lượt lập 5
chính quyền Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu; lịch sử gọi là Ngũ Đại.

[4] Nguyên văn
chữ Hán: Tiên hoàng lập quốc dụng văn nho, kỳ sĩ đa vi bút mặc câu.

2. Sai lầm về tư tưởng chiến lược. Điều này thể hiện
nổi bật ở chính sách “Nam trước Bắc sau”, “Định đô Khai Phong”. Khi dựng nước,
Triệu Khuông Dẫn không tiếp tục áp dụng chiến lược Bắc phạt của Thế Tông hậu
Chu mà nghe kiến nghị của Triệu Phổ, đưa ra một quyết sách quan trọng mà không
sáng suốt là thay đổi chiến lược Bắc phạt, áp dụng kế hoạch tác chiến Nam trước
Bắc sau. Vì hồi ấy các chư hầu ở miền Nam tương đối nhỏ yếu dễ chinh phục, còn
các Liêu quốc ở phương Bắc thì tương đối lớn mạnh, không dễ đánh bại, cho nên
đã chọn nhẹ tránh nặng. Đây quả là một quyết định sai lầm, chờ bình định xong
miền Nam mới đánh dẹp phương Bắc, lúc ấy binh lực đã như kẻ mạnh lúc về già, cơ
hội chiến lược đã bỏ lỡ, thế là nhà Tống bỏ mất cơ hội thống nhất miền Bắc,
chính quyền yên phận trở thành cục diện đã định. Sau khi bình định phương Nam
xong, Tống Thái Tổ mới bắt đầu Bắc phạt, sinh thời ông đã ba lần tấn công
phương Bắc song đều mất công vô ích. Nhà chính trị cần phải trước tiên đánh bại
kẻ địch mạnh ngay vào lúc mới dựng nước, khi sĩ khí đang cao nhất, uy danh quốc
gia mạnh nhất. Nhà Tống trước sau đều chủ trương an phận, không thể thống nhất
Trung Quốc, nguyên nhân quan trọng là ở sai lầm quyết sách chiến lược Nam trước
Bắc sau.

Xét về quan
điểm địa lý, việc nhà Tống quyết định đặt kinh đô tại Khai Phong cũng là một
quyết sách không thích đáng. Bởi lẽ trong tình hình hồi ấy nếu kẻ địch cho kỵ
binh đánh thẳng vào thì chỉ cần 3 - 4 ngày là đến được bờ bắc Hoàng Hà. Khai
Phong ở bờ nam Hoàng Hà, địa hình bằng phẳng, không có chỗ hiểm yếu nào có thể
phòng thủ. Do Ngũ Đại đều lấy Khai Phong làm quốc đô, nơi này lại có đường thủy
thuận tiện cho việc vận chuyển tiếp tế lương thực; hơn nữa hai địa điểm Trường
An, Lạc Dương đã bị phá hoại nặng trong chiến tranh, đây rõ ràng là những lý do
để nhà Tống chọn Khai Phong làm địa điểm định đô, nhưng quyết sách thiển cận
này đã để lại hậu họa cho nhà Tống.

3. Khiếm khuyết về thể chế chiến lược. Khiếm khuyết
này thể hiện nổi bật ở chủ trương “Mạnh gốc yếu cành” và “Phân quyền kiểm
soát”. Nhà Tống áp dụng thể chế tập trung quyền lực vào trung ương, làm suy yếu
quyền lực ở địa phương; các châu, huyện ở địa phương chẳng những không có binh
lực để tự vệ mà cũng không có tài lực để xây dựng. Đặc biệt về mặt binh dịch,
nguồn cung cấp quân lính chủ yếu dùng chế độ chiêu mộ, kẻ tòng quân nếu không
phải là kẻ không nghề nghiệp thì cũng là kẻ vong mạng trốn chạy, chất lượng
kém. Sau đó lại chọn ra một số tương đối khá tập trung về kinh thành, gọi là “Cấm
quân”; những binh lính còn lại chất lượng kém thì chia đi đóng tại các địa
phương, gọi là “Sương quân”, loại này không có sức chiến đấu nhưng cũng hưởng
chế độ lương thực như cấm quân. Ngoài
ra cả đến bọn tội phạm cũng được đưa vào trại lính làm binh sĩ, đây là nguồn gốc
của từ “Sung quân”[5], chuyện này được kể lại trong tiểu thuyết Thủy hử.

[5] Sung quân:
đưa tội phạm tới vùng biên ải làm lính thú hoặc làm lao dịch, được coi là một tội
lưu đày.

Nhà Tống thực hiện nguyên tắc phân quyền kiểm soát,
nhưng kiểm soát quá mức, trở thành níu kéo nhau. Giữa ba chức vụ hoàng đế, tể
tướng, gián quan đã thực hiện kiểm soát nhưng không cân bằng, dẫn tới sự tê liệt
về chính trị. Tể tướng nhà Tống có quyền uy kém xa tể tướng nhà Đường, không được
tham dự việc quân chính, mà quyền quân lệnh là do Khu Mật Viện (tương tự bộ
tham mưu) chủ quản. Việc tài chính cũng do 3 Ty chủ quản (Ty Hộ Bộ, Ty Diêm Thiết,
Ty Độ Chi Sử), không chịu sự chi phối của tể tướng. Gián quan có quyền uy lớn,
có thể phê bình bất cứ vấn đề nào. Triệu Khuông Dẫn có lời thề giấu trong Thái
Miếu: “Không giết đại thần và nói chuyện quan”, vì các gián quan không biết sợ
ai, dám gây chuyện tranh cãi kịch liệt khiến cho chính quyền khó ra quyết sách
vào lúc nguy cấp. “Người nhà Tống chưa bàn bạc xong thì quân địch đã vượt qua
sông”, câu này diễn tả đúng tình hình hồi ấy.

4. Học thuật quân sự tách rời thực tiễn quân sự. Nhà
Tống tuy suy yếu và cuối cùng mất nước vì giặc ngoài, nhưng lại có một hiện tượng
kỳ lạ là về hai mặt vũ học và binh thư thì đời Bắc Tống có sự phát triển kỳ lạ,
thể hiện sự phồn vinh chưa từng có. Chính quyền Bắc Tống mở môn Vũ học, ban
hành “Vũ kinh”, về sau phát triển tới mức các châu huyện đều mở lớp Vũ học và đặt
chức bác sĩ Vũ học; hoàng đế lại ra lệnh hiệu đính 7 loại binh thư như “Tôn Tử”
làm giáo khoa thư tiêu chuẩn, trở thành “Vũ kinh Thất thư” lưu truyền đời sau.
Thời Bắc Tống, văn nhân bàn chuyện quân sự trở thành thói quen; sau khi chuyển
triều đình về miền Nam[6] thói quen này vẫn còn mạnh. Đáng tiếc là thời nhà Tống
tuy nhiều nhân tài biết bàn luận chuyện quân sự nhưng lại ít người thực sự biết
dụng binh. Nhà Tống yếu kém để lại một số lượng binh thư nhiều hơn bất cứ triều
đại nào trước đấy. Cố nhiên đó là do từ đời Tống bắt đầu có phát minh nghề in,
nhất là năm 1045 Tất Thăng phát minh con chữ rời, nhờ đó sách quân sự bản in đời
Tống rất nhiều và lưu truyền các đời sau. Nhưng điều đó cũng thể hiện vấn đề lý
luận quân sự đời nhà Tống mạnh, thực tiễn quân sự kém, bàn suông chuyện nước
khác.

[6] Di chuyển
triều đình về miền Nam: Ở đây nói việc
nhà Tống chuyển kinh đô xuống miền nam: năm 1127, triều đình Bắc Tống bị nhà
Kim (một liêu quốc ở phía Bắc) tấn công, chiếm kinh đô Khai Phong, bắt giam
vua. Nhà Tống tiếp tục chống lại nhà Kim. Năm 1411 hai bên thỏa thuận nhà Tống
cắt toàn bộ miền bắc Trung Quốc cho nhà Kim và chuyển kinh đô xuống miền nam
(Hàng Châu).

5. Sự tương phản giữa số lượng quân đội với chất lượng
quân đội. Nhà Tống là vương triều giàu nhất thế giới nhưng lại không phải là
vương triều nước giàu quân mạnh, mà là vương triều nước giàu quân yếu. Quân đội
nhà Tống lớn mà cồng kềnh, có số lượng mà không có chất lượng. Qua bảng dưới có
thể thấy quy mô số lượng quân đội nhà Tống.

Bảng 1. Tình hình phát triển số lượng quân đội nhà Tống

Niên đại

(công nguyên) Tổng
số binh sĩ (người) Số lượng Cấm
quân (người) Ghi chú

960 200.000 Năm dựng nước

968 378.000 193.000

995 666.000 358.000

1017 912.000 431.000

1041 1.259.000 826.000

1064 1.382.000 663.000

Từ Thái Tổ đến Nhân Tông, cách nhau chưa đầy 100
năm, quân đội nhà Tống tăng hơn 6 lần, nguyên nhân chính gồm: - quân đội tuyển
theo chế độ chiêu mộ có tỷ lệ đào ngũ rất cao; - số lính chết trận trong chiến
tranh rất lớn; - khai báo khống số lượng binh sĩ để chiếm đoạt tiền cấp phát là
hiện tượng có thực, công khai; - trong thời kỳ đói kém lấy dân đói ăn vào làm
lính, coi quân dịch là một cách cứu tế chống đói. Chế độ phục dịch suốt đời của
binh sĩ chiêu mộ từ 20 tuổi đến 60 tuổi, trên thực tế thời gian sử dụng chỉ có
20 năm, quá 20 năm rồi là ăn khống lương thực cấp phát. Sương quân không có sức
chiến đấu cũng ăn lương thực cấp phát đến lúc chết. Nuôi cả triệu quân, trong
đó Sương quân ít nhất có 40 vạn lính, trong 60 vạn Cấm quân lại có 1/3 là lính
già yếu, cộng thêm các khoản tiêu hao khác, thực sự binh sĩ dùng được nhiều nhất
không quá 30 vạn. Quân đội sinh hoạt kiêu căng sa đọa, nghe nói “Vệ sĩ đi nằm
phải có người hầu đắp chăn, khi đi lĩnh lương thực thì thuê người vác lương thực”,
đúng là lính công tử. Chi phí nuôi quân đời nhà Tống chiếm 5/6 toàn bộ tiền thuế
thu được. Một đội quân như vậy đúng là cồng kềnh yếu kém, vì thế nhà Tống không
tránh khỏi số phận bất hạnh.

Nhà Tống nho nhã yếu ớt khiến Trung Quốc phải trả
giá nặng nề. Về sau xảy ra việc hai dân tộc thiểu số biên cương là dân tộc Mông
Cổ và dân tộc Mãn hai lần chinh phục dân tộc Hán, hai lần làm chủ vùng Trung
nguyên, đây là biểu hiện điển hình của cái giá phải trả cho sự nho nhã yếu ớt ấy.
Sự suy yếu tinh thần thượng võ của Trung Quốc trở thành một thế lực thói quen,
sự “nho nhã yếu ớt” của tính cách dân tộc trở thành một kiểu văn hóa biến đổi
ngầm từng bước, khiến cho những dân tộc thiểu số kiêu dũng thiện chiến tràn đầy
khí thế chiến đấu hào hùng kia một khi đã vào Trung nguyên rồi thì chẳng bao
lâu sau cũng bị ăn mòn mục ruỗng, chỉ có thể ngồi kiệu chứ không còn cưỡi ngựa
bắn cung như xưa nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3